id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
24982
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Than (định hướng)
|
Than trong tiếng Việt có thể chỉ:
Các loại than thường gặp, trong công nghiệp và dân dụng, có thể là:
Than mỏ
Than nâu
Than đá
Than bùn
Than (nguyên tố) (carbon)
Than hoạt tính
Than gỗ
Than cốc
Than chì
Đơn vị đo diện tích than trong hệ đo lường cổ của Việt Nam. 1 than = 1 ngũ × 1 ngũ = 4 m².
Bệnh than
|
24984
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%B1c%20gi%C3%A1%20l%E1%BA%A1nh
|
Cực giá lạnh
|
Cực giá lạnh là một điểm trên bán cầu Bắc hoặc bán cầu Nam mà nhiệt độ không khí cực tiểu đã từng được ghi nhận.
Cực giá lạnh Nam
Trên bán cầu Nam thì cực giá lạnh nằm gần trạm Nam cực Sa-iu-dơ (gần Vostok), nơi mà vào ngày 21 tháng 7 năm 1983 đã ghi nhận được nhiệt độ thấp nhất trên Trái Đất là -89,3°C.
Cực giá lạnh Bắc
Trên bán cầu Bắc thì cực giá lạnh nằm tại miền Siberia, gần thành phố Oymyakon, nơi có nhiệt độ thấp nhất là -77,8 °C đã được ghi nhận vào ngày 26 tháng 1 năm 1938.
Tại núi Logan, Canada ngày 26 tháng 5 năm 1991, người ta đã đo được nhiệt độ trên đỉnh núi với độ cao 5959 mét là -77.5 °C (-106.6 °F)
Thông thường thì người ta hay dùng khái niệm điểm cực giá lạnh trong khuôn khổ cho mỗi quốc gia. Ví dụ như: Tại Ba Lan thì điểm cực giá lạnh nằm tại Suwałki, nơi có nhiệt độ không khí trung bình trong mùa đông thấp nhất. Nhưng nhiệt độ không khí trong ngày đạt cực tiểu (-41 °C, vào ngày 11 tháng 1 năm 1940) lại được ghi nhận tại Siedlce, là một vùng khác cách xa Suwałki gần 100 km.
Xem thêm
Cực bất khả tiếp cận
Điểm có nhiệt độ cao nhất đã từng được ghi nhận là 57.7 °C (135.9 °F) ngày 13 tháng 9 năm 1922 tại Al 'Aziziyah (tiếng Ả Rập: العزيزيه, xem List of weather records#Highest temperature ever recorded)
Các kỷ lục về thời tiết (List of weather records)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thời tiết
Địa lý học
Vùng cực Trái Đất
Khí hậu
Lạnh
|
24990
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Avril%20Lavigne
|
Avril Lavigne
|
Avril Ramona Lavigne (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1984), thường được biết đến với tên gọi Avril Lavigne, là một nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Canada. Cô sinh ra tại Belleville, Ontario nhưng tuổi thơ cô lại gắn liền với thị trấn nhỏ Napanee. Ở tuổi 15, cô đã được xuất hiện trên sân khấu cùng với Shania Twain; đến năm 16 tuổi, cô ký một hợp đồng thu âm 2 album với hãng ghi âm Arista Records và thu được 2 triệu đô-la. Trong năm 2002, khi cô gần 17 tuổi, Lavigne xâm nhập vào thị trường âm nhạc ra mắt album Let Go. Kề từ khi album đột phá cô đã bán được hơn 40 triệu album và hơn 50 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới. Cô được mệnh danh là "nữ hoàng nhạc pop punk".
Let Go giúp Lavigne trở thành nữ nghệ sĩ solo đầu tiên giành được ngôi vị quán quân ở Anh, album đã được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Tới năm 2009, album đã bán được tổng cộng hơn 16 triệu bản trên toàn thế giới. Đĩa đơn đột phá của cô, "Complicated", cũng giống như Let Go, đã giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Album thứ hai của Lavigne, Under My Skin, được phát hành năm 2004 và cũng là album đầu tiên của cô giành được ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ, đã nhanh chóng đạt doanh số hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới. The Best Damn Thing, album thứ ba của Lavigne và được phát hành trong năm 2007, đã nhanh chóng trở thành album thứ ba của cô leo lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng UK Albums Chart. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Girlfriend", là đĩa đơn đầu tiên của Lavigne giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ. Lavigne đã có tổng cộng sáu đĩa đơn quán quân trên toàn thế giới, đó là "Complicated", "Sk8er Boi", "I'm with You", "My Happy Ending", "Nobody's Home", và "Girlfriend". Với hơn 34 triệu bản album được tiêu thụ toàn cầu, cô trở thành một trong những nghệ sĩ có album phát hành bán chạy nhất tại Mỹ, với hơn 11 triệu album được chứng nhận bởi RIAA. Album phòng thu thứ tư của Lavigne, Goodbye Lullaby, được phát hành vào tháng 3 năm 2011. Goodbye Lullaby giúp Lavigne có được bốn album lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và UK Albums Chart, và cũng là album thứ ba của cô đạt được ngôi vị quán quân ở Nhật và Úc. Chỉ ba tháng sau khi phát hành Goodbye Lullaby, Lavigne đã bắt đầu làm việc cho album phòng thu thứ năm của mình, album được phát hành bởi hãng ghi âm Epic Records, sau khi cô rời khỏi RCA Records.
Ngoài công việc thu âm, Lavigne cũng theo đuổi sự nghiệp diễn xuất bằng một số vai diễn trong các bộ phim hành động, và đồng thời cô cũng thực hiện công việc thiết kế thời trang và nước hoa. Cô từng tham gia lồng tiếng cho một nhân vật trong bộ phim năm 2006, Over the Hedge. Cũng trong năm đó, cô ra mắt công chúng trên màn ảnh rộng với bộ phim Fast Food Nation. Năm 2008, cô giới thiệu tới mọi người thương hiệu thời trang của riêng cô, Abbey Dawn, và tới năm 2009, cô phát hành sản phẩm nước hoa đầu tiên, Black Star, tiếp sau đó là Forbidden Rose năm 2010,
và cuối cùng, sản phẩm nước hoa thứ ba của cô, Wild Rose, được phát hành năm 2011. Tháng 6, 2006, Lavigne tổ chức lễ cưới với người bạn trai hai năm của cô, Deryck Whibley, ca sĩ hát chính và cũng là guitar trưởng của ban nhạc Sum 41. Cuộc hôn nhân của họ chỉ kéo dài hơn ba năm, và trong tháng 10 năm 2009, Lavigne đã đệ đơn ly dị. Dù vậy, Whibley và Lavigne vẫn tiếp tục làm việc cùng nhau, với Whibley là nhà sản xuất cho album phòng thu thứ tư của cô, cùng với đĩa đơn "Alice", được sáng tác riêng cho bộ phim Alice ở Xứ sở Thần tiên của đạo diễn Tim Burton.
Thời thơ ấu
Lavigne chào đời vào ngày 27 tháng 9 năm 1984 tại Belleville, Ontario, Canada. Bố mẹ của cô là Judy và John Lavigne. Mẹ của Lavigne là người đầu tiên phát hiện ra tài năng của cô. Năm 2 tuổi Avril đã bắt đầu hát cùng với mẹ trong những bản nhạc thánh ca ở nhà thờ. Năm Avril 5 tuổi gia đình cô đã chuyển đến Napanee, một thị trấn nhỏ ở tiểu bang Ontairio.
Năm 1998 Avril đã giành chiến thắng trong cuộc thi tìm kiếm ca sĩ hát cùng với Shania Twain trong tour diễn của Twain ở Canada. Avril xuất hiện trên sân khấu và chiếm được cảm tình của khán giả đồng thời lọt vào mắt của nhà quản lý chuyên nghiệp, ông Cliff Fabri, người quản lý đầu tiên của cô.
Sau khi nhận ra khả năng tiềm tàng của Avril, hãng Arista A&R bắt đầu tung mạng lưới tìm kiếm mở rộng, bắt tay với nhà sản xuất kiêm nhạc sĩ Curt Frasca và Sabelle Breer nhằm giúp giọng ca của cô tỏa sáng hơn nữa. Abum đầu tay Let Go được ra đời đã đánh dấu cột mốc thành công trong sự nghiệp của Lavigne
Sự nghiệp âm nhạc
2000–03: Let Go
Let Go xuất hiện ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album ở Úc, Canada và Vương quốc Anh. Ở tuổi 17, Avril trở thành nữ nghệ sĩ trẻ tuổi nhất có album đứng đầu trên bảng xếp hạng album ở Vương quốc Anh tính vào thời điểm đó.
Let Go là một album pop/rock trong đó có những ca khúc mang âm hưởng của altermative rock.
Sau 6 tháng, "Let Go" đã được hiệp hội ghi âm Mỹ (RIAA) công nhận 4 đĩa bạch kim. Cuối năm 2002 với hơn 7,5 triệu album bán được Avril trở thành nữ nghệ sĩ có album bán chạy nhất năm. Tính đến năm 2007 "Let Go" đã tiêu thụ được 16 triệu bản trên toàn thế giới.
Abum Let Go có tổng cộng 4 đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên là "Complicated", chiếm giữ vị trí quán quân trên bảng xếp hạng đĩa đơn ở Úc và á quân trên Billboard Hot 100, đây cũng là một trong những ca khúc bán chạy nhất ở Canada năm 2002. Hai đĩa đơn tiếp theo là "Sk8er Boi" lọt vào Top 10 ở Mỹ, Úc và "I'm with You" lọt vào Top 5 ở Mỹ và top 10 ở Vương quốc Anh. Đĩa đơn thứ tư là "Losing Grip" giành được vị trí quán quân ở Đài Loan và top 10 ở Chile.
Thành công từ album đầu tay này đã mang lại cho Avril danh hiệu nữ nghệ sĩ trẻ tài năng nhất trong lễ trao giải MTV Video Music Awards năm 2002 cùng với 8 đề cử Grammy và danh hiệu nghệ sĩ pop/rock xuất sắc của giải thưởng World Music Awards. Album này cũng lọt vào top 100 album bán chạy nhất mọi thời đại do website Mediatraffic.de thống kê.
2004–05: Under My Skin
Album thứ hai của Avril mang tên Under My Skin, được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2004 và nhanh chóng chiếm giữ vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Đức, Australia, Canada, México, Thụy Điển, Ailen, Thái Lan, Hàn Quốc và Hồng Kông. Album đã bán được 380.000 bản ngay trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ. Phần lớn các ca khúc trong album đều là những sáng tác hoặc đồng sáng tác của Avril cùng với nhạc sĩ người Canada Chatal Kreviazuk.. "Under My Skin" mang đậm chất alternative với nhiều ca khúc mạnh mẽ và sâu lắng đã tạo nên một phong cách hoàn toàn mới trong âm nhạc của Avril.. Đĩa đơn đầu tiên trong album là "Don't Tell Me", dành quán quân ở Argentina, Mexico và lọt vào top 5 ở UK, Canada, top 10 ở Australia, Brazil. "My Happy Ending" là đĩa đơn thứ hai, single này một lần nữa dành quán quân ở Mexico và lọt cào top 10 trên US Billboard Hot 100. Đĩa đơn thứ ba là "Nobody's Home", mặc dù không lọt vào top 40 ở Mĩ nhưng single này lại rất thành công ở Mexico và Argentina. "He Wasn't" là đĩa đơn thứ tư, single này lọt vào top 30 ở UK và Australia nhưng không được phát hành ở Hoa Kỳ. "Fall To Pieces" là đĩa đơn cuối cùng trong album tuy nhiên nó không được thành công như những single đã phát hành trước đó. Tính đến cuối năm 2007 album "Under My Skin" đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới.
Với những thành công từ "Under My Skin", Avril đã giành chiến thắng trong lễ trao giải World Music Awards 2004 cho hạng mục nghệ sĩ pop/rock xuất sắc nhất và nghệ sĩ Canada có album bán chạy nhất. Trong năm 2005, Avril đã giành chiến thắng ở 3 trong số 5 để cử của giải thưởng âm nhạc Canada Juno Awards cùng với giải thưởng nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất trong lễ trao giải Nickelodeon Kid's Choice. Cũng trong năm này, Avril đã thực hiện một số chuyến lưu diễn nhỏ ở một vài quốc gia trên thế giới. Năm 2006 Lavigne được chọn làm gương mặt đại diện cho Canada tham gia vào lễ bế mạc Thế Vận Hội Mùa Đông 2006 ở Torino, Ý.
2006–08: The Best Damn Thing
The Best Damn Thing là album thứ ba trong sự nghiệp ca hát của Avril. Album này được phát hành vào ngày 17 tháng 4 năm 2007 và dành quán quân 2 tuần liên tục trên bảng xếp hạng US Billboard Hot 200 của Hoa Kỳ. Album này được sản xuất bởi Dr.Luke, Lavigne và chồng cô: Deryck Whibley, nhóm trưởng của ban nhạc rock Sum 41. "The Best Damn Thing" là một album punk-pop với nhiều ca khúc mùa hè sôi động, "Girlfriend" là đĩa đơn đầu tiên trong album, single này đã giúp cho Avril lần đầu tiên giành được vị trí quán quân trên US Billboard Hot 100, và đây đĩa cũng được xem là đĩa đơn thành công nhất trong sự nghiệp của Avril nếu xét về mặt thương mại. "When You're Gone" được chọn làm làm đĩa đơn thứ hai, mặc dù ca khúc này chỉ có thể lọt vào top 25 ở Hoa Kỳ nhưng rất thành công ở châu Âu, châu Á, Australia và Canada. Đĩa đơn thứ ba mang tên "Hot", single này đã lọt vào top 10 ở Canada, Chile và Argentina. Đĩa đơn cuối cùng trong album là "The Best Damn Thing", được phát hành vào đầu tháng 6 năm 2008. Tính đến tháng 10 năm 2008 album đã bán được 6 triệu bản ở trên toàn thế giới
2009–11: Goodbye Lullaby
Album thứ tư của Avril Lavigne - "Goodbye Lullaby" chính thức được phát hành vào ngày 8/3/2011. Album này là kết quả từ quá trình làm việc và hợp tác lâu dài của Avril với một loạt các nhạc sĩ như: Deryck Whibley, Evan Taubenfeld, Butch Walker, Max Martin... Đĩa đơn đầu tiên của album là "What the Hell" được phát hành vào đầu tháng 1/2011, sau đó là "Smile". Album có sự thành công ở thị trường châu Á-Thái Bình Dương. Trong album này Avril thể hiện một ca sĩ chín chắn hơn với nhưng bản acoustic nhẹ nhàng. Tuy nhiên hai single là "What the Hell","Smile" lại đưa đến người nghe một sôi nổi, mạnh mẽ không thể nhầm lẫn của cô ca sĩ cá tính này.
2011-17: Avril Lavigne
Ba tháng sau khi phát hành "Goodbye Lullaby" Avril Lavigne thông báo rằng công việc thu âm cho album thứ năm: Avril Lavigne của cô đã bắt đầu với tám ca khúc đã được viết. Album phát hành trong năm 2013. Lavigne nói: "Tôi đã viết các ca khúc mà tôi biết nó sẽ trở thành các đĩa đơn thành công". Sau đó, tháng 7 năm 2011 Lavigne cho biết tựa đề của hai ca khúc thuộc album thứ năm này, đó là "Fine" và "Gone".
2018: Head Above Water
Sau 5 năm ở ẩn chống chọi với bệnh lyme, Avril Lavigne đã trở lại ca hát với ca khúc và album cùng tên "Head Above Water", ca khúc mà cô đã viết trong một buổi đêm đau đớn vì bệnh tật. Sau đó cô cũng ra đĩa đơn thứ 2 trong album: "Tell Me It's Over", đĩa đơn thứ 3 "Dumb Blonde" ca khúc có sự góp giọng của nữa rapper Nicki Minaj và thứ 4 là "I Fell in Love with the Devil".
Ngày 28 tháng 6 năm 2019 Avril đã thông báo chính thức thực hiện tour diễn vòng quanh Bắc Mỹ Head Above Water Tour sẽ bắt đầu vào ngày 14 tháng 9 năm 2019.
Lavigne phát hành bài hát "We Are Warriors" cùng video âm nhạc vào ngày 30 tháng 4 năm 2020. Video bao gồm các hình ảnh về đại dịch COVID-19, cho thấy các bác sĩ là những chiến binh.
Sự nghiệp điện ảnh
Năm 2006 Avril được mời lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình "Over The Hedge", với cốt truyện được xây dựng từ một bộ truyện tranh nổi tiếng cùng tên. Trong phim này Avril đã tham gia làm việc với nhiều diễn viên nổi tiếng như: William Shatner, Bruce Willis, Garry Shandling, Wanda Sykes, Nick Nolte và Steve Carell. Năm 2007, Avril được diễn xuất cùng với Richard Gere trong bộ phim "The Flock", cô vào vai người bạn gái của một tên tội phạm. Và dự án điện ảnh thứ ba của Avril là vào vai chính trong "Fast Food Nation", bộ phim có kịch bản dựa trên một cuốn truyện yêu thích của cô ấy. Lavigne đã sáng tác và ghi âm "Keep Holding On", bài hát được chọn làm nhạc nền cho bộ phim "Eragon", ca khúc này cũng được phát hành dưới dạng đĩa đơn và xuất hiện trong album "The Best Damn Thing". Ngoài ra Avril còn xuất hiện trong phần giữa của bộ phim truyền hình dài tập "Sabrina, the Teenage Witch", một bộ phim rất được giới trẻ thế giới yêu thích, trong phim này Avril đã xuất hiện tổng cộng 149 lần và trình diễn ca khúc "Sk8er Boi" cùng với các thành viên trong ban nhạc của mình.
Danh sách các phim đã tham gia
Phong cách âm nhạc
Trên trang thông tin MySpace của mình, Avril khẳng định rằng thể loại âm nhạc của cô ấy là Pop/Punk/Rock. Nhưng tạp chí All Music Guide và một số nhà phê bình khác cho rằng phong cách âm nhạc của cô ấy là: "Punk, Punk-pop, Pop/Rock, Alternative Rock, Alternative Pop-Rock, Modern Rock và Post-Grunge". Tuy nhiên Avril thường phát biểu rằng cô không phải là một ca sĩ hát nhạc Punk và cô cũng không muốn bị ràng buộc như vậy. Lavigne đã tỏ thái độ tức giận khi có người xem cô như một "Sk8er Punk". Quê hương của Avril là nơi khởi nguồn của nhiều ban nhóm hát nhạc punk (chẳng hạn như Sid Vicious), nhưng âm nhạc của cô ấy chỉ chịu ảnh hưởng một phần của thể loại punk năm 1970.
Cuộc sống và cá tính
Lavigne có mối quan hệ lãng mạn với tay guitar Jesse Colburn, trong ban nhạc của mình. Cô coi anh là bạn trai đầu tiên trong cuộc đời. Sau khi chia tay, Colburn rời ban nhạc.
Đầu năm 2004, Lavigne bắt đầu hẹn hò với bạn đồng nghiệp, ca sĩ người Canada, Deryck Whibley, thành viên trưởng của ban nhạc rock Sum 41. Whibley trở thành bạn trai thứ hai của cô. Đến tháng 6 năm 2005, Whibley bất ngờ cầu hôn Lavigne trong một chuyến đi sang Venezia. Hai người đã có một buổi dã ngoại lãng mạn sau đó. Ngày 15 tháng 7 năm 2006, Lavigne và Deryck đã tổ chức một đám cưới đơn giản tại tư trang ở thành phố biển Montecito, California. Lavigne mặc chiếc váy cưới của Vera Wang và mang trên tay những bông hồng trắng. Whibley mặc trang phục của Hugo Boss và được hộ tống bởi bốn phù rể. Có khoảng 110 vị khách quý tham dự buổi lễ đặc biệt này. Tuy nhiên, cuối năm 2009 hai người đã chia tay sau 3 năm chung sống. Hôn nhân của cô chính thức kết thúc ngày 16 tháng 11 năm 2010.
Avril được nhiều người chú ý bởi phong cách trình diễn rất lôi cuốn và cá tính mạnh mẽ của mình, cô thường được so sánh với nữ ca sĩ nhạc rock người Canada Alanis Morissette, Avril cũng tự nhận mình có đôi chút ảnh hưởng từ âm nhạc của Alanis. Trong một lần được làm khách mời phỏng vấn của tạp chí Q&A, Lavigne đã phát biểu rằng ca khúc mà cô yêu thích là "Hey Ya" của Outkast. Ngoài ra cô còn rất thích nghe nhạc của Third Eye Blind, Oasis, Marilyn Manson, System of a Down và Blink-182, đặc biệt là ca khúc "I Miss You".
Danh sách phim
Danh sách đĩa nhạc
Let Go (2002)
Under My Skin (2004)
The Best Damn Thing (2007)
Goodbye Lullaby (2011)
Avril Lavigne (2013)
Head Above Water (2019)
Xem thêm
Danh sách chuyến lưu diễn của Avril Lavigne
Danh sách giải thưởng và đề cử của Avril Lavigne
Danh sách các bài hát sáng tác và biểu diễn bởi Avril Lavigne
Tham khảo
Liên kết ngoài
Avril Lavigne Fanclub Vietnam
Sinh năm 1984
Nhân vật còn sống
Người đoạt giải World Music Awards
Người đoạt giải Ivor Novello
Ca sĩ nhạc alternative rock
Nữ diễn viên điện ảnh Canada
Nữ diễn viên truyền hình Canada
Nữ diễn viên lồng tiếng Canada
Ca sĩ nhạc pop rock
Nghệ sĩ của RCA Records
Nghệ sĩ của Arista Records
Nghệ sĩ của Epic Records
Nữ diễn viên Canada thế kỷ 21
Ca sĩ Canada thế kỷ 21
Ca sĩ thiếu nhi Canada
Nữ ca sĩ Canada
Người giành giải Juno
Nữ ca sĩ thế kỷ 21
Nghệ sĩ của Sony BMG
|
24992
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.
|
Manchester United F.C.
|
Câu lạc bộ bóng đá Manchester United (tiếng Anh: Manchester United Football Club, hay ngắn gọn là MU hay Man Utd) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Old Trafford, Đại Manchester, Anh. Câu lạc bộ hiện đang chơi tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, giải đấu hàng đầu trong hệ thống bóng đá Anh. Với biệt danh Quỷ Đỏ, câu lạc bộ được thành lập dưới tên Newton Heath LYR Football Club vào năm 1878, đổi tên thành Manchester United vào năm 1902 và chuyển đến sân vận động hiện tại, Old Trafford, vào năm 1910.
Manchester United là câu lạc bộ thành công nhất lịch sử bóng đá Anh khi giữ kỷ lục 20 lần vô địch bóng đá Anh, đoạt 12 Cúp FA, 6 Cúp Liên đoàn và giữ kỷ lục 21 lần đoạt Siêu cúp Anh. Câu lạc bộ đã giành được 3 Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, 1 UEFA Cup Winners' Cup, 1 UEFA Europa league, 1 Siêu cúp châu Âu, 1 Cúp Liên lục địa và 1 FIFA Club World Cup. Trong mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành cú ăn ba trong một mùa giải, gồm các chức vô địch Ngoại hạng Anh, cúp FA và UEFA Champions League.
Thảm họa hàng không München năm 1958 đã cướp đi sinh mạng của tám cầu thủ. Năm 1968, dưới sự dẫn dắt của Matt Busby, Manchester United là câu lạc bộ bóng đá Anh đầu tiên giành Cúp C1 châu Âu. Huấn luyện viên Alex Ferguson đã giành 38 danh hiệu khi dẫn dắt câu lạc bộ kể từ năm 1986, trong đó có 13 chức vô địch Premier League, 5 Cúp FA và 2 UEFA Champions League, trước khi ông tuyên bố nghỉ hưu vào năm 2013. Huấn luyện viên chính gần đây nhất của câu lạc bộ là Erik ten Hag, người được bổ nhiệm vào năm 2022.
Manchester United là câu lạc bộ bóng đá đứng thứ hai về doanh thu trên thế giới trong mùa giải 2013-14, với doanh thu hàng năm 518 triệu euro và đứng thứ ba về giá trị đội bóng trên thế giới trong năm 2015 với trị giá 1,98 tỷ USD. Tính đến tháng 6 năm 2015, câu lạc bộ có giá trị thương hiệu bóng đá lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 1,2 tỷ USD. Đây là một trong những đội bóng có số lượng người hâm mộ lớn nhất trên thế giới. Câu lạc bộ được vận hành dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần từ năm 1991 và sau khi được đưa lên sàn Chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ đã được Malcolm Glazer mua lại vào tháng 5 năm 2005 với giá gần 800 triệu bảng. Câu lạc bộ có một số kình địch, trong đó nổi bật là Liverpool, Manchester City, Arsenal, Leeds United và Chelsea.
Lịch sử
Những năm đầu (1878–1945)
Manchester United được thành lập năm 1878 với tên gọi Newton Heath LYR Football Club bởi bộ phận Toa hành khách và Toa trần của công ty đường sắt Lancashire and Yorkshire Railway (LYR). Ban đầu đội thi đấu với các đội bóng của những bộ phận khác của công ty hay với những công ty đường sắt khác. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1880, họ có trận đấu đầu tiên được ghi chép lại; họ mặc áo mang màu sắc của công ty – xanh lục vàng – và bị đội dự bị của Bolton Wanderers đánh bại 6–0. Tới năm 1888, câu lạc bộ trở thành thành viên sáng lập của The Combination, một giải bóng đá cấp vùng. Tuy nhiên giải này bị giải thể ngay sau mùa giải đầu tiên, do đó Newton Heath gia nhập giải bóng đá mới Football Alliance. Giải này cũng chỉ tồn tại được ba mùa giải trước khi bị sáp nhập vào Football League. Đội bắt đầu mùa giải 1892–93 tại Giải hạng nhất. Khi đó đội bắt đầu tách khỏi công ty đường sắt và bỏ 3 chữ "LYR" ra khỏi tên. Sau hai mùa giải, đội phải xuống chơi tại Giải hạng nhì.
Vào tháng 1 năm 1902, với số nợ 2.670 bảng – tương đương với bảng năm – đội đứng trước nguy cơ bị giải thể. Đội trưởng Harry Stafford sau đó gặp được bốn thương nhân địa phương, trong đó có John Henry Davies (người trở thành chủ tịch câu lạc bộ), mỗi người sẵn lòng bỏ ra 500 bảng để đổi lấy quyền điều hành câu lạc bộ và cũng là những người đổi tên câu lạc bộ. Ngày 24 tháng 4 năm 1902, Manchester United chính thức ra đời. Dưới sự dẫn dắt của Ernest Mangnall, người được bổ nhiệm vào năm 1903, đội giành vị trí á quân Giải hạng nhì năm 1906 và giành quyền lên chơi ở Giải hạng nhất. Vào năm 1908 đội giành chức vô địch quốc gia đầu tiên. Mùa giải sau đó United khởi đầu với chức vô địch Charity Shield và kết thúc với chức vô địch Cúp FA. Manchester United vô địch Hạng nhất lần thứ hai vào năm 1911, nhưng cuối mùa giải sau đó, Mangnall chia tay đội để chuyển đến Manchester City.
Vào năm 1922, ba năm sau khi bóng đá trở lại sau Thế chiến thứ nhất, câu lạc bộ phải xuống chơi ở hạng hai và lên hạng trở lại vào năm 1925. Sau khi một lần nữa xuống hạng năm 1931, Manchester United hết lên rồi lại xuống hạng, trong đó vị trí thấp nhất mà đội sở hữu là vị trí thứ 20 tại giải hạng hai vào năm 1934. Sau khi John Henry Davies qua đời vào tháng 10 năm 1927, tình hình tài chính của câu lạc bộ xuống dốc khiến Manchester United chút nữa phá sản. May thay, vào tháng 12 năm 1931, James W. Gibson đầu tư 2.000 bảng và lên nắm quyền tại câu lạc bộ. Vào mùa giải 1938–39, mùa giải cuối cùng trước khi Thế chiến thứ hai nổ ra, đội kết thức ở vị trí thứ 14 tại giải hạng nhất.
Kỷ nguyên Matt Busby (1945–1969)
Vào tháng 10 năm 1945, vị trí huấn luyện viên trưởng được giao cho Matt Busby, người yêu cầu được kiểm soát việc chọn lựa đội hình, chuyển nhượng cầu thủ và tập luyện của đội. Busby ba lần đưa câu lạc bộ về nhì ở giải vô địch quốc gia các năm 1947, 1948 và 1949, cùng với chức vô địch Cúp FA 1948. Vào năm 1952, câu lạc bộ giành chức vô địch giải hạng nhất, danh hiệu vô địch quốc gia đầu tiên sau 41 năm. Với độ tuổi trung bình là 22, đội hình vô địch quốc gia hai năm liên tiếp 1956 và 1957 được báo chí gọi với biệt danh "Những đứa trẻ của Busby" (The Busby Babes), một minh chứng cho niềm tin của Busby vào các cầu thủ trẻ của ông. Vào năm 1957, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên dự Cúp C1 châu Âu, bất chấp phản đối từ phía The Football League, những người đã không cho Chelsea cơ hội bước ra châu Âu ở mùa giải trước đó. Mặc dù phải dừng bước ở bán kết trước Real Madrid, đội vẫn tạo nên kỳ tích với chiến thắng 10–0 trước Anderlecht của Bỉ. Đây vẫn là thắng lợi đậm nhất trong lịch sử câu lạc bộ.
Vào mùa giải sau, khi đang trên đường trở về nhà sau chiến thắng trước Sao Đỏ Beograd ở tứ kết Cúp C1, chiếc máy bay chở cầu thủ và ban huấn luyện Manchester United cùng các nhà báo gặp nạn trong lúc cố gắng cất cánh sau lần tiếp nhiên liệu tại München, Đức. Thảm họa hàng không München ngày 6 tháng 2 năm 1958 cướp đi sinh mạng của 23 người, trong đó có tám cầu thủ – Geoff Bent, Roger Byrne, Eddie Colman, Duncan Edwards, Mark Jones, David Pegg, Tommy Taylor và Billy Whelan – và làm nhiều người khác bị thương.
Huấn luyện đội dự bị Jimmy Murphy đảm nhiệm cương vị huấn luyện viên trong thời gian Busby hồi phục sức khỏe và đội hình thay thế lọt vào chung kết Cúp FA, nơi họ thất bại trước Bolton Wanderers. Để bù đắp thiệt thòi của đội bóng, Liên đoàn bóng đá châu Âu mời đội tham dự Cúp C1 châu Âu 1958–59 cùng đội vô địch Anh năm đó là Wolverhampton Wanderers. Mặc dù được sự chấp thuận từ phía FA, Football League không cho đội tham dự giải. Busby tái thiết lại câu lạc bộ trong thập niên 1960 bằng việc ký hợp đồng với Denis Law và Pat Crerand, những người kết hợp với thế hệ cầu thủ trẻ kế cận của đội – trong đó có George Best – giành Cúp FA 1963. Mùa giải tiếp theo họ có được vị trí thứ ba ở giải quốc gia, và sau đó giành chức vô địch vào các năm 1965 và 1967. Vào năm 1968, Manchester United trở thành câu lạc bộ Anh đầu tiên (và câu lạc bộ Vương quốc Anh thứ hai) giành được chức vô địch Cúp C1 châu Âu khi đánh bại Benfica 4–1 trong trận chung kết với đội hình gồm ba cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất năm: Bobby Charlton, Denis Law và George Best. Matt Busby rời câu lạc bộ vào năm 1969 và được thay thế bằng huấn luyện viên đội dự bị và cựu cầu thủ Manchester United Wilf McGuinness.
1969–1986
Sau khi kết thúc mùa giải 1969–70 ở vị trí thứ tám và khởi đầu tệ hại ở mùa bóng 1970–71, Busby được câu lạc bộ thuyết phục quay trở lại ghế chỉ đạo, trong khi McGuinness trở lại vị trí huấn luyện đội dự bị. Vào tháng 6 năm 1971, Frank O'Farrell được chỉ định làm huấn luyện viên mới, nhưng chỉ trụ lại được 18 tháng trước khi bị thay thế bởi Tommy Docherty vào tháng 12 năm 1972. Docherty cứu Manchester United khỏi xuống hạng mùa giải năm đó nhưng cuối cùng United vẫn phải xuống hạng vào năm 1974; thời điểm đó bộ ba Best, Law, và Charlton đều đã chia tay câu lạc bộ. Đội thăng hạng ngay ở mùa giải sau đó và lọt vào trận chung kết Cúp FA 1976, nhưng bị Southampton hạ gục tại đây. Họ một lần nữa vào chung kết năm 1977 và đánh bại Liverpool với tỉ số 2–1. Không lâu sau Docherty bị buộc thôi chức vì quan hệ tình ái của ông với người vợ của nhân viên vật lý trị liệu câu lạc bộ bị phanh phui.
Dave Sexton thay thế Docherty làm huấn luyện viên vào mùa hè năm 1977. Mặc dù mang về nhiều bản hợp đồng lớn như Joe Jordan, Gordon McQueen, Gary Bailey và Ray Wilkins, đội vẫn không thể đạt được danh hiệu nào; họ về nhì ở mùa giải 1979–80 và để thua Arsenal trong trận chung kết Cúp FA 1979. Sexton đã bị sa thải vào năm 1981 dù Manchester United giành chiến thắng trong bảy trận cuối cùng dưới sự chỉ đạo của ông. Ông được thay thế bởi Ron Atkinson, người ngay lập tức đã phá vỡ kỉ lục chuyển nhượng ở Anh khi mua về Bryan Robson từ West Bromwich Albion. Dưới quyền Atkinson, United đoạt hai chức vô địch Cúp FA vào các năm 1983 và 1985. Vào mùa giải 1985-86, sau 13 chiến thắng và 2 trận hòa trong 15 trận đầu tiên, đội trở thành ứng cử viên số một cho ngôi vô địch, nhưng cuối cùng chỉ có được vị trí thứ bốn khi mùa giải kết thúc. Mùa giải sau việc United đứng trước nguy cơ bị xuống hạng lần nữa kiến Atkinson bị sa thải ngày 5 tháng 11 năm 1986.
Triều đại Ferguson (1986–2013)
Alex Ferguson cùng trợ lý Archie Knox chuyển tới từ Aberdeen vào ngày mà Atkinson bị sa thải và đưa đội kết thúc mùa giải ở vị trí 11. Mặc dù về nhì ở mùa giải 1987–88, đội trở lại vị trí thứ 11 vào mùa giải sau. Giữa lúc những đồn đoán về nguy cơ bị sa thải lên cao, chiến thắng trước Crystal Palace ở trận đá lại Chung kết Cúp FA 1990 (trước đó hòa 3–3) đã cứu vãn sự nghiệp của Ferguson. Mùa giải sau đó, Manchester United giành chức vô địch Cúp C2 châu Âu đầu tiên cùng chiến thắng trong trận tranh Siêu cúp châu Âu 1991 trước nhà vô địch Cúp C1 Sao Đỏ Beograd tại Old Trafford. Đội tiếp tục vào chung kết Cúp Liên đoàn 1992 và đánh bại Nottingham Forest 1–0 tại Wembley. Vào năm 1993, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên kể từ năm 1967, và một năm sau bảo vệ thành công chức vô địch. Họ hoàn tất cú đúp danh hiệu đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ với chức vô địch Cúp FA 1994.
Vào mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội đầu tiên vô địch Giải Ngoại hạng Anh, Cúp FA và UEFA Champions League – "Cú ăn ba" – trong cùng một mùa giải. Cuộc lội ngược dòng trong thời gian bù giờ trận Chung kết UEFA Champions League 1999 bằng 2 bàn thắng của Teddy Sheringham và Ole Gunnar Solskjær mang về thắng lợi kịch tính trước Bayern München. Chiến thắng này được coi là một trong những cuộc lội ngược dòng vĩ đại nhất mọi thời đại. Đội cũng giành chức vô địch Cúp Liên lục địa sau khi vượt qua Palmeiras với tỉ số 1–0 ở Tokyo. Ferguson sau đó được phong tước hiệp sĩ nhờ những cống hiến cho bóng đá.
Manchester United một lần nữa lên ngôi vô địch vào mùa giải 1999–2000 và 2000–01. Đội về thứ ba ở mùa 2001–02, trước khi đòi lại chức vô địch vào mùa 2002–03. Họ giành chức vô địch Cúp FA 2003–04 khi hạ Millwall 3–0 trong trận chung kết tại Sân vận động Thiên niên kỷ ở Cardiff. Vào mùa giải 2005–06, Manchester United lần đầu tiên sau một thập kỷ không vượt thể vượt qua vòng bảng UEFA Champions League, nhưng vẫn về đích ở vị trí thứ nhì ở Premier League và giành chức vô địch Cúp Liên đoàn 2006 trước Wigan Athletic. Họ trở lại ngôi vương tại Giải Ngoại hạng vào các mùa giải 2006–07 và 2007–08, đồng thời hoàn tất cú đúp với chiến thắng 6–5 trong loạt luân lưu trước Chelsea trong trận Chung kết UEFA Champions League 2008 trên Sân vận động Luzhniki ở Moskva. Đây cũng là trận đấu thứ 759 của Ryan Giggs cho câu lạc bộ, vượt qua kỷ lục của Bobby Charlton. Vào tháng 12 năm 2008, câu lạc bộ giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2008, nối tiếp bằng danh hiệu vô địch Cúp Liên đoàn 2009, cùng chức vô địch Ngoại hạng thứ ba liên tiếp. Mùa hè năm đó Cristiano Ronaldo được bán sang Real Madrid với giá 80 triệu bảng Anh. Vào năm 2010, Manchester United đánh bại Aston Villa 2–1 để bảo vệ thành công chức vô địch Cúp Liên đoàn, đồng thời cũng là lần đầu tiên họ bảo vệ thành công chức vô địch một giải đấu cúp.
Sau khi kết thúc ở vị trí á quân trong mùa giải 2009–10, United đã giành chức vô địch thứ 19 kỷ lục trong mùa giải 2010–11, đảm bảo ngôi vô địch với trận hòa 1–1 trên sân khách trước Blackburn Rovers vào ngày 14 tháng 5 năm 2011. Con số này đã được nâng lên thành 20 chức vô địch trong mùa giải 2012–13, đảm bảo ngôi vô địch với chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Aston Villa vào ngày 22 tháng 4 năm 2013.
2013–nay
Vào ngày 8 tháng 5 năm 2013, Ferguson thông báo rằng ông sẽ nghỉ hưu với tư cách là huấn luyện viên trưởng vào cuối mùa giải, nhưng vẫn sẽ ở lại United với tư cách giám đốc và đại sứ câu lạc bộ. Ông nghỉ hưu với tư cách là vị huấn luyện viên trưởng thành công nhất trong lịch sử bóng đá. Câu lạc bộ đã thông báo vào ngày hôm sau rằng huấn luyện viên của Everton, David Moyes sẽ thay thế Ferguson làm huấn luyện viên từ ngày 1 tháng 7, với bản hợp đồng kéo dài sáu năm. Ryan Giggs tiếp quản vị trí huấn luyện viên kiêm cầu thủ tạm thời 10 tháng sau đó, vào ngày 22 tháng 4 năm 2014, khi Moyes bị sa thải sau một mùa giải kém cỏi, câu lạc bộ đã không thể bảo vệ được danh hiệu Premier League và không đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League lần đầu tiên kể từ mùa giải 1995–96. Họ cũng không thể giành quyền tham dự Europa League, đồng nghĩa với việc đây là lần đầu tiên Manchester United không đủ điều kiện tham dự bất kỳ một giải đấu châu Âu nào kể từ năm 1990. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, đã có thông tin xác nhận rằng Louis van Gaal sẽ thay thế Moyes làm huấn luyện viên trưởng Manchester United theo bản hợp đồng ba năm, với Giggs là trợ lý của ông. Malcolm Glazer, người đứng đầu gia đình sở hữu câu lạc bộ, đã qua đời vào ngày 28 tháng 5 năm 2014.
Dưới thời Van Gaal, United đã giành được danh hiệu FA Cup lần thứ 12, nhưng sự sa sút đáng thất vọng vào giai đoạn giữa mùa giải thứ hai của ông đã dẫn đến những tin đồn về việc ban lãnh đạo sẽ tìm ra người thay thế tiềm năng. Van Gaal cuối cùng cũng bị sa thải chỉ hai ngày sau trận thắng cuối cùng ở Premier League, với việc United đứng thứ 5 tại giải đấu. Cựu huấn luyện viên của FC Porto, Chelsea, Inter Milan và Real Madrid, José Mourinho đã được bổ nhiệm thay thế ông vào ngày 27 tháng 5 năm 2016. Mourinho ký bản hợp đồng ba năm và trong mùa giải đầu tiên của ông đã giành được danh hiệu FA Community Shield, EFL Cup và UEFA Europa League. Wayne Rooney đã ghi bàn thắng thứ 250 cho United, bàn gỡ hòa ở phút bù giờ trong trận đấu với Stoke City vào tháng 1, vượt qua Sir Bobby Charlton để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của câu lạc bộ. Mùa giải tiếp theo, United đứng thứ hai trên bảng xếp hạng – vị trí cao nhất của họ kể từ năm 2013 – nhưng vẫn kém đối thủ cùng thành phố Manchester City 19 điểm. Mourinho cũng dẫn dắt câu lạc bộ đến trận chung kết FA Cup lần thứ 19, nhưng họ để thua Chelsea 1–0. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2018, khi United đang đứng ở vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Premier League, kém 19 điểm so với đội dẫn đầu Liverpool và 11 điểm so với nhóm dự Champions League, Mourinho đã bị sa thải sau 144 trận. Ngày hôm sau, cựu tiền đạo của United, Ole Gunnar Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm thời cho đến cuối mùa giải. Vào ngày 28 tháng 3 năm 2019, sau chuỗi 14 trận thắng trong 19 trận đầu tiên cầm quân, Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng theo bản hợp đồng ba năm.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2021, Manchester United thông báo rằng họ sẽ cùng 11 câu lạc bộ châu Âu khác thành lập European Super League, một giải đấu bao gồm 20 đội bóng được đề xuất nhằm cạnh tranh trực tiếp với UEFA Champions League. Thông báo này đã nhận phải sự phản ứng dữ dội chưa từng có từ những cổ động viên, các câu lạc bộ, đối tác truyền thông, nhà tài trợ, cầu thủ và Chính phủ Vương quốc Anh, buộc United phải rút lui chỉ hai ngày sau đó. Sự thất bại của dự án đã dẫn đến việc phó chủ tịch điều hành câu lạc bộ Ed Woodward từ chức, trong khi các cuộc biểu tình phản đối Woodward và gia đình Glazer dẫn đến việc nhiều cổ động viên lao vào sân trước trận đấu với Liverpool vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Premier League chứng kiến một trận đấu bị hoãn lại do sự phản đối của các cổ động viên.
Trên sân cỏ, United đã có trận thắng đậm nhất trong lịch sử Premier League với chiến thắng 9–0 trước Southampton vào ngày 2 tháng 2 năm 2021, nhưng họ đã kết thúc mùa giải với thất bại trên chấm phạt đền trong trận chung kết UEFA Europa League trước Villarreal, trải qua bốn mùa giải liên tiếp không giành được danh hiệu nào. Vào ngày 20 tháng 11 năm 2021, Manchester United quyết định sa thải Solskjær. Cựu tiền vệ Michael Carrick đảm nhận vai trò chỉ đạo đội bóng trong ba trận đấu tiếp theo, trước khi bổ nhiệm Ralf Rangnick làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến cuối mùa giải.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2022, Erik ten Hag được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng từ cuối mùa giải 2021–22, ký hợp đồng có thời hạn cho đến tháng 6 năm 2025 với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Vào ngày 23 tháng 5 năm 2022, Mitchell van der Gaag và Steve McClaren được xác nhận là trợ lý huấn luyện viên của Ten Hag.
Huy hiệu và màu áo
Huy hiệu của câu lạc bộ được thiết kế dựa trên huy hiệu của Hội đồng Thành phố Manchester, mặc dù huy hiệu ngày nay chỉ giữ lại hình ảnh chiếc thuyền buồm căng gió. Hình ảnh con quỷ bắt nguồn từ biệt danh "The Red Devils"; hình ảnh này xuất hiện trong các tờ chương trình của câu lạc bộ và trên khăn quàng cổ vào thập niên 1960, và được đưa vào huy hiệu câu lạc bộ năm 1970, mặc dù huy hiệu không được in lên ngực áo đấu cầu thủ cho đến năm 1971 (trừ khi đội bóng chơi trong trận chung kết khi đấu cúp).
Một bức ảnh của đội Newton Heath năm 1892 được cho là chụp các cầu thủ mặc áo màu đỏ và màu trắng với quần knickerbocker màu xanh hải quân. Từ 1894-1896, các cầu thủ mặc áo màu xanh lá cây vàng. và được thay thế vào năm 1896 bằng áo sơ mi trắng và quần short màu xanh hải quân.
Sau khi thay đổi tên vào năm 1902, màu sắc của câu lạc bộ được thay đổi thành áo đỏ, quần trắng và tất màu đen; đây cũng chính là màu trang phục sân nhà chuẩn của Manchester United. Áo đấu ít thay đổi cho đến năm 1922 khi câu lạc bộ áp dụng áo sơ mi trắng với chữ "V" màu đỏ đậm quanh cổ, tương tự như chiếc áo mặc trong trận chung kết Cúp FA 1909. Chiếc áo được mặc định làm áo đấu sân nhà cho đến năm 1927. Có một giai đoạn vào năm 1934, chiếc áo đấu phụ màu anh đào sọc ngang màu trắng trở thành áo đấu sân nhà, nhưng mùa giải sau đó chiếc áo màu đỏ được sử dụng lại. Tất màu đen được thay đổi thành màu trắng từ năm 1959 đến năm 1965, đổi thành màu đỏ cho đến năm 1971 khi câu lạc bộ trả lại màu tất đen. Quần đen và/hoặc tất trắng đôi khi cũng được sử dụng với áo đỏ, hầu hết là trong các trận sân khách để tranh trùng màu với đội chủ nhà. Áo sân nhà hiện nay là một chiếc áo được chia thành hai nửa đỏ bên đậm bên nhạt, được phân cách bằng một dải họa tiết sáu cạnh với ba sọc Adidas màu trắng chạy dọc thân bên áo.
Manchester United thi đấu sân khách thường mặc áo trắng, quần đen và tất trắng, nhưng đã có một số trường hợp ngoại lệ. Áo đấu bao gồm một dải màu đen với trang trí màu xanh vàng từ năm 1993 đến năm 1995, những chiếc áo sơ mi màu xanh hải quân với mối xoắn ngang màu bạc trong mùa giải 1999-2000, và các bộ áo đấu màu giải 2011-12 trở đi, trong đó có một áo đấu có nền xanh hoàng gia và sọc được tạo nên từ nhưng dải màu đen và xanh dương, với quần short màu đen và tất màu xanh. Áo đấu màu xám mặc trong mùa giải 1995-1996 bị bỏ chỉ sau năm trận đấu vì cầu thủ khẳng định rất khó khăn khi tìm đồng đội phối hợp. Năm 2001, để kỷ niệm 100 năm đổi tên, Manchester United phát hành áo đấu lộn trái phải như nhau màu trắng/vàng, mặc dù thực tế những chiếc áo khi mang ra thi đấu không lộn trái phải như nhau được.
Bộ áo đấu thứ ba của câu lạc bộ thường là hoàn toàn xanh, đây là trường hợp gần đây nhất là trong mùa giải 2014-15. Trường hợp ngoại lệ bao gồm áo hai nửa màu xanh lá cây vàng từ năm 1992 đến năm 1994, một chiếc áo sọc xanh-trắng mặc trong 1994-1995 và 1995-1996 và một lần trong mùa 1996-97, một bộ áo đấu toàn màu đen mặc trong mùa giải 1998-1999, và áo trắng với mối xoắn ngang màu đen và đỏ mặc từ năm 2003 tới 2005. Từ năm 2006-07 tới 2013-14, áo đấu thứ ba thường giống áo mùa giải trước, những trường hợp ngoại lệ là mùa giải 2008-09 và mùa giải 2014-15.
Huy hiệu
Huy hiệu câu lạc bộ Manchester United thay đổi theo dòng thời gian lịch sử. Huy hiệu của câu lạc bộ gắn liền từ biệt danh của câu lạc bộ là "The Red Devils". Năm 1998, Huy hiệu được thiết kế lại một lần nữa, loại bỏ cụm từ "Football Club".
Trang phục áo đấu
Ghi chú
Sân vận động
Newton Heath ban đầu thi đấu tại sân North Road gần đường ray; sức chứa ban đầu vào khoảng 12.000, nhưng ban lãnh đạo cho rằng cơ sở vật chất như vậy không đủ để câu lạc bộ gia nhập The Football League. Việc mở rộng bắt đầu vào năm 1887 và tới năm 1891, Newton Heath làm thêm hai khán đài, mỗi khán đài có sức chứa 1.000 khán giả. Số khán giả cao nhất được ghi chép lại của một trận đấu tại North Road là 15.000 (gặp Sunderland ngày 4 tháng 3 năm 1893). Số khán giả cũng là tương tự khi đội gặp Gorton Villa vào ngày 5 tháng 9 năm 1889.
Vào tháng 6 năm 1893, sau khi Manchester Deans và Canons, chủ sở hữu của North Road thu hồi quyền sử dụng sân từ tay Manchester United, thư ký A. H. Albut liền có được quyền sử dụng sân Bank Street ở Clayton. Sân ban đầu không có khán đài nhưng trước khi mùa 1893–94 bắt đầu đã có thêm hai khán đài được xây thêm; một khán đài bao trọn chiều dài một phía sân và khán đài còn lại nằm ở phía sau cầu môn có tên "Bradford end". Ở đầu cầu môn bên kia mang tên "Clayton end", dần được xây dựng. Trận đầu tiên của Newton Heath tại Bank Street là trước Burnley vào ngày 1 tháng 9 năm 1893, trong đó 10.000 khán giả chứng kiến cú hat-trick của Alf Farman giúp Newton Heath đi tới thắng lợi 3–2. Các khán đài còn lại được hoàn thành cho trận đấu ba tuần sau với Nottingham Forest. Vào tháng 10 năm 1895, trước chuyến làm khách của Manchester City, câu lạc bộ mua về một khán đài 2.000 chỗ từ câu lạc bộ rugby league Broughton Rangers. Tuy nhiên thời tiết xấu khiến trận đấu với Manchester City chỉ có 12.000 người tới xem.
Khi sân Bank Street tạm thời đóng cửa năm 1902, đội trưởng Harry Stafford quyên góp tiền để trả trận đấu sân khách tiếp theo của đội tại Bristol City và tìm ra một sân vận động tạm thời tại Harpurhey cho trận tiếp theo của đội dự bị gặp Padiham. Sau những đầu tư về mặt tài chính, tân chủ tịch John Henry Davies chi 500 bảng để dựng lên một khán đài 1.000 chỗ có lắp ghế ngồi tại Bank Street.
Tuy nhiên, sau chức vô địch quốc gia đầu tiên của Manchester United vào năm 1908 và Cúp FA năm 1909, Bank Street đã trở nên không đủ với tham vọng của Davies; tới tháng 2 năm 1909, Old Trafford trở thành tên sân vận động mới của Manchester United sau khi câu lạc bộ mua lại mảnh đất có giá 60.000 bảng. Kiến trúc sư Archibald Leitch được giao ngân sách 30.000 bảng để xây dựng; Công trình được xây dựng bởi Messrs Brameld and Smith of Manchester. Lượng khán giả kỷ lục của sân vận động là 76.962 người tới sân vào ngày 25 tháng 3 năm 1939, trong trận bán kết Cúp FA giữa Wolverhampton Wanderers và Grimsby Town.
Những trận oanh tạc bằng bom trong Thế chiến thứ hai phá hủy phần lớn sân vận động; đường hầm trung tâm ở South Stand là phần duy nhất còn lại của khán đài này. Sau chiến tranh, câu lạc bộ nhận được 22.278 bảng tiền bồi thường từ Ủy ban Thiệt hại Chiến tranh. Khi cộng cuộc tái xây dựng sân được tiến hành, đội đá các trận sân nhà tại sân Maine Road của Manchester City; Manchester United phải đóng phí thuê sân là 5.000 bảng 1 năm, cộng thêm một phần nhỏ tiền vé thu được. Một trong những nâng cấp đáng kể của Old Trafford là mái che, đầu tiên là tại khán đài Stretford End và sau đó là khán đài Bắc và Đông. Các cột trụ đỡ mái gây cản trở tầm nhìn của cổ động viên được thay thế bằng kết cấu dầm chìa (cantilever). Bốn cột dàn đèn cao có giá 40.000 bảng lần đầu được dựng lên vào ngày 25 tháng 3 năm 1957, mỗi cột gồm 54 bóng đèn. Các cột này được gỡ vào năm 1987 và được thay bằng hệ thống chiếu sáng gắn vào mái của các khán đài như ngày nay.
Các yêu cầu của Taylor Report dành cho một sân vận động có ghế ngồi góp phần làm giảm số chỗ ngồi của Old Trafford xuống khoảng 44.000 vào năm 1993. Vào năm 1995, North Stand được thiết kế lại thành ba tầng giúp tăng số chỗ ngồi lên 55.000. Cuối mùa giải 1998–99, các khán đài East và West được tăng thêm một tầng nữa, nâng sức chứa lên 67.000, và từ tháng 7 năm 2005 tới tháng 5 năm 2006, 8.000 chỗ ngồi nữa được bổ sung ở hai góc khán đài đông bắc và tây bắc. Một phần chỗ ngồi mới được sử dụng vào ngày 26 tháng 3 năm 2006, khi lượng khán giả 69.070 người trở thành kỷ lục mới tại Giải Ngoại hạng Anh. Kỷ lục dần được đẩy lên cho tới khi chạm đỉnh vào tháng 3 năm 2007 khi có 76.098 khán giả tới chứng kiến thắng lợi 4–1 của Manchester United trước Blackburn Rovers, với chỉ 114 ghế trống (trên tổng số 76.212). Vào năm 2009, việc sắp xếp lại chỗ ngồi khiến số chỗ ngồi giảm xuống còn 75.957. Manchester United là câu lạc bộ có lượng khán giả trung bình chỉ sau Borussia Dortmund.
Người hâm mộ
Manchester United là một trong những câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất trên thế giới, với một lượng khán giả đến sân trung bình cao nhất châu Âu. Câu lạc bộ cho biết lực lượng người hâm mộ trên toàn thế giới của đội bao gồm hơn 200 hội chính thức được công nhận bởi Manchester United Supporters Club (MUSC), tại ít nhất 24 quốc gia. Câu lạc bộ hưởng lợi từ lực lượng người hâm mộ trên thế giới thông qua các tour du đấu mùa hè. Công ty kiểm toán Deloitte ước tính rằng Manchester United có 75 triệu người hâm mộ trên toàn thế giới, trong khi ước tính khác cho rằng con số này gần 333 triệu người hâm mộ. Câu lạc bộ cũng là đội thể thao có số người theo dõi nhiều thứ ba trên mạng xã hội (sau Barcelona và Real Madrid), với trên 71 triệu fan trên Facebook tính tới tháng 9 năm 2016. Một nghiên cứu vào năm 2014 cho thấy Manchester United có người hâm mộ cổ vũ ầm ĩ nhất tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Người hâm mộ được đại diện bởi hai hiệp hội độc lập nhau, Independent Manchester United Supporters' Association (IMUSA) duy trì liên kết chặt chẽ với câu lạc bộ thông qua MUFC Fans Forum, và Manchester United Supporters' Trust (MUST). Sau khi câu lạc bộ được tiếp quản bởi gia đình Glazer vào năm 2005, một nhóm người hâm mộ thành lập một câu lạc bộ riêng mang tên F.C. United of Manchester để phản đối sự kiện này. Khán đài phía tây của Old Trafford – hay "Stretford End" – là khán đài nổi tiếng nơi có các cổ động viên cổ vũ cuồng nhiệt nhất.
Kình địch
Manchester United là kình địch của Arsenal, Leeds United, Liverpool và Manchester City, đối thủ cùng thành phố trong những trận Derby Manchester.
Sự kình địch với Liverpool bắt nguồn từ sự cạnh tranh giữa hai thành phố trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp khi thành phố Manchester nổi tiếng với ngành công nghiệp dệt may trong khi đó Liverpool là một thành phố cảng lớn. Manchester United và Liverpool cũng là hai đội bóng thành công nhất nước Anh và, trong nhiều thời điểm lịch sử, cả hai đội bóng cạnh tranh nhau chức vô địch (gần đây nhất là mùa giải 2008-09). Các trận đấu giữa hai đội thường được cầu thủ và người hâm mộ hai bên coi là trận đấu quan trọng nhất mùa giải.
Sự kình địch với Leeds bắt nguồn từ Chiến tranh Hoa Hồng giữa Nhà Lancaster và Nhà York, với Manchester United đại diện cho Lancashire còn Leeds đại diện cho Yorkshire.
Sự kình địch với Arsenal xuất phát từ những lần hai đội bóng, cũng như hai huấn luyện viên Alex Ferguson và Arsène Wenger, cạnh tranh nhau chức vô địch. Với tổng cộng 33 danh hiệu (20 cho Manchester United, 13 cho Arsenal) cuộc đối đầu giữa hai độ được coi là cuộc so tài thú vị nhất trong lịch sử Premier League.
Thương hiệu toàn cầu
Manchester United được coi là một thương hiệu toàn cầu; một báo cáo năm 2011 của Brand Finance định giá thương hiệu của câu lạc bộ và sở hữu trí tuệ liên quan lên đến 412 triệu bảng Anh - tăng 39 triệu bảng so với năm trước đó, hơn Real Madrid là đội xếp thứ hai khoảng 11 triệu bảng, đồng thời xếp hạng thương hiệu ở mức AAA (cực kỳ mạnh). Trong tháng 7 năm 2012, Manchester United được tạp chí Forbes xếp hạng nhất trong danh sách mười thương hiệu đội thể thao có giá trị lớn nhất, định giá thương hiệu của Manchester United vào khoảng 2,23 tỷ USD. Câu lạc bộ xếp hạng thứ ba trong Deloitte Football Money League (sau Real Madrid và Barcelona) theo doanh thu. Vào tháng 1 năm 2013, câu lạc bộ trở thành đội thể thao đầu tiên trên thế giới được định giá 3 tỷ USD. Tạp chí Forbes đánh giá câu lạc bộ có giá trị khoảng 3,3 tỷ USD - cao hơn 1,2 tỷ USD so với đội thể thao có giá trị nhất tiếp theo.
Sức mạnh cốt lõi thương hiệu toàn cầu của Manchester United thường được cho là nhờ công lao của Matt Busby trong việc xây dựng lại đội bóng và thành công của câu lạc bộ sau thảm họa München, điều thế giới hết lời ca ngợi. Đội hình "biểu tượng" gồm Bobby Charlton và Nobby Stiles (thành viên của đội tuyển Anh vô địch World Cup), Denis Law và George Best. Với lối chơi tấn công (khác hẳn với lối chơi phòng ngự "catenaccio" của các câu lạc bộ Ý cùng thời) "khiến người hâm mộ bóng đá Anh cảm thấy thích thú". Đội bóng của Busby cũng gắn liền với sự tự do hóa của xã hội phương Tây trong thập niên 1960; George Best được gọi là "thành viên thứ năm của ban nhạc The Beatles" (fifth Beatle) nhờ mái tóc đặc trưng của ông, và là cầu thủ bóng đá đầu tiên thực sự tạo dựng hình ảnh ngoài sân cỏ với giới truyền thông.
Với tư cách là câu lạc bộ bóng đá Anh thứ hai xuất hiện trên thị trường chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ tăng vốn đáng kể, và có động lực để tiếp tục phát triển chiến lược thương mại của mình. Sức mạnh của thương hiệu Manchester United được hỗ trợ rất nhiều việc truyền thông chú ý đến các hoạt động bên ngoài sân cỏ của các cầu thủ, đặc biệt là David Beckham (người nhanh chóng phát triển thương hiệu toàn cầu của riêng mình). Sự chú ý này thường tạo ra sự chú ý đặc biệt tới các hoạt động bóng đá của đội, và do đó tạo cơ hội thu hút nhà tài trợ, yếu tố phụ thuộc vào truyền hình. Trong thời gian ở câu lạc bộ, sự nổi tiếng của Beckham trên khắp châu Á đóng vai tò quan trọng đối với thành công về mặt thương mại của câu lạc bộ tại đây.
Do kết quả xếp hạng cao tại giả vô địch quốc gia mang lại giá trị bản quyền truyền hình lớn hơn, thành công trên sân tạo ra thu nhập lớn cho câu lạc bộ. Kể từ khi Premier League ra đời, Manchester United là đội nhận được phần lớn nhất trong doanh thu từ hợp đồng truyền hình với BSkyB. Manchester United cũng luôn là câu lạc bộ bóng đá Anh có doanh thu hàng năm cao nhất. Mùa giải 2005-06, bộ phận thương mại của câu lạc bộ kiếm về khoảng 51 triệu bảng Anh, so với khoảng 42,5 triệu của Chelsea, 39,3 triệu của Liverpool, 34 triệu bảng của Arsenal và 27,9 triệu của Newcastle United. Một trong những nhà tài trợ quan trọng là công ty trang phục thể thao Nike. Nike quản lý hoạt động bán hàng của câu lạc bộ với một hợp đồng 13 năm quan hệ đối tác với giá trị £ 303 triệu bảng Anh bắt đầu vào năm 2002. Ngoài ra, Manchester United mang nhãn hiệu dịch vụ truyền thông với kênh truyền hình dành riêng cho câu lạc bộ, đó là kênh MUTV - đã cho phép câu lạc bộ mở rộng lượng fan hâm mộ của mình vượt ra ngoài tầm Old Trafford.
Nhà tài trợ
Công ty điện tử Sharp Electronics đã trở thành nhà tài trợ áo đầu tiên của câu lạc bộ vào đầu mùa giải 1982-1983 theo một hợp đồng tài trợ ban đầu 5 năm trị giá 500.000 bảng. Bản hợp đồng kéo dài cho đến cuối mùa giải 1999-2000, khi Vodafone đồng ý một hợp đồng 4 năm trị giá 30 triệu bảng. Vodafone đồng ý trả 36 triệu bảng để gia hạn hợp đồng thêm 4 năm, nhưng khi còn hai mùa giải nữa mới hết hợp đồng tài trợ thì Vodafone chuyển sang tập trung tài trợ cho Champions League.
Bắt đầu mùa giải 2006-07, tập đoàn bảo hiểm Mỹ AIG đã đồng ý một hợp đồng tài trợ áo đấu 4 năm với giá trị 56,5 triệu bảng mà trong tháng 9 năm 2006 đã trở thành hợp đồng tài trợ áo đấu có giá trị nhất trên thế giới. Vào đầu mùa giải 2010-11, công ty bảo hiểm Mỹ Aon trở thành nhà tài trợ chính của câu lạc bộ trong một hợp đồng 4 năm với trị giá khoảng 80 triệu bảng Anh. Manchester United công bố hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập đầu tiên trong tháng 8 năm 2011, đồng ý một hợp đồng 4 năm với DHL với trị giá 40 triệu bảng; đó là trường hợp đầu tiên tài trợ áo đấu trong bóng đá Anh. Hợp đồng DHL kéo dài trong hơn một năm trước khi câu lạc bộ mua lại hợp đồng vào tháng 10 năm 2012. Hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập sau đó đã được bán cho hãng Aon vào tháng 4 năm 2013 cho một thỏa thuận trị giá 180 triệu bảng kéo dài 8 năm, trong đó cũng bao gồm việc mua quyền đặt tên cho Trung tâm huấn luyện Trafford.
Umbro từng là nhà sản xuất đồ thể thao cho câu lạc bộ và được thay thế bằng một hợp đồng 5 năm với Admiral Sportswear vào năm 1975. Adidas đã nhận được hợp đồng vào năm 1980, trước khi Umbro tái ký hợp đồng thứ hai vào năm 1992. Umbro tài trợ trong 10 năm, tiếp theo hãng Nike ký hợp đồng kỷ lục 302,9 triệu bảng kéo dài cho đến năm 2015; có 3,8 triệu chiếc áo được bán ra trong 22 tháng đầu tiên. Ngoài Nike và Chevrolet, câu lạc bộ cũng có nhiều nhà tài trợ cấp dưới bao gồm cả Aon và Budweiser.
Ngày 30 tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ ký một hợp đồng 7 năm với tập đoàn ô tô Mỹ General Motors thay thế cho Aon từ mùa giải 2014-15. Hợp đồng mới có giá trị 80 triệu bảng Anh một năm có tổng trị giá 559 triệu bảng trong 7 năm với logo của với tên thương hiệu Chevrolet trên áo đấu. Nike công bố rằng họ sẽ không gia hạn hợp đồng tài trợ cho Manchester United sau mùa giải 2014-15 với lý do chi phí lên cao. Từ mùa giải 2015-16, Adidas sản xuất áo đấu Manchester United với một thỏa thuận hợp đồng 10 năm, đây là hợp đồng tài trợ kỷ lục thế giới trị giá tối thiểu 750 triệu bảng Anh.
Quyền sở hữu và tài chính
Câu lạc bộ ban đầu được Công ty đường sắt Lancashire và Yorkshire cấp vốn hoạt động, sau đó trở thành công ty hữu hạn vào năm 1892 và bán cổ phần cho các cổ động viên địa phương với giá một bảng thông qua mẫu đơn đăng ký. Vào năm 1902, phần lớn quyền sở hữu được chuyển sang cho bốn thương nhân địa phương, trong đó có chủ tịch tương lai John Henry Davies. Những người này đã bỏ ra mỗi người 500 bảng để cứu câu lạc bộ khỏi cảnh phá sản. Sau khi Davies qua đời năm 1927, câu lạc bộ lần nữa đối mặt với nguy cơ phá sản nhưng được James W. Gibson ra tay hỗ trợ vào năm 1931 với khoản đầu tư 2.000 bảng. Gibson tiến cử con trai mình là Alan lên làm việc trong ban quản trị câu lạc bộ vào năm 1948, nhưng ba năm sau thì ông qua đời; gia đình Gibson duy trì quyền sở hữu câu lạc bộ thông qua vợ của James là bà Lillian, nhưng vị trí chủ tịch câu lạc bộ được giao cho cựu cầu thủ Harold Hardman.
Louis Edwards, một người bạn của Matt Busby, được bổ nhiệm vào ban quản trị sau thảm họa München, dần thu về nhiều cổ phần của câu lạc bộ; với khoản đầu tư xấp xỉ 40.000 bảng Anh, ông có nắm giữ 54% cổ phần và chính thức nằm quyền điều hành vào tháng 1 năm 1964. Khi Lillian Gibson qua đời vào tháng 1 năm 1971, cổ phần của bà được chuyển cho Alan Gibson, người mà vào năm 1978 đã bán một lượng cổ phần cho con trai của Louis Edwards là Martin; Martin Edwards trở thành chủ tịch câu lạc bộ sau khi cha ông qua đời vào năm 1980. Nhà tài phiệt truyền thông Robert Maxwell có ý muốn mua lại câu lạc bộ vào năm 1984 nhưng không thể đáp ứng cái giá mà Edwards đưa ra. Vào năm 1989, chủ tịch Martin Edwards có ý định bán câu lạc bộ cho Michael Knighton với giá 20 triệu bảng, nhưng thương vụ đổ bể. Thay vào đó Knighton ngồi vào hàng ngũ giám đốc câu lạc bộ.
Manchester United xuất hiện trên thị trường chứng khoán vào tháng 6 năm 1991, và tiếp tục nhận được đề nghị mua lại vào năm 1998 từ phía tập đoàn British Sky Broadcasting của Rupert Murdoch. Động thái này dẫn tới sự ra đời của Shareholders United Against Murdoch – giờ có tên là Manchester United Supporters' Trust – một nhóm cổ động viên thuyết phục các cổ động viên khác mua cổ phần của câu lạc bộ để ngăn không cho việc tiếp quản thù địch xảy ra. Ban lãnh đạo Manchester United chấp nhận lời đề nghị trị giá 623 triệu bảng, nhưng cuộc tiếp quản không thành do sự ngăn cản của Ban Độc quyền và Sáp nhập vào tháng 4 năm 1999. Vài năm sau, cuộc canh tranh quyền lực xuất hiện giữa huấn luyện viên Alex Ferguson và các đối tác đua ngựa là John Magnier và J. P. McManus. Hai nhân vật này khi đó đang dần thu về phần lớn lượng cổ phần. Trong cuộc tranh cãi bắt nguồn từ việc tranh giành quyền sở hữu chú ngựa Rock of Gibraltar, Magnier và McManus có ý đồ lật đổ Ferguson khỏi vị trí huấn luyện viên trưởng. Sau đó ban lãnh đạo phản ứng bằng việc tiếp cận các nhà đầu tư khác nhằm giảm thiểu ưu thế của hai người Ireland kia.
Vào tháng 5 năm 2005, Malcolm Glazer thu về 28,7 phần trăm số cổ phần câu lạc bộ nắm giữ bởi McManus và Magnier, từ đó có được quyền kiểm soát thông qua công ty đầu tư Red Football Ltd để chính thức mua lại câu lạc bộ với giá 800 triệu bảng. Sau khi thương vụ hoàn tất, câu lạc bộ lập tức bị gạt ra khỏi thị trường chứng khoán. Vào tháng 7 năm 2006, câu lạc bộ thông báo gói tái huy động vốn vay cho khoản nợ 660 triệu bảng khiến tiền lãi phải thanh toán hàng hàng năm giảm 30% xuống còn 62 triệu bảng một năm. Vào tháng 1 năm 2010, với số nợ 716,5 triệu bảng, Manchester United tiếp tục tái huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu trị giá £504 triệu. Điều này giúp họ trả được 509 triệu tiền nợ các ngân hàng quốc tế. Tiền lãi hàng năm phải trả dựa trên trái phiếu – mãn hạn vào ngày 1 tháng 2 năm 2017 – là khoảng 45 triệu bảng mỗi năm. Dù nỗ lực tái cơ cấu nhưng các khoản nợ vẫn gây ra cuộc biểu tình của người hâm mộ vào ngày 23 tháng 1 năm 2010 tại Old Trafford và Trung tâm huấn luyện Trafford. Các nhóm cổ động viên khuyến khích các fan vào sân cổ vũ trong trang phục xanh lục vàng, màu sắc truyền thống của Newton Heath. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2010, Manchester United Supporters' Trust tổ chức các cuộc họp với nhóm các cổ động viên giàu có được gọi là "Red Knights" nhằm mua lại quyền điều hành của nhà Glazer.
Vào tháng 8 năm 2011, báo chí đưa tin nhà Glazer gặp gỡ Credit Suisse nhằm chuẩn bị cho việc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) với mức giá 1 tỉ đô la Mỹ (khoảng 600 triệu bảng Anh) trên thị trường chứng khoán Singapore và định giá câu lạc bộ ở mức 2 tỉ đô la. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ thông báo kế hoạch niêm yết IPO tại New York Stock Exchange. Cổ phần được chào bán với mức giá từ 16 tới 20 đô, nhưng mức giá bị cắt giảm xuống còn 14 đô la trước phiên IPO vào ngày 10 tháng 8 do những bình luận tiêu cực từ các nhà phân tích Phố Wall cũng như màn ra mắt thất vọng trên thị trường chứng khoán của Facebook vào tháng 5. Mặc dù vậy Manchester United vẫn có giá trị 2,3 tỉ đô la và trở thành câu lạc bộ bóng đá giá trị nhất thế giới.
Cầu thủ
Đội hình chính thức
Cho mượn
Đội trẻ và đội học viện
Danh sách cầu thủ U-21 và cầu thủ Học viện thi đấu cùng đội một:
Cựu cầu thủ
Đội trưởng câu lạc bộ
Kỷ lục cầu thủ
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Sir Matt Busby
Ban huấn luyện
Những huấn luyện viên trong lịch sử
Ban lãnh đạo
Chủ sở hữu: Gia đình Glazer thông qua Công ty TNHH Red Football Shareholder
Công ty TNHH Manchester United
Câu lạc bộ bóng đá Manchester United
Thành tích
Manchester United là một trong những câu lạc bộ thành công nhất tại châu Âu. Chiếc cúp đầu tiên của câu lạc bộ là Manchester Cup vào năm 1886 khi còn mang tên là Newton Heath LYR. Vào năm 1908, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên, và giành chức vô địch Cúp FA đầu tiên vào năm tiếp theo. Thời kỳ Manchester United giành nhiều danh hiệu nhất là thập kỷ 1990; năm chức vô địch quốc gia, bốn Cúp FA, một Cúp Liên đoàn, năm Charity Shield (trong đó có một lần đồng đoạt cúp), một UEFA Champions League, một Cúp C2 châu Âu, một Siêu cúp châu Âu và một Cúp Liên lục địa.
Đội hiện nắm giữ kỷ lục vô địch nước Anh nhiều nhất (20) – trong đó có kỷ lục 13 chức vô địch Ngoại hạng Anh – nhiều Siêu cúp Anh nhất (21). Họ cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên giành chức vô địch Cúp C1 vào năm 1968, và họ là đội bóng Vương quốc Anh duy nhất từng vô địch FIFA Club World Cup với danh hiệu năm 2008. United cũng trở thành câu lạc bộ Vương quốc Anh duy nhất vô địch Cúp Liên lục địa năm 1999. Cúp gần đây nhất của câu lạc bộ đến tháng 5 năm 2017 đó là chức vô địch UEFA Europa League 2016-17.
Sau chức vô địch UEFA Europa League 2016-17, United trở thành câu lạc bộ thứ năm trong lịch sử đã giành được 3 cúp Châu âu bao gồm European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League chỉ sau Juventus, Ajax, Bayern Munich và Chelsea.
Danh hiệu chính thức
Quốc gia
Giải vô địch quốc gia: 20 (kỷ lục)
1907–08, 1910–11, 1951–52, 1955–56, 1956–57, 1964–65, 1966–67, 1992–93, 1993–94, 1995–96
1996–97, 1998–99, 1999–00, 2000–01, 2002–03, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012–13
Cúp FA: 12
1908–09, 1947–48, 1962–63, 1976–77, 1982–83, 1984–85, 1989–90, 1993–94, 1995–96, 1998–99, 2003–04, 2015–16
Cúp Liên đoàn Anh: 6
1991–92, 2005–06, 2008–09, 2009–10, 2016–17, 2022–23
Siêu cúp Anh: 21 (kỷ lục)
1908, 1911, 1952, 1956, 1957, 1965*, 1967*, 1977*, 1983, 1990*, 1993
1994, 1996, 1997, 2003, 2007, 2008, 2010, 2011, 2013, 2016 (* đồng vô địch)
Giải hạng nhất Anh: 2
1935–36, 1974–75
Châu âu
UEFA Champions League/Cúp C1: 3
1967–68, 1998–99, 2007–08
UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1
1990–91
UEFA Cup/Cúp C3: 1
2016–17
UEFA Super Cup/Siêu cúp châu Âu: 1
1991
Thể giới
FIFA Club World Cup: 1
2008
Intercontinental Cup: 1
1999
Chú thích
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Trang thống kê chính thức
Trang chủ của Independent Manchester United Supporters Association
Trang chủ của Manchester United Supporters' Trust
Manchester United tại Sky Sports
Manchester United tại Premier League
Câu lạc bộ bóng đá Anh
Công ty niêm yết tại Thị trường Chứng khoán New York
Câu lạc bộ Premier League
Khởi đầu năm 1878
Thể thao Manchester
Vô địch Cúp FA
Vô địch Cúp EFL
Câu lạc bộ bóng đá tại Trafford
Khởi đầu năm 1878 ở Anh
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1878
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1902
Câu lạc bộ English Football League
Câu lạc bộ bóng đá Đại Manchester
|
25011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/XSLT
|
XSLT
|
XSLT (viết tắt của tiếng Anh XSL Transformations) là một ngôn ngữ dựa trên XML dùng để biến đổi các tài liệu XML. Tài liệu gốc thì không bị thay đổi; mà thay vào đó, một tài liệu XML mới được tạo ra dựa trên nội dung của tài liệu cũ. Tài liệu mới có thể là có định dạng XML hay là một định dạng nào đó khác, như HTML hay văn bản thuần. XSLT thường dùng nhất trong việc chuyển đổi dữ liệu giữa các lược đồ XML hay để chuyển đổi dữ liệu XML thành các trang web hay tài liệu dạng PDF.
XSLT ra đời là kết quả của các nỗ lực phát triển Extensible Stylesheet Language (XSL) của W3C trong suốt 1998–1999, cùng với sự ra đời của XSL Formatting Objects (XSL-FO) và XML Path Language, XPath.
Người biên tập cho phiên bản đầu tiên (nhà thiết kế chính của ngôn ngữ) là James Clark. Phiên bản dùng phổ biến hiện nay là XSLT 1.0, là chuẩn gợi ý dùng đưa ra bởi W3C vào ngày 16 tháng 11 năm 1999. Với nhiều mở rộng từ phiên bản 2.0, dưới sự chủ trì biên tập của Michael Kay, XSLT đã đạt đến chuẩn Candidate Recommendation từ W3C vào 3 tháng 11 năm 2005.
Xem thêm
XML transformation language, a computer language designed specifically to transform an input XML document into an output XML document which satisfies some specific goal.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Implementations
Implementations for Java:
Xalan-Java
SAXON by Michael Kay
XT originally by James Clark
Oracle XSLT, in the Oracle XDK
Implementations for C hoặc C++:
Xalan-C++
libxslt the XSLT C library for GNOME
Sablotron , which is integrated into PHP
Implementations for Perl:
XML::LibXSLT is a Perl interface to the libxslt C library
Implementations for Python:
4XSLT, in the 4Suite toolkit by Fourthought, Inc.
lxml by Martijn Faassen is a Pythonic wrapper of the libxslt C library
Implementations for JavaScript:
Google AJAXSLT AjaXSLT is an implementation of XSL-T in JavaScript, intended for use in Ajax applications. Because XSL-T uses XPath, it is also an implementation of XPath that can be used independently of XSL-T.
Implementations for specific operating systems:
Microsoft's MSXML library may be used in various Microsoft Windows application development environments and languages, such as.Net, Visual Basic, C, and JScript.
Saxon.NET Project Weblog , an IKVM.NET-based port of Dr. Michael Kay's and Saxonica's Saxon Processor provides XSLT 2.0, XPath 2.0, and XQuery 1.0 support on the.NET platform.
Implementations integrated into web browsers: (Comparison of layout engines (XML))
Mozilla has native XSLT support based on TransforMiiX.
Safari 1.3+ has native XSLT support.
X-Smiles has native XSLT support.
Opera has native XSLT support since Version 9.
Internet Explorer 6 supports XSLT 1.0 via the MSXML library (described above). IE5 and IE5.5 came with an earlier MSXML component that only supported an older, nonrecommended dialect of XSLT. A newer version of MSXML can be downloaded and installed separately to enable IE5 and IE5.5 to support XSLT 1.0 through scripting, and if certain Windows Registry keys are modified, the newer library will replace the older version as the default used by IE.
Tài liệu
XSLT 1.0 W3C Recommendation
XSLT 2.0 W3C Candidate Recommendation
Zvon XSLT 1.0 Reference
XSL Concepts and Practical Use by Norman Walsh
Tutorial from developerWorks (1 hour)
Zvon XSLT Tutorial
XSLT Tutorial
Quick tutorial
What kind of language is XSLT?
XSLT and Scripting Languages
XSLT Community Wiki
Địa chỉ thư điện tử
The XSLT list hosted by Mulberrytech
Blog
A commentary, news, and evangelism weblog devoted to XSLT
Sách
XSLT by Doug Tidwell, published by O'REILLY (ISBN 0-596-00053-7)
XSLT Programmer's Reference by Michael Kay (ISBN 1-86100-312-9)
XSLT 2.0 Web Development by Dmitry Kirsanov (ISBN 0-13-140635-3)
XSL Companion, 2nd Edition by Neil Bradley, published by Addison-Wesley (ISBN 0-201-77083-0)
XSLT and XPath on the Edge (Unlimited Edition) by Jeni Tennison, published by Hungry Minds Inc, U.S. (ISBN 0-7645-4776-3)
XSLT & XPath, A Guide to XML Transformations by John Robert Gardner and Zarella Rendon, published by Prentice-Hall (ISBN 0-13-040446-2)
Công cụ
Thư viện
EXSLT is a widespread community initiative to provide extensions to XSLT.
FXSL is a library implementing support for Higher-order functions in XSLT. FXSL is written in XSLT itself.
Khác
An XML and XSLT Editor with Debugger A tool for creating and testing XSLT documents
Altova XMLSpy supports XSLT 1.0/2.0 editing and debugging
Saxon XSLT and XQuery processor developed by Michael Kay
TestXSLT by Mark Liyanage, a Mac OS X tool for experimenting and learning with various XSLT processors
XSL Transformation to provide markup of XML contents from external lexicons
Stylus Studio XSLT IDE an XSLT debugger, editor and mapper.
Netbeans IDE provides an XSLT development environment
Xselerator dedicated XSLT editor/debugger with support for arbitrary XSLT engines
Treebeard Open source Java XSLT editor with support for various XSLT 1.0/2.0 processors
xmlBlueprint XML editor
<oXygen/> XSLT editor and debugger
Liquid XML Editor
Chuẩn dựa trên XML
Ngôn ngữ lập trình khai báo
Ngôn ngữ hàm
Ngôn ngữ đánh dấu
Tiêu chuẩn của W3C
Tiêu chuẩn dựa trên XML
Ngôn ngữ lập trình bậc cao
|
25013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/SAX
|
SAX
|
SAX là các API phân tách truy xuất tuần tự đến tài liệu XML. Sax cung cấp một cơ chế cho việc đọc dữ liệu từ một tài liệu XML. Nó là một thay thế tốt và hay dùng thay cho DOM. Tên của nó là viết tắt của "Simple API for XML" (tiếng Anh, tức là "API đơn giản cho XML").
Bộ phân tách mà hiện thực SAX (ví dụ, bộ phân tách SAX Parser) xử lý thông tin XML dưới dạng một dòng dữ liệu (single stream of data). Dòng dữ liệu này là đơn hướng, nghĩa là dữ liệu đã đọc rồi thì không thể đọc lại ngoại trừ phân tách lại từ đầu.
Hầu hết những ai sử dụng XML tin rằng kết quả của mẫu hình SAX là xử lý nhanh hơn DOM. Điều này là vì SAX stream dùng ít bộ nhớ hơn thay vì phải lưu tất cả trong bộ nhớ như với cây DOM.
Bộ phân tách SAX được hiện thực theo mô hình hướng sự kiện (event-driven) mà trong đó nhà lập trình cung cấp các phương thức callback được triệu gọi bởi bộ phân tách như là một phần của quá trình duyệt qua tài liệu XML.
SAX được phát triển bởi sự hợp tác qua việc trao đổi trong danh sách địa chỉ thư điện tử xml-dev, mà không có hội đồng c....
Msdxhính thức nào cả, nhưng sau đó nhanh chóng được hiện thực bởi các công ty lớn. Người phát triển và bảo trì đứng đầu là David Megginson.
Xem thêm
Streaming Transformations for XML (STX)
JAXP
Xerces
Crimson XML
System Integrated Automaton parser
DOM
Tham khảo
David Brownell: SAX4, O'Reilly, ISBN 0-596-00237-8
W. Scott Means, Michael A. Bodie: The Book of SAX, No Starch Press, ISBN 1-886411-77-8
Liên kết ngoài
SAX homepage
Top Ten SAX2 Tips
Interfaces for...
Python
Java
Chuẩn dựa trên XML
Giao diện lập trình ứng dụng
Tiêu chuẩn dựa trên XML
|
25015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A1y%20%C4%91o%20gi%C3%B3
|
Máy đo gió
|
Máy đo gió (tiếng Anh: anemometer, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là "anemos" có nghĩa là gió), Hán Việt: Phong tốc kế 風速計, là một thiết bị dùng để đo tốc độ và áp suất của gió, và là một trong những thiết bị có thể thấy ở các trạm khí tượng.
Máy đo gió được chia làm hai loại: loại dùng để đo tốc độ gió, và loại dùng để đo áp suất của gió. Tuy nhiên giữa tốc độ và áp suất gió có những điểm liên quan mật thiết với nhau, vì vậy một máy đo gió phù hợp với hai loại này sẽ cho cả hai thông tin này.
Đo tốc độ gió
Máy đo tốc độ gió chia làm hai loại: một loại không cần chong chóng chỉ hướng gió, loại còn lại thì cần.
Máy đo hình chén
Dạng máy đo gió hình chén, được phát minh bởi tiến sĩ John Thomas Romney Robinson (1846), đài quan sát Armagh, là thiết bị nổi tiếng và được dùng rộng rãi, và là một trong những thiết bị đo gió đầu tiên.
Máy có 4 chén hình bán cầu, mỗi cái gắn vào một đầu của một tay đòn, có 2 tay đòn nằm ngang vuông góc với nhau. Có một trục đứng ở giữa nằm ở giao điểm 2 tay đòn là tâm mà các chén quay xung quanh; một bộ truyền động đếm số vòng mà trục quay được, và từ số vòng quay được đó trong một khoảng thời gian sẽ tính ra được vận tốc gió.
Các chén được đặt đối xứng ở cuối mỗi tay đòn, vì vậy có thể thấy gió luôn thổi vào phía trong chén; phía sau của chén cũng hướng vào gió, nhưng áp suất của gió thổi vào không đáng kể, và do đó sự xoay vòng được sinh ra; mỗi chén đến lượt nó sẽ tạo ra lực để tiếp tục xoay.
Hai điểm nổi bật của máy đo này là sự đơn giản và không cần chong chóng chỉ hướng gió; tuy nhiên nó không phù hợp để lưu dữ liệu lên giấy tại một thời điểm nhất định, và do đó nó sẽ ghi thiếu thông tin những cơn gió giật mạnh trong thời gian ngắn. Thật không may, khi tiến sĩ Robinson thiết kế máy đo gió, ông phát biểu rằng dù kích thước của chén hay độ dài cánh tay đòn, vận tốc của chén luôn quay bằng ⅓ vận tốc gió. Kết quả này đã được xác nhận bằng các thí nghiệm độc lập, nhưng nó vẫn còn cách xa sự thực, vì tỉ số thực giữa vận tốc gió và vận tốc chén phụ thuộc rất lớn vào kích thước của chén và chiều dài cánh tay đòn, và có thể có giá trị hơn ⅔. Vì vậy kết quả thu được của máy đo gió thường có sai số đến gần 50%.
Máy đo dạng cối xay gió
Một dạng khác của máy đo vận tốc gió có dạng cối xay gió. Trong dạng máy đo gió của Robinson thì trục quay nằm thẳng đứng, nhưng với dạng này thì trục quay nằm song song với hướng gió, do đó nó nằm ngang. Hơn nữa, khi gió đổi chiều thì trục quay cũng thay đổi, chong chóng chỉ hướng gió hoặc những thứ tương tự được tạo ra có cùng mục đích như vậy. Trong trường hợp hướng gió luôn không đổi, như trong trường hợp hệ thống thông gió của mỏ hoặc nhà cao tầng, máy đo gió sẽ cho kết quả rất tốt.
Đo áp suất gió
Đo áp suất gió người ta sử dụng ống pito
Chú ý về đo gió
Bài liên quan
Tham khảo
Dines, William Henry. Anemometer. 1911 Encyclopædia Britannica.
Liên kết ngoài
Glossary Definition: Anemometer - AMS Glossary of Meteorology
Máy đo gió hình chén của John Thomas Romney Robinson
Bài lấy từ Britannica năm 1911
Dụng cụ đo lường
Khí tượng học
Thiết bị điều hướng
Phát minh của Ý
|
25020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rudolf%20Diesel
|
Rudolf Diesel
|
Rudolf Diesel (tên đầy đủ Rudolf Christian Karl Diesel; 1858–1913) là một nhà phát minh và kỹ sư người Đức. Ông nổi tiếng vì những phát minh về động cơ, nên tên của ông được cho một loại động cơ (động cơ diesel) và một loại nhiên liệu (dầu diesel).
Cuộc đời
Ông Diesel sinh ngày 18 tháng 3 năm 1858 tại Paris. Năm 1872 Diesel quyết định trở thành một kỹ sư và là học sinh tốt nghiệp giỏi nhất các khóa đào tạo tại trường dạy nghề (1873) và trường công nghiệp (mùa hè 1875). Sau đó ông bắt đầu học đại học tại trường Đại học Kỹ thuật München. Tháng 1 năm 1880 ông thi tốt nghiệp tại trường Đại học Kỹ thuật München với điểm tốt nhất từ khi thành lập trường.
Ngày 27 tháng 2 năm 1892 Diesel đăng ký tại cơ quan về bằng phát minh của Đế chế Đức và ngày 23 tháng 2 năm 1893 ông nhận được bằng phát minh DRP 67 207 "về quy trình làm việc và cách chế tạo cho máy đốt". Bằng phát minh thứ hai của ông (DRP 82 168, ngày 29 tháng 11 năm 1893) sửa đổi quy trình của động cơ nhiệt Carnot.
Bắt đầu từ năm 1893 Rudolf Diesel phát triển động cơ Diesel trong nhà máy cơ khí Ausburg (sau này là MAN AG) với sự tham gia về tài chính của công ty Friedrich Krupp. Năm 1897 mô hình động cơ diesel đầu tiên có thể hoạt động được hoàn thành.
Ngày 1 tháng 1 năm 1898 nhà máy động cơ Diesel Ausburg được thành lập, sau đó là Diesel Engine Company vào mùa thu năm 1900 tại London (Vương quốc Anh). Tàu thủy được trang bị động cơ diesel đầu tiên ra đời năm 1903. Năm 1908 động cơ Diesel loại nhỏ đầu tiên, xe tải và đầu tàu hỏa diesel đầu tiên được chế tạo. Động cơ diesel dùng cho ô tô được chế tạo hằng loạt lần đầu tiên trong năm 1936 và được trang bị cho chiếc Mercedes-Benz 260-D.
Mất tích
Ngày 29 tháng 9 năm 1913 Rudolf Diesel lên tàu "Dresden" tại Antwerpen (Bỉ) đi London trên eo biển Manche để tham dự buổi họp mặt của Consolidated Diesel Manufacturing Ltd. Sau đấy người ta không còn thấy ông nữa. Vào ngày 10 tháng 10 thủy thủ của tàu Hà Lan "Coertsen" nhìn thấy một thi thể trôi dạt trên biển trong lúc biển động mạnh. Họ không thể vớt được thi thể mà chỉ có thể vớt được một vài vật nhỏ như ví tiền, dao bỏ túi và bao đựng kính mắt, những vật được Eugen Diesel, con trai của Rudolf Diesel, nhận dạng vào ngày 13 tháng 10 tại Vlissingen (tây nam Hà Lan).
Tình huống dẫn đến cái chết của Rudolf Diesel không được làm sáng tỏ, gia đình của ông hoài nghi giả thuyết cho rằng ông đã tự tử và tin rằng ông đã bị giết chết. Một giả thuyết cho rằng nước Đức lúc bấy giờ đã cho người giết chết ông vì chiến tranh đang đến gần kề và Rudolf Diesel đã cấp giấy phép về kỹ thuật Diesel cho nước Pháp và Anh, là hai quốc gia địch thủ lúc bấy giờ. Một giả thuyết khác cho rằng diesel đã bị các nhà tài phiệt trong ngành công nghiệp dầu mỏ cho người ám sát vì ông đang phát triển loại động cơ diesel sinh học. Mặc dầu vậy việc ông tự tử cũng được cho là rất có thể vì ông đang đứng trước sự sụp đổ về tài chính.
Sau cái chết của Rudolf Diesel việc nghiên cứu về động cơ diesel sinh học bị chấm dứt và chỉ còn loại động cơ diesel dùng dầu diesel có nguồn gốc hóa thạch là được tiếp tục phát triển.
Tham khảo
Eugen Diesel, Diesel: Der Mensch, das Werk, das Schicksal (Diesel: Con người, sự nghiệp, số phận). Hamburg 1937.
Eugen Diesel, Erfinder im Brennpunkt der Welt, Rudolf Diesel und sein Motor (Nhà phát minh trong điểm nóng của thế giới, Rudolf Diesel và động cơ của ông). Reclam-Verlag Stuttgart, 1937?
Rudolf Diesel, Die Entstehung des Dieselmotors (Quá trình hình thành động cơ Diesel). Moers: Steiger Verlag, 1984.
Liên kết ngoài
Rudolf Diesel, Inventor of the Diesel Engine Mary Bellis 09/04/2019
Tiểu sử từ Hempcar.org (tiếng Anh)
Nhà phát minh Đức
Kỹ sư Đức
Người Paris
Tử vong vì chết đuối
Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Nhà phát minh Quốc gia
|
25043
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inter%20Milan
|
Inter Milan
|
Football Club Internazionale Milano, thường được gọi là Internazionale () hoặc đơn giản là Inter, và thường được gọi là Inter Milan ở các quốc gia nói tiếng Anh, là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Milano, Lombardia. Inter là đội bóng Ý duy nhất luôn thi đấu ở giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý kể từ khi ra mắt vào năm 1909.
Được thành lập vào năm 1908 sau sự chia rẽ trong Câu lạc bộ bóng đá và cricket Milan (nay là AC Milan), Inter đã giành chức vô địch đầu tiên vào năm 1910. Kể từ khi thành lập, câu lạc bộ đã giành được 35 danh hiệu trong nước, bao gồm 19 chức vô địch quốc gia, 9 Coppa Italia và 7 Siêu cúp Ý. Từ năm 2006 đến 2010, câu lạc bộ đã giành được 5 chức vô địch liên tiếp, cân bằng kỷ lục mọi thời đại vào thời điểm đó. Họ đã ba lần vô địch Champions League: hai lần vào năm 1964 và 1965 và một lần nữa vào năm 2010. Chiến thắng mới nhất của họ đã hoàn thành cú ăn ba mùa giải chưa từng có của Ý, với việc Inter giành được Coppa Italia và Scudetto cùng năm. Câu lạc bộ cũng đã giành được ba UEFA Cup, hai Cúp liên lục địa và một FIFA Club World Cup.
Các trận sân nhà của Inter được diễn ra tại sân vận động San Siro, nơi họ chia sẻ với đối thủ cùng thành phố là AC Milan. Đây là sân vận động lớn nhất của bóng đá Ý với sức chứa 75.817. Họ có mối thù truyền kiếp với AC Milan, đội mà họ cạnh tranh tại Derby della Madonnina, và Juventus, đội mà họ cạnh tranh tại Derby d'Italia; kình địch của họ với đội AC Milan là một trong những trận derby được theo dõi nhiều nhất trong bóng đá. , Inter có tỷ lệ tham dự trận đấu trên sân nhà cao nhất ở Ý và tỷ lệ tham dự cao thứ sáu ở Châu Âu. Câu lạc bộ là một trong những câu lạc bộ có giá trị nhất trong bóng đá Ý và thế giới.
Lịch sử
Thành lập và những năm đầu (1908–1960)
Câu lạc bộ được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 1908 với tên gọi Football Club Internazionale, sau sự chia rẽ với Milan Cricket and Football Club (nay là AC Milan). Tên của câu lạc bộ bắt nguồn từ mong muốn của các thành viên sáng lập là chấp nhận không giới hạn các cầu thủ nước ngoài cũng như người Ý.
Câu lạc bộ đã giành chức vô địch đầu tiên vào năm 1910 và lần thứ hai vào năm 1920. Đội trưởng kiêm huấn luyện viên của đội giành chức vô địch đầu tiên là Virgilio Fossati, người sau đó đã tử trận khi đang phục vụ trong quân đội Ý trong Thế chiến thứ nhất. Năm 1922 Inter là đứng trước nguy cơ xuống hạng hai, nhưng họ vẫn ở giải đấu hàng đầu sau khi thắng hai trận play-off.
Sáu năm sau, trong thời kỳ Phát xít, câu lạc bộ buộc phải sáp nhập với Unione Sportiva Milanese và được đổi tên thành Società Sportiva Ambrosiana. Trong mùa giải 1928–29, đội mặc áo thi đấu màu trắng có in hình chữ thập đỏ; thiết kế của áo đấu được lấy cảm hứng từ lá cờ và huy hiệu của thành phố Milan. Năm 1929, tân chủ tịch câu lạc bộ Oreste Simonotti đổi tên câu lạc bộ thành Associazione Sportiva Ambrosiana và khôi phục lại áo thi đấu màu xanh đen trước đây, tuy nhiên những người ủng hộ vẫn tiếp tục gọi đội là Inter, và vào năm 1931, tân chủ tịch Pozzani nhượng bộ trước áp lực của cổ đông và thay đổi cái tên đến Associazione Sportiva Ambrosiana-Inter.
Coppa Italia (Cúp quốc gia Ý) đầu tiên của họ đã giành được vào năm 1938–39, được dẫn dắt bởi huyền thoại Giuseppe Meazza, người mà sau này sân San Siro được đặt tên chính thức. Chức vô địch thứ năm diễn ra vào năm 1940, mặc dù Meazza bị chấn thương. Sau khi Thế chiến II kết thúc, câu lạc bộ đã lấy lại tên ban đầu, giành chức vô địch lần thứ sáu vào năm 1953 và lần thứ bảy vào năm 1954.
Grande Inter (1960–1967)
Năm 1960, huấn luyện viên Helenio Herrera gia nhập Inter từ Barcelona, mang theo tiền vệ Luis Suárez, người đã giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu cùng năm nhờ vai trò trong cú đúp La Liga/Fairs Cup của Barcelona. Ông biến Inter trở thành một trong những đội bóng vĩ đại nhất châu Âu. Ông đã sửa đổi chiến thuật 5–3–2 được gọi là "Verrou" ("chốt cửa") để tạo ra sự linh hoạt hơn cho các cuộc phản công. Hệ thống catenaccio được phát minh bởi một huấn luyện viên người Áo, Karl Rappan. Hệ thống ban đầu của Rappan được triển khai với bốn hậu vệ cố định, chơi theo một hệ thống đánh người nghiêm ngặt, cộng với một playmaker giữa sân, người chơi bóng cùng với hai tiền vệ cánh. Herrera sẽ sửa đổi nó bằng cách thêm một hậu vệ thứ năm, hậu vệ quét hoặc libero phía sau hai trung vệ. Hậu vệ quét hoặc libero đóng vai trò là người tự do sẽ đối phó với bất kỳ kẻ tấn công nào đi qua hai trung vệ. Inter về thứ ba tại Serie A trong mùa giải đầu tiên, thứ hai vào năm sau và thứ nhất trong mùa thứ ba. Sau đó là chiến thắng liên tiếp tại Cúp C1 châu Âu vào các năm 1964 và 1965, mang về cho ông danh hiệu "il Mago" ("Pháp sư"). Nòng cốt trong đội của Herrera là các hậu vệ cánh tấn công Tarcisio Burgnich và Giacinto Facchetti, hậu vệ quét Armando Picchi, người kiến tạo lối chơi Suárez, tiền vệ cánh Jair, tiền vệ trái Mario Corso và Sandro Mazzola, người chơi ở cánh phải.
Năm 1964, Inter lọt vào Chung kết Cúp C1 châu Âu khi đánh bại Borussia Dortmund ở bán kết và Partizan ở tứ kết. Trong trận chung kết, họ gặp Real Madrid, đội đã lọt vào bảy trong số chín trận chung kết cho đến nay. Mazzola ghi hai bàn trong chiến thắng 3–1, và sau đó đội đã giành được Cúp Liên lục địa trước Independiente. Một năm sau, Inter lặp lại kỳ tích khi đánh bại đội từng hai lần vô địch Benfica trong trận chung kết được tổ chức trên sân nhà, nhờ bàn thắng của Jair, và sau đó một lần nữa đánh bại Independiente ở Cúp Liên lục địa. Năm 1967, khi Suárez dính chấn thương, Inter thua 1–2 trong trận Chung kết cúp C1 trước Celtic. Trong năm đó, câu lạc bộ đổi tên thành Football Club Internazionale Milano.
Những thành tựu tiếp theo (1967–1991)
Sau kỷ nguyên vàng của những năm 1960, Inter đã giành được chức vô địch giải đấu thứ 11 vào năm 1971 và lần thứ 12 vào năm 1980. Inter đã bị đánh bại lần thứ hai sau 5 năm trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu, thua 0–2 trước Ajax của Johan Cruyff vào năm 1972. Trong suốt những năm 1970 và 1980, Inter cũng đã thêm hai Coppa Italia vào danh sách của mình, vào các năm 1977–78 và 1981–82.
Hansi Müller (1975–1982 VfB Stuttgart, 1982–1984 Inter Milan) và Karl-Heinz Rummenigge (1974–1984 Bayern Munich, 1984–1987 Inter Milan) chơi cho Inter Milan. Được dẫn dắt bởi bộ đôi người Đức Andreas Brehme và Lothar Matthäus, và Ramón Díaz người Argentina, Inter đã giành chức vô địch Serie A năm 1989. Inter đã không thể bảo vệ danh hiệu của mình mặc dù đã bổ sung đồng hương người Đức Jürgen Klinsmann vào đội và giành được Supercoppa Italiana đầu tiên vào đầu mùa giải.
Sự thịnh vượng hỗn tạp (1991–2004)
Những năm 1990 là một thời kỳ thất vọng. Trong khi các đối thủ lớn của họ là Milan và Juventus đang đạt được thành công ở cả trong nước và châu Âu, thì Inter lại bị bỏ lại phía sau, với nhiều kết quả tầm thường trên bảng xếp hạng giải quốc nội, tệ nhất của họ là vào mùa giải 1993–94 khi họ chỉ cách khu vực xuống hạng đúng một điểm. Tuy nhiên, họ đã đạt được một số thành công ở châu Âu với ba lần vô địch UEFA Cup vào các năm 1991, 1994 và 1998.
Với sự tiếp quản của Massimo Moratti từ Ernesto Pellegrini vào năm 1995, Inter đã hai lần phá kỷ lục thế giới về phí chuyển nhượng trong giai đoạn này (19,5 triệu bảng cho Ronaldo từ Barcelona năm 1997 và 31 triệu bảng cho Christian Vieri từ Lazio hai năm sau đó). Tuy nhiên, những năm 1990 vẫn là thập kỷ duy nhất trong lịch sử của Inter mà họ không giành được chức vô địch Serie A nào. Đối với những người hâm mộ Inter, thật khó để tìm ra ai là người chịu trách nhiệm cụ thể trong thời điểm khó khăn và điều này dẫn đến một số mối quan hệ băng giá giữa họ với chủ tịch, huấn luyện viên và thậm chí một số cá nhân cầu thủ.
Moratti sau đó đã trở thành mục tiêu của người hâm mộ, đặc biệt là khi ông sa thải huấn luyện viên rất được yêu mến Luigi Simoni chỉ sau một vài trận đấu ở mùa giải 1998–99, khi vừa nhận giải thưởng huấn luyện viên người Ý của năm 1998 một ngày trước khi bị sa thải. Mùa giải đó, Inter lần đầu tiên không thể vượt qua vòng loại của bất kỳ giải đấu châu Âu nào sau gần mười năm, kết thúc ở vị trí thứ tám.
Mùa giải tiếp theo, Moratti bổ nhiệm cựu huấn luyện viên Juventus Marcello Lippi, và ký hợp đồng với những cầu thủ như Angelo Peruzzi và Laurent Blanc cùng với các cựu cầu thủ Juventus khác là Vieri và Vladimir Jugović. Đội đã tiến gần đến thành công trong nước đầu tiên kể từ năm 1989 khi họ lọt vào trận chung kết Coppa Italia chỉ để bị đánh bại bởi Lazio.
Những bất hạnh của Inter tiếp tục diễn ra ở mùa giải tiếp theo, thua trận Supercoppa Italiana 2000 trước Lazio với tỷ số 4–3 sau khi vượt lên dẫn trước nhờ công của tân binh Robbie Keane. Họ cũng bị loại ở vòng sơ loại Champions League bởi câu lạc bộ Thụy Điển Helsingborgs IF, với việc Álvaro Recoba bỏ lỡ một quả phạt đền muộn quan trọng. Lippi bị sa thải chỉ sau một trận đấu duy nhất của mùa giải mới sau thất bại đầu tiên tại Serie A của Inter trước Reggina. Marco Tardelli, được chọn để thay thế Lippi, không cải thiện được kết quả và được người hâm mộ Inter nhớ đến với tư cách là huấn luyện viên đã thua 6–0 trong trận derby thành phố với Milan. Các thành viên khác của "gia đình" Inter trong giai đoạn này đã phải chịu đựng những người như Vieri và Fabio Cannavaro, cả hai đều có nhà hàng của họ ở Milan bị phá hoại sau thất bại trước Rossoneri.
Năm 2002, Inter không chỉ lọt vào bán kết UEFA Cup mà còn chỉ cách chức vô địch Scudetto 45 phút khi họ cần duy trì lợi thế dẫn trước một bàn trước Lazio. Inter đã dẫn trước 2–1 chỉ sau 24 phút. Lazio gỡ hòa trong thời gian bù giờ của hiệp một và sau đó ghi thêm hai bàn nữa trong hiệp hai để mang về chiến thắng chung cuộc giúp Juventus lên ngôi vô địch. Mùa giải tiếp theo, Inter kết thúc với vị trí á quân giải đấu và cũng lọt vào bán kết Champions League 2002–03 gặp Milan, thua do luật bàn thắng sân khách.
Sự trở lại và cú ăn ba chưa từng có (2004–2011)
Vào ngày 8 tháng 7 năm 2004, Inter bổ nhiệm cựu huấn luyện viên của Lazio Roberto Mancini làm huấn luyện viên trưởng mới. Trong mùa giải đầu tiên của mình, đội đã thu về 72 điểm sau 18 trận thắng, 18 trận hòa và chỉ thua hai trận, đồng thời giành được Coppa Italia và sau đó là Supercoppa Italiana. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2006, Inter một lần nữa giành được danh hiệu Coppa Italia sau khi đánh bại Roma với chiến thắng chung cuộc 4–1 (tỷ số 1–1 tại Rome và thắng 3–1 tại San Siro).
Inter đã được trao lại chức vô địch Serie A 2005–06 sau khi Juventus xuống hạng và Milan bị tước điểm do vụ bê bối Calciopoli. Trong mùa giải tiếp theo, Inter đã phá kỷ lục 17 chiến thắng liên tiếp ở Serie A, bắt đầu từ ngày 25 tháng 9 năm 2006 với chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước Livorno, và kết thúc vào ngày 28 tháng 2 năm 2007, sau trận hòa 1–1 trên sân nhà trước Udinese. Vào ngày 22 tháng 4 năm 2007, Inter giành Scudetto lần thứ hai liên tiếp — và lần đầu tiên trên sân này kể từ năm 1989 — khi họ đánh bại Siena 2–1 tại Stadio Artemio Franchi. Hậu vệ người Ý vô địch World Cup Marco Materazzi ghi cả hai bàn thắng.
Inter bắt đầu mùa giải 2007–08 với mục tiêu vô địch cả Serie A và Champions League. Đội đã khởi đầu tốt ở giải đấu, đứng đầu bảng ngay từ lượt trận đầu tiên, đồng thời giành quyền vào vòng loại trực tiếp Champions League. Tuy nhiên, sự sụp đổ muộn màng, dẫn đến thất bại 2–0 với mười người đàn ông trước Liverpool vào ngày 19 tháng 2 tại Champions League, đã đặt ra câu hỏi về tương lai của huấn luyện viên Roberto Mancini tại Inter trong khi phong độ trong nước thay đổi rõ rệt may mắn với việc đội không thắng trong ba trận Serie A sau đó. Sau khi bị Liverpool loại ở Champions League, Mancini tuyên bố ý định rời bỏ công việc của mình ngay lập tức chỉ để đổi ý vào ngày hôm sau. Vào ngày cuối cùng của mùa giải Serie A 2007–08, Inter chơi trên sân khách Parma, và hai bàn thắng của Zlatan Ibrahimović đã ấn định chức vô địch thứ ba liên tiếp của họ. Tuy nhiên, Mancini đã bị sa thải ngay sau đó do tuyên bố rời câu lạc bộ trước đó.
Vào ngày 2 tháng 6 năm 2008, Inter đã bổ nhiệm cựu huấn luyện viên trưởng Porto và Chelsea José Mourinho làm huấn luyện viên trưởng mới. Trong mùa giải đầu tiên của mình, Nerazzurri đã giành được Suppercoppa Italiana và danh hiệu vô địch quốc gia thứ tư liên tiếp, mặc dù đã thất bại ở Champions League ở vòng loại trực tiếp đầu tiên trong năm thứ ba liên tiếp, thua đội bóng vào chung kết Manchester United. Khi giành chức vô địch, Inter đã trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong 60 năm qua giành được danh hiệu này lần thứ tư liên tiếp và cùng với Torino và Juventus là những câu lạc bộ duy nhất đạt được thành tích này, cũng như là câu lạc bộ đầu tiên có trụ sở bên ngoài Turin.
Inter vô địch Champions League 2009–10, đánh bại đương kim vô địch Barcelona trong trận bán kết trước khi đánh bại Bayern Munich 2–0 trong trận chung kết với hai bàn thắng từ Diego Milito. Inter cũng giành chức vô địch Serie A 2009–10 khi hơn Roma hai điểm, và Coppa Italia 2010 khi đánh bại đội bóng này với tỷ số 1–0 trong trận chung kết. Điều này khiến Inter trở thành đội bóng Ý đầu tiên giành được cú ăn ba. Cuối mùa giải, Mourinho rời đội để dẫn dắt Real Madrid; ông được thay thể bởi Rafael Benítez.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2010, Inter đánh bại Roma 3–1 và giành Siêu cúp bóng đá Ý 2010, chiếc cúp thứ tư trong năm của họ. Vào tháng 12 năm 2010, họ lần đầu tiên giành được FIFA Club World Cup sau chiến thắng 3–0 trước TP Mazembe trong trận chung kết. Tuy nhiên, sau trận thắng này, vào ngày 23 tháng 12 năm 2010, do phong độ sa sút ở Serie A, đội bóng đã sa thải Benítez. Ông được thay thế bởi Leonardo vào ngày hôm sau.
Leonardo khởi đầu với 30 điểm sau 12 trận, trung bình 2,5 điểm mỗi trận, tốt hơn những người tiền nhiệm Benítez và Mourinho. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2011, Leonardo lập kỷ lục Serie A mới của Ý khi thu về 33 điểm sau 13 trận; kỷ lục trước đó là 32 điểm sau 13 trận do Fabio Capello lập ở mùa giải 2004–05. Leonardo đã dẫn dắt câu lạc bộ đến tứ kết Champions League trước khi thua Schalke 04, và đưa họ đến danh hiệu Coppa Italia. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, anh từ chức và theo sau là những huấn luyện viên mới Gian Piero Gasperini, Claudio Ranieri và Andrea Stramaccioni, tất cả đều được thuê trong mùa giải tiếp theo.
Thay đổi chủ sở hữu (2011–2019)
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2012, câu lạc bộ thông báo rằng Moratti sẽ bán cổ phần thiểu số của câu lạc bộ cho một tập đoàn Trung Quốc do Kenneth Huang đứng đầu. Cùng ngày, Inter công bố một thỏa thuận đã được thành lập với China Railway Construction Corporation Limited cho một dự án sân vận động mới, tuy nhiên, thỏa thuận với người Trung Quốc cuối cùng đã sụp đổ. Mùa giải 2012–13 là mùa giải tồi tệ nhất trong lịch sử câu lạc bộ gần đây với việc Inter đứng thứ 9 tại Serie A và không đủ điều kiện tham dự bất kỳ giải đấu châu Âu nào. Walter Mazzarri được bổ nhiệm thay thế Stramaccioni làm huấn luyện viên cho mùa giải 2013–14 vào ngày 24 tháng 5 năm 2013, sau khi kết thúc nhiệm kỳ của mình tại Napoli. Mazzari đã dẫn dắt câu lạc bộ đến vị trí thứ năm tại Serie A và đến vòng loại UEFA Europa League 2014–15.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 2013, một tập đoàn Indonesia (International Sports Capital HK Ltd.) do Erick Thohir, Handy Soetedjo và Rosan Roeslani đứng đầu, đã ký thỏa thuận mua 70% cổ phần của Inter từ Internazionale Holding S.r.l. Sau khi thương vụ hoàn tất, Internazionale Holding S.r.l của nhà Moratti vẫn giữ 29.5% cổ phần tại Inter Milan. Sau thương vụ này, cổ phần của Inter thuộc sở hữu của một chuỗi các công ty cổ phần, đó là International Sports Capital S.p.A. of Italy (với 70% cổ phần), International Sports Capital HK Limited and Asian Sports Ventures HK Limited of Hong Kong. Asian Sports Ventures HK Limited, bản thân nó là một công ty cổ phần trung gian khác, được sở hữu bởi Nusantara Sports Ventures HK Limited (60% cổ phần, một công ty thuộc sở hữu của Thohir), Alke Sports Investment HK Limited (20% stake) và Aksis Sports Capital HK Limited (20 % cổ phần).
Thohir, người đồng sở hữu câu lạc bộ Major League Soccer (MLS) D.C. United và câu lạc bộ Indonesia Super League (ISL) Persib Bandung, đã thông báo vào ngày 2 tháng 12 năm 2013 rằng Inter và D.C. United đã thiết lập đối tác chiến lược. Trong thời kỳ Thohir, câu lạc bộ bắt đầu sửa đổi cơ cấu tài chính của mình từ cơ cấu phụ thuộc vào đầu tư liên tục của chủ sở hữu sang mô hình kinh doanh tự duy trì bền vững mặc dù vậy câu lạc bộ vẫn vi phạm Luật công bằng tài chính của UEFA năm 2015. Câu lạc bộ đã bị phạt và bị cắt giảm đội hình khi tham giự các giải đấu của UEFA. Trong thời gian này, Roberto Mancini trở lại với tư cách là huấn luyện viên câu lạc bộ vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, khi Inter đứng thứ tám trên bảng xếp hạng Serie A. Inter kết thúc mùa giải 2015–16 ở vị trí thứ tư, không thể trở lại Champions League.
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2016, Suning Holdings Group (thông qua công ty con Great Horizon S.á r.l. có trụ sở tại Luxembourg) một công ty thuộc sở hữu của Trương Cận Đông, đồng sáng lập và chủ tịch của Suning Commerce Group, đã mua lại phần lớn cổ phần của Inter từ tập đoàn International Sports Capital S.p.A. của Thohir và từ số cổ phần còn lại của gia đình Moratti trong Internazionale Holding S.r.l. Theo nhiều hồ sơ khác nhau, tổng số tiền đầu tư từ Suning là 270 triệu euro. Thỏa thuận đã được thông qua bởi một cuộc họp đại hội cổ đông bất thường vào ngày 28 tháng 6 năm 2016, từ đó Tập đoàn Suning Holdings đã mua 68,55% cổ phần của câu lạc bộ.
Tuy nhiên, mùa giải đầu tiên của chủ sở hữu mới bắt đầu với thành tích kém cỏi trong các trận giao hữu trước mùa giải. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2016, Inter chia tay huấn luyện viên trưởng Roberto Mancini theo sự đồng thuận của cả hai do có những bất đồng không thể giải quyết liên quan đến hướng đi của câu lạc bộ. Ông được thay thế bởi Frank de Boer người đã bị sa thải vào ngày 1 tháng 11 năm 2016 sau khi dẫn dắt Inter với thành tích thắng 4–hòa 2–thua 5 trong 11 trận Serie A với tư cách là huấn luyện viên trưởng. Người kế nhiệm, Stefano Pioli, đã không cứu được đội bóng khỏi kết quả vòng bảng tệ nhất trong các giải đấu thuộc UEFA trong lịch sử câu lạc bộ. Bất chấp chuỗi 8 trận toàn thắng cuối giải, Pioli và câu lạc bộ đã chia tay nhau trước khi mùa giải kết thúc khi rõ ràng là họ sẽ đứng ngoài top 3 của giải đấu trong mùa giải thứ sáu liên tiếp. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2017, cựu huấn luyện viên của Roma Luciano Spalletti được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Inter, ký hợp đồng hai năm, và 11 tháng sau, Inter đã giành được một suất tham dự vòng bảng UEFA Champions League sau sáu năm không tham dự Champions League nhờ chiến thắng 3–2 trước Lazio trong trận đấu cuối cùng của Serie A 2017–18. Nhờ thành công này, vào tháng 8, câu lạc bộ đã gia hạn hợp đồng với Spalletti đến năm 2021.
Vào ngày 26 tháng 10 năm 2018, Trương Khang Dương được bổ nhiệm làm chủ tịch mới của câu lạc bộ. Vào ngày 25 tháng 1 năm 2019, câu lạc bộ chính thức thông báo rằng LionRock Capital từ Hong Kong đã đạt được thỏa thuận với International Sports Capital HK Limited, để mua 31,05% cổ phần của họ trong Inter và trở thành cổ đông thiểu số mới của câu lạc bộ. Sau mùa giải Serie A 2018–19, dù Inter xếp thứ 4 nhưng Spalletti đã bị sa thải.
Lịch sử gần đây (2019–nay)
Vào tháng 5 năm 2021, công ty đầu tư của Mỹ Oaktree Capital đã cho Inter vay 336 triệu đô la để bù đắp những tổn thất phát sinh trong đại dịch COVID-19.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2019, Inter đã bổ nhiệm cựu huấn luyện viên Juventus và người Ý Antonio Conte làm huấn luyện viên mới của họ, ký hợp đồng ba năm. Vào tháng 9 năm 2019, Trương Khang Dương được bầu vào hội đồng quản trị của Hiệp hội các Câu lạc bộ Châu Âu. Tại Serie A 2019–20, Inter Milan kết thúc với vị trí á quân khi giành chiến thắng 2–0 trước Atalanta trong trận đấu cuối cùng. Họ cũng lọt vào chung kết UEFA Europa League 2020, thua 3–2 trước Sevilla. Sau trận hòa của Atalanta trước Sassuolo vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, Internazionale đã giành Scudetto sau 11 năm, chấm dứt chuỗi 9 chức vô địch liên tiếp của Juventus. Tuy nhiên, mặc dù giành được vinh quang ở Serie A, Conte đã rời câu lạc bộ theo sự đồng thuận của cả hai vào ngày 26 tháng 5 năm 2021. Sự ra đi được cho là do những bất đồng giữa Conte và hội đồng quản trị về việc chuyển nhượng cầu thủ. Tháng 6 năm 2021, Simone Inzaghi được bổ nhiệm làm người thay thế Conte. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2021, Carlo Cottarelli đã ra mắt cổ phần của những người hâm mộ câu lạc bộ Inter Milan với dự án InterSpac. Ngày 8 tháng 8 năm 2021, Romelu Lukaku được bán cho Chelsea F.C. với giá 115 triệu euro, đại diện cho vụ chuyển nhượng bóng đá đắt nhất của một câu lạc bộ bóng đá Ý từ trước đến nay.
Vào ngày 12 tháng 1 năm 2022, Inter vô địch Supercoppa Italiana, đánh bại Juventus 2–1 tại San Siro. Sau khi để đối phương chọc thủng lưới, Inter đã gỡ hòa bằng một quả phạt đền do công của Lautaro Martínez, và trận đấu kết thúc với tỷ số 1–1 trong thời gian quy định. Ở giây cuối cùng của hiệp phụ, Alexis Sánchez đã ghi bàn thắng quyết định sau một sai lầm trong phòng ngự, mang về cho Inter chiếc cúp đầu tiên của mùa giải, cũng là chiếc cúp đầu tiên của Simone Inzaghi trên cương vị huấn luyện viên Inter. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2022, Inter đã giành được Coppa Italia đánh bại Juventus 4–2 tại Sân vận động Olimpico. Sau khi thời gian bình thường kết thúc với tỷ số 2–2, với Nicolò Barella và Hakan Çalhanoğlu ghi bàn cho Inter, cú đúp của Ivan Perišić trong hiệp phụ đã giúp Inter giành chiến thắng và danh hiệu thứ hai trong mùa giải. Chiến dịch Serie A 2021–22 chứng kiến Inter cán đích ở vị trí thứ hai, là đội có hàng công ghi nhiều bàn thắng nhất với 84 bàn thắng. Vào ngày 18 tháng 1 năm 2023, Inter giành Supercoppa Italiana, đánh bại Milan 3−0 tại Sân vận động Quốc tế Nhà vua Fahd, nhờ vào các bàn thăng của Federico Dimarco, Edin Džeko, và Lautaro Martinez.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2023, Inter thắng Milan tại bán kết UEFA Champions League 2022–23 và lọt vào trận chung kết, lần đầu tiên họ lọt vào trận chung kết tại UEFA Champions League kể từ năm 2010. Tuy nhiên, họ đã bị đánh bại tại Sân vận động Olympic Atatürk 1−0 bởi Manchester City sau bàn thắng trong hiệp hai của Rodri.
Màu sắc và huy hiệu
Một trong những người sáng lập Inter, họa sĩ Giorgio Muggiani, chịu trách nhiệm thiết kế logo đầu tiên của Inter vào năm 1908. Thiết kế đầu tiên kết hợp các chữ cái "FCIM" ở trung tâm của một loạt các vòng tròn tạo thành huy hiệu của câu lạc bộ. Các yếu tố cơ bản của thiết kế vẫn không thay đổi ngay cả khi các chi tiết tốt hơn đã được sửa đổi trong nhiều năm. Bắt đầu từ mùa giải 1999–2000, huy hiệu ban đầu của câu lạc bộ đã được giảm kích thước để nhường chỗ cho việc bổ sung tên câu lạc bộ và năm thành lập tương ứng ở phần trên và phần dưới của biểu trưng.
Năm 2007, logo được đưa trở lại thời kỳ trước 1999–2000. Nó có kiểu dáng hiện đại hơn với ngôi sao Scudetto nhỏ hơn và tông màu sáng hơn. Phiên bản này được sử dụng cho đến tháng 7 năm 2014, khi câu lạc bộ quyết định đổi thương hiệu. Sự khác biệt đáng kể nhất giữa logo hiện tại và logo trước đó là việc bỏ ngôi sao khỏi các phương tiện khác ngoại trừ bộ dụng cụ thi đấu.
Kể từ khi được thành lập vào năm 1908, Inter hầu như luôn mặc trang phục sọc đen và xanh lam, khiến họ có biệt danh là Nerazzurri. Theo truyền thống, màu sắc được sử dụng để tượng trưng cho bầu trời về đêm: trên thực tế, câu lạc bộ được thành lập vào đêm ngày 9 tháng 3, lúc 23:30; hơn nữa, màu xanh lam được chọn bởi Giorgio Muggiani vì ông coi nó là màu đối lập với màu đỏ, được mặc bởi các đối thủ của Câu lạc bộ bóng đá và Cricket Milan.
Tuy nhiên, trong mùa giải 1928–29, Inter buộc phải từ bỏ đồng phục màu xanh đen của họ. Năm 1928, tên gọi và triết lý của Inter khiến Đảng Phát xít cầm quyền không yên tâm; kết quả là trong cùng năm đó, câu lạc bộ 20 tuổi được sáp nhập với Unione Sportiva Milanese: câu lạc bộ mới được đặt tên là Società Sportiva Ambrosiana theo tên vị thánh bảo hộ của Milan. Cờ của Milan (chữ thập đỏ trên nền trắng) thay thế màu xanh đen truyền thống. Năm 1929, áo thi đấu màu xanh đen được khôi phục và sau Thế chiến thứ hai, khi phe Phát xít mất quyền lực, câu lạc bộ trở lại tên ban đầu. Năm 2008, Inter kỷ niệm 100 năm thành lập bằng hình chữ thập đỏ trên áo đấu sân khách. Cây thánh giá gợi nhớ đến lá cờ của thành phố của họ và họ tiếp tục sử dụng mẫu này trên bộ quần áo thứ ba của mình. Vào năm 2014, câu lạc bộ đã sử dụng bộ quần áo bóng đá sân nhà chủ yếu là màu đen với các sọc mỏng màu xanh lam trước khi quay trở lại thiết kế truyền thống hơn vào mùa giải tiếp theo.
Động vật thường được sử dụng để đại diện cho các câu lạc bộ bóng đá ở Ý – rắn cỏ, được gọi là Biscione, đại diện cho Inter. Con rắn là một biểu tượng quan trọng của thành phố Milan, thường xuất hiện trong huy hiệu của người Milan với hình dạng một con rắn lục cuộn tròn với một người đàn ông trong hàm của nó. Biểu tượng hiện diện trên quốc huy của Nhà Sforza (cai trị nước Ý từ Milan trong thời kỳ Phục Hưng), thành phố Milan, Công quốc Milano lịch sử (một quốc gia 400 năm của Đế quốc La Mã Thần thánh) và Insubria (khu vực lịch sử nằm trong thành phố Milan). Đối với mùa giải 2010–11, trang phục thi đấu sân khách của Inter có hình con rắn.
Sân vận động
Sân vận động của đội là San Siro có sức chứa 75.923 chỗ ngồi, có tên chính thức là sân vận động Giuseppe Meazza theo tên cựu cầu thủ từng đại diện cho cả Milan và Inter. Tên được sử dụng phổ biến hơn, San Siro, là tên của quận nơi nó tọa lạc. San Siro là sân nhà của Milan kể từ năm 1926, khi nó được xây dựng bởi tư nhân với sự tài trợ của chủ tịch Milan vào thời điểm đó, Piero Pirelli. Việc xây dựng được thực hiện bởi 120 công nhân và mất 13 tháng rưỡi để hoàn thành. Sân vận động thuộc sở hữu của câu lạc bộ cho đến khi nó được bán cho thành phố vào năm 1935, và kể từ năm 1947, nó được chia sẻ với Inter khi họ được chấp nhận là người thuê chung.
Trận đấu đầu tiên diễn ra tại sân vận động là vào ngày 19 tháng 9 năm 1926, khi Inter đánh bại Milan với tỷ số 6–3 trong một trận giao hữu. Milan chơi trận đầu tiên tại San Siro vào ngày 19 tháng 9 năm 1926, thua 1–2 trước Sampierdarenese. Từ sức chứa ban đầu là 35.000 khán giả, sân vận động đã trải qua một số lần cải tạo lớn. Lần cải tạo cuối cùng là vào cuối năm 2021 để tổ chức trận chung kết UEFA Nations League. Nhân tiện, cuộc cải tạo cấu trúc lớn nhất đã được thực hiện cho Chung kết UEFA Champions League 2016. Sân vận động sẽ được tân trang lại kịp thời cho Milano Cortina 2026.
Dựa trên mô hình sân vận động của Anh, San Siro được thiết kế đặc biệt cho các trận đấu bóng đá, trái ngược với nhiều sân vận động đa năng được sử dụng ở Serie A. Do đó, nó nổi tiếng ở Ý vì bầu không khí tuyệt vời trong các trận đấu do khán đài gần với sân cỏ.
Sân vận động Milano mới
Kể từ năm 2012, nhiều đề xuất và dự án khác nhau của Massimo Moratti đã thay đổi liên quan đến khả năng xây dựng một sân vận động mới của Inter. Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2019, Inter và AC Milan đã công bố thỏa thuận xây dựng một sân vận động chung mới ở khu vực San Siro. Vào mùa đông năm 2021, Giuseppe Sala, thị trưởng Milan, đã chính thức cho phép xây dựng sân vận động mới bên cạnh San Siro, sân vận động này sẽ bị phá bỏ một phần và tái hoạt động sau Thế vận hội Olympic 2026. Đầu năm 2022, Inter và AC Milan tiết lộ "kế hoạch B" nhằm di dời việc xây dựng sân vận động Milano mới ở Đại Milano, cách xa khu vực San Siro.
Cổ động viên và kình địch
Inter là một trong những câu lạc bộ được ủng hộ nhiều nhất ở Ý, theo một nghiên cứu vào tháng 8 năm 2007 của tờ báo Ý La Repubblica. Trong những năm đầu (cho đến Thế chiến thứ nhất), người hâm mộ Inter từ thành phố Milan thường là tầng lớp trung lưu, trong khi người hâm mộ Milan thường là tầng lớp lao động. Trong thời gian Massimo Moratti sở hữu, người hâm mộ Inter được nhìn dưới con mắt chính trị cánh tả ôn hòa. Đồng thời trong triều đại của Silvio Berlusconi, cổ động viên AC Milan được nhìn dưới con mắt chính trị ôn hòa/cánh hữu. Ngày nay, những sự phân hóa này đã lỗi thời.
Nhóm ultras truyền thống của Inter là Boys San; họ giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử của những người cực đoan nói chung do họ là một trong những người lâu đời nhất, được thành lập vào năm 1969. Về mặt chính trị, một nhóm (Irriducibili) của Inter Ultras là cánh hữu và nhóm này có lợi. mối quan hệ với những người cực đoan của Lazio. Ngoài nhóm chính (phi chính trị) của Boys San, còn có năm nhóm quan trọng hơn: Viking (phi chính trị), Irriducibili (cánh hữu), Ultras (phi chính trị), Brianza Alcoolica (phi chính trị) và Imbastisci (cánh tả).
Những người hâm mộ có tiếng nói nhất của Inter được biết là tập trung ở Curva Nord, hoặc đường cong phía bắc của San Siro. Truyền thống lâu đời này đã dẫn đến việc Curva Nord đồng nghĩa với những cổ động viên hết mình nhất của câu lạc bộ, những người giương biểu ngữ và vẫy cờ để ủng hộ đội của họ.
Inter có một số kình địch, hai trong số đó rất quan trọng trong bóng đá Ý; thứ nhất, họ tham gia vào trận chiến nội bộ Derby della Madonnina với AC Milan; sự kình địch đã tồn tại kể từ khi Inter tách khỏi Milan vào năm 1908. Tên của trận derby đề cập đến Maria, người có bức tượng trên đỉnh Nhà thờ chính tòa Milano là một trong những điểm thu hút chính của thành phố. The match usually creates a lively atmosphere, with numerous (often humorous or offensive) banners unfolded before the match. Pháo sáng thường hay xuất hiện, nhưng chúng cũng dẫn đến việc hủy bỏ trận tứ kết lượt về Champions League 2004–05 giữa Milan và Inter vào ngày 12 tháng 4 sau khi một cổ động viên Inter ném pháo sáng từ đám đông vào vai thủ môn Dida.
Sự cạnh tranh đáng kể khác là với Juventus; trận đấu giữa hai câu lạc bộ được gọi là trận Derby d'Italia. Cho đến khi xảy ra bê bối bóng đá Ý 2006, khiến Juventus phải xuống hạng, hai đội bóng này là những câu lạc bộ Ý duy nhất chưa bao giờ chơi dưới Serie A. Vào những năm 2000, Inter nảy sinh sự cạnh tranh với Roma, đội đã về nhì trước Inter trong tất cả các trận trừ một trong năm mùa giải giành Scudetto của Inter từ 2005–06 đến 2009–10. Hai bên cũng đã tranh tài trong năm trận chung kết Coppa Italia và bốn trận chung kết Supercoppa Italiana kể từ năm 2006. Các câu lạc bộ khác, như Atalanta và Napoli, cũng được coi là đối thủ của họ. Cổ động viên của họ thường đi với những biệt danh Interisti, hoặc Nerazzurri.
Danh hiệu
Inter đã giành được 34 danh hiệu trong nước, bao gồm 19 lần vô địch Serie A, 8 lần vô địch Coppa Italia và 7 lần vô địch Supercoppa Italiana. Từ năm 2006 đến năm 2010, câu lạc bộ đã giành được năm chức vô địch liên tiếp, cân bằng kỷ lục mọi thời đại trước năm 2017, khi Juventus giành được chức vô địch thứ sáu liên tiếp. Họ đã ba lần vô địch UEFA Champions League: hai lần liên tiếp vào năm 1964 and 1965 và một lần nữa vào năm 2010; trận cuối cùng đã hoàn thành cú ăn ba chưa từng có của Ý với Coppa Italia và Scudetto. Câu lạc bộ cũng đã giành được ba UEFA Europa League, hai Intercontinental Cup và một FIFA Club World Cup.
Inter chưa bao giờ bị xuống hạng khỏi giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý trong suốt sự tồn tại của nó. Đây là câu lạc bộ duy nhất đã thi đấu ở Serie A và các giải đấu tiền nhiệm của nó trong mọi mùa giải kể từ khi ra mắt vào năm 1909.
Thống kê và kỷ lục của câu lạc bộ
Javier Zanetti giữ kỷ lục về cả số lần ra sân và số lần ra sân ở Serie A cho Inter, với tổng cộng 858 trận chính thức đã chơi và 618 trận ở Serie A.
Giuseppe Meazza là cây săn bàn hàng đầu mọi thời đại của Inter, với 284 bàn sau 408 trận. Xếp sau anh, ở vị trí thứ hai, là Alessandro Altobelli với 209 bàn sau 466 trận, và Roberto Boninsegna ở vị trí thứ ba, với 171 bàn sau 281 trận.
Helenio Herrera có thời gian cầm quân lâu nhất trên cương vị huấn luyện viên của Inter, với 9 năm (tám liên tiếp) cầm quân, và là huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử Inter với ba Scudetti, hai Cúp C1 châu Âu và hai Cúp liên lục địa. José Mourinho, người được bổ nhiệm vào ngày 2 tháng 6 năm 2008, đã hoàn thành mùa giải đầu tiên ở Ý bằng danh hiệu Serie A và Supercoppa Italiana; trong mùa giải thứ hai của ông, ông đã giành "cú ăn ba" đầu tiên trong lịch sử bóng đá Ý: Serie A, Coppa Italia và UEFA Champions League.
Danh sách cầu thủ
Đội hình chính
Các cầu thủ khác theo hợp đồng
Cho mượn
Đội trẻ
Số áo được treo
3 – Giacinto Facchetti, hậu vệ trái, chơi cho Inter 1960–1978 (di cảo). Số áo này được treo vào ngày 8 tháng 9 năm 2006, bốn ngày sau khi Facchetti qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 64. Cầu thủ cuối cùng mặc áo số 3 là trung vệ người Argentina Nicolás Burdisso, người đã khoác áo số 16 trong phần còn lại của mùa giải.
4 – Javier Zanetti, tiền vệ phòng ngự, đã chơi 858 trận cho Inter từ năm 1995 đến khi giải nghệ vào mùa hè năm 2014. Vào tháng 6 năm 2014, chủ tịch câu lạc bộ Erick Thohir xác nhận rằng số 4 của Zanetti sẽ được treo vì sự tôn trọng.
Đội ngũ kỹ thuật
Chủ tịch và huấn luyện viên
Lịch sử chủ tịch
Dưới đây là danh sách các chủ tịch của Inter từ 1908 đến nay.
Lịch sử huấn luyện viên
Dưới đây là danh sách các huấn luyện viên của Inter từ năm 1909 cho đến ngày nay.
Công ty
FC Internazionale Milano S.p.A. được mô tả là một trong những "hố đen" tài chính trong số các câu lạc bộ Ý, vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự đóng góp tài chính từ chủ sở hữu Massimo Moratti. Vào tháng 6 năm 2006, nhà tài trợ áo đấu và cổ đông thiểu số của câu lạc bộ, Pirelli, đã bán 15,26% cổ phần của câu lạc bộ cho gia đình Moratti, với giá 13,5 triệu euro. Nhà sản xuất lốp xe giữ lại 4,2%. Tuy nhiên, do một số lần tăng vốn của Inter, chẳng hạn như sáp nhập đảo ngược với một công ty mẹ trung gian, Inter Capital S.r.l. năm 2006, nắm giữ 89% cổ phần của Inter và số vốn 70 triệu euro vào thời điểm đó hoặc phát hành cổ phiếu mới với giá 70,8 triệu euro vào tháng 6 năm 2007, 99,9 triệu euro vào tháng 12 năm 2007, €86,6 triệu euro năm 2008, 70 triệu euro vào năm 2009, 40 triệu euro vào năm 2010 và 2011, 35 triệu euro vào năm 2012 hoặc cho phép Thoir đăng ký 75 triệu euro cổ phiếu mới của Inter vào năm 2013, Pirelli trở thành cổ đông lớn thứ ba với chỉ 0,5%, . Inter đã có một đợt tái cấp vốn khác được dành cho Suning Holdings Group vào năm 2016. Trong bản cáo bạch về đợt IPO thứ hai của Pirelli vào năm 2017, công ty cũng tiết lộ rằng giá trị của số cổ phần còn lại của Inter thuộc sở hữu của Pirelli, đã xóa sổ về không vào năm tài chính 2016. Inter cũng nhận góp vốn trực tiếp từ các cổ đông để bù đắp khoản lỗ đã bị loại trừ khi phát hành cổ phiếu trước đây. ()
Ngay trước khi Thohir tiếp quản, bảng cân đối kế toán hợp nhất của "Internazionale Holding S.r.l." cho thấy toàn bộ nhóm công ty có khoản nợ ngân hàng trị giá 157 triệu euro, bao gồm khoản nợ ngân hàng của công ty con "Inter Brand Srl", cũng như của chính câu lạc bộ, đối với Istituto per il Credito Sportivo (ICS), cho €15,674 triệu trên bảng cân đối kế toán vào cuối năm tài chính 2012–13. Năm 2006, Inter bán thương hiệu của mình cho công ty con mới, "Inter Brand S.r.l.", một thực thể mục đích đặc biệt với vốn cổ phần là 40 triệu euro, với giá 158 triệu euro (thỏa thuận này khiến Internazionale lỗ ròng chỉ 31 triệu euro trong báo cáo tài chính riêng). Đồng thời, công ty con đã đảm bảo khoản vay 120 triệu euro từ Banca Antonveneta, sẽ được trả dần cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2016; La Repubblica mô tả thương vụ này như "doping". Vào tháng 9 năm 2011, Inter đã đảm bảo khoản vay từ ICS bằng cách bao thanh toán tài trợ cho Pirelli của mùa giải 2012–13 và 2013–14, với giá 24,8 triệu euro, với lãi suất 3 tháng Euribor + chênh lệch 1.95%. Vào tháng 6 năm 2014, Inter Group mới được đảm bảo khoản vay 230 triệu euro từ Goldman Sachs và UniCredit với mức lãi suất mới là 3 tháng Euribor + chênh lệch 5,5%, cũng như thành lập một công ty con mới làm công ty mang nợ: "Inter Media and Communication Srl". 200 triệu euro trong số đó sẽ được sử dụng để tái cấp vốn nợ của tập đoàn. Khoản vay trị giá 230 triệu euro, 1 triệu euro (cộng lãi) sẽ đáo hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2015, 45 triệu euro (cộng lãi) sẽ được hoàn trả thành 15 đợt từ ngày 30 tháng 9 năm 2015 đến ngày 31 tháng 3 năm 2019, cũng như 184 triệu euro (cộng tiền lãi) sẽ đến hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Về phía sở hữu, International Sports Capital HK Limited có trụ sở tại Hồng Kông, đã thế chấp cổ phần của International Sports Capital S.p.A. có trụ sở tại Ý (công ty cổ phần trực tiếp của Inter) cho CPPIB Đầu tư tín dụng trị giá 170 triệu euro vào năm 2015, với lãi suất từ 8% / năm (đến hạn vào tháng 3 năm 2018) đến 15% / năm (đến hạn vào tháng 3 năm 2020). ISC đã hoàn trả các ghi chú vào ngày 1 tháng 7 năm 2016 sau khi họ bán một phần cổ phần của Inter cho Suning Holdings Group. Tuy nhiên, vào cuối năm 2016, cổ phần của ISC SpA lại được ISC HK cầm cố cho các quỹ đầu tư tư nhân của OCP Châu Á với giá 80 triệu đô la Mỹ. Vào tháng 12 năm 2017, câu lạc bộ cũng đã tái cấp vốn cho khoản nợ 300 triệu euro bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường, thông qua Goldman Sachs với tư cách là người ghi sổ, với lãi suất 4,875%/năm.
Chỉ tính riêng doanh thu, Inter đã vượt qua đối thủ cùng thành phố ở Deloitte Football Money League lần đầu tiên, vào mùa giải 2008–2009, đứng ở vị trí thứ chín, kém một bậc so với Juventus ở vị trí thứ tám, với Milan ở vị trí thứ mười. Trong mùa giải 2009–10, Inter vẫn ở vị trí thứ 9, vượt qua Juventus (thứ 10) nhưng Milan lại chiếm vị trí dẫn đầu với vị trí thứ 7. Inter trở thành thứ tám trong mùa giải 2010–11, nhưng vẫn kém Milan một bậc. Kể từ năm 2011, Inter tụt xuống hạng 11 mùa 2011–12, hạng 15 mùa 2012–13, hạng 17 mùa 2013–14, hạng 19 mùa 2014–15 và 2015–16. Mùa giải 2016–17, Inter xếp thứ 15 trên bảng xếp hạng Money League.
Trong Football Money League 2010 (mùa giải 2008–09), doanh thu bình thường hóa là 196,5 triệu euro được chia cho ngày thi đấu (14%, 28,2 triệu euro), phát sóng (59%, 115,7 triệu euro, +7%, +8 triệu euro) ) và thương mại (27%, €52,6 triệu, +43%). Các nhà tài trợ trang phục thi đấu là Nike và Pirelli đã đóng góp lần lượt 18,1 triệu euro và 9,3 triệu euro vào doanh thu thương mại, trong khi doanh thu phát sóng được tăng 1,6 triệu euro (6%) nhờ phân phối Champions League. Deloitte bày tỏ ý kiến rằng các vấn đề trong bóng đá Ý, đặc biệt là vấn đề doanh thu trong ngày thi đấu đang kìm hãm Inter so với những gã khổng lồ châu Âu khác và việc phát triển sân vận động của riêng họ sẽ giúp các câu lạc bộ Serie A cạnh tranh hơn trên đấu trường thế giới.
Trong mùa giải 2009–10, doanh thu của Inter được đẩy mạnh nhờ việc bán Ibrahimović, cú ăn ba và điều khoản giải phóng của huấn luyện viên José Mourinho. Theo số liệu chuẩn hóa của Deloitte trong Football Money League 2011 của họ, trong mùa giải 2009–10, doanh thu đã tăng 28,3 triệu euro (14%) lên 224,8 triệu euro. Tỷ lệ ngày thi đấu, phát sóng và thương mại trong các số liệu đã điều chỉnh là 17%:62%:21%.
Đối với mùa giải 2010–11, các câu lạc bộ Serie A bắt đầu đàm phán chung về bản quyền truyền hình của câu lạc bộ thay vì riêng lẻ. Điều này được dự đoán sẽ dẫn đến doanh thu phát sóng thấp hơn cho các câu lạc bộ lớn như Juventus và Inter, với các câu lạc bộ nhỏ hơn kiếm được từ trận thua. Cuối cùng, kết quả bao gồm khoản thu nhập bất thường trị giá 13 triệu euro từ RAI. Tại Football Money League 2012 (mùa giải 2010–11), doanh thu bình thường hóa là 211,4 triệu euro. Tỷ lệ ngày thi đấu, phát sóng và thương mại trong các số liệu điều chỉnh là 16%:58%:26%.
Tuy nhiên, kết hợp doanh thu và chi phí, trong mùa giải 2006–07, họ đã lỗ ròng 206 triệu euro (€112 triệu cơ sở bất thường, do việc bãi bỏ thông lệ kế toán phi tiêu chuẩn của quỹ khấu hao đặc biệt), tiếp theo là khoản lỗ ròng 148 triệu euro trong mùa giải 2007–08, khoản lỗ ròng 154 triệu euro trong mùa giải 2008–09, khoản lỗ ròng 69 triệu euro trong mùa giải 2009–10, lỗ ròng 87 triệu euro trong mùa giải 2010–11, lỗ ròng 77 triệu € trong mùa giải 2011–12, lỗ ròng 80 triệu euro trong mùa giải 2012–13 và lợi nhuận ròng 33 triệu euro trong mùa giải 2013–14, do thu nhập đặc biệt từ việc thành lập công ty con Inter Media and Communication. Tất cả các số liệu nói trên đều nằm trong báo cáo tài chính riêng. Số liệu từ báo cáo tài chính hợp nhất đã được công bố kể từ mùa giải 2014–15, đó là khoản lỗ ròng €140,4 triệu (2014–15), 59,6 triệu euro (mùa giải 2015–16, trước năm 2017 trình bày lại) và 24,6 triệu euro (2016–17).
Vào năm 2015, Inter và Roma là hai câu lạc bộ Ý duy nhất bị UEFA xử phạt do vi phạm Luật Công bằng tài chính của UEFA, theo sau là AC Milan đã từng bị cấm trở lại thi đấu châu Âu vào năm 2018. Như một sự thử thách để tránh bị trừng phạt thêm, Inter đã đồng ý có tổng thời gian hòa vốn trong ba năm từ 2015 đến 2018, với mùa giải 2015–16 là được phép lỗ ròng tối đa 30 triệu euro, sau đó là hòa vốn trong mùa giải 2016–17 trở đi. Inter cũng bị phạt 6 triệu euro cộng thêm 14 triệu euro trong thời gian quản chế.
Inter cũng thực hiện một cú lừa tài chính trên thị trường chuyển nhượng vào giữa năm 2015, trong đó Stevan Jovetić và Miranda đã được Inter ký hợp đồng tạm thời cộng với nghĩa vụ ký hoàn toàn vào năm 2017, làm cho chi phí của họ ít hơn trong thời gian mượn. Hơn nữa, mặc dù đầu tư rất nhiều vào các bản hợp đồng mới, cụ thể là Geoffrey Kondogbia và Ivan Perišić có khả năng làm tăng chi phí khấu hao, Inter cũng đã bán Mateo Kovačić với giá 29 triệu euro, kiếm được lợi nhuận trời cho. Vào tháng 11 năm 2018, các tài liệu từ Football Leaks tiết lộ thêm rằng các bản hợp đồng cho mượn như Xherdan Shaqiri vào tháng 1 năm 2015, trên thực tế có những điều kiện không thể tránh khỏi để kích hoạt việc mua đứt.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2017, Inter thông báo rằng khoản lỗ ròng của họ (đã điều chỉnh theo FFP) của mùa giải 2015–16 nằm trong giới hạn cho phép là 30 triệu euro. Tuy nhiên, cùng ngày UEFA cũng thông báo rằng việc cắt giảm quy mô đội hình của Inter tại các giải đấu châu Âu sẽ vẫn chưa được dỡ bỏ do việc hoàn thành một phần các mục tiêu trong thỏa thuận dàn xếp. Thông báo tương tự đã được UEFA đưa ra vào tháng 6 năm 2018, dựa trên kết quả tài chính mùa giải 2016–17 của Inter.
Vào tháng 2 năm 2020, Inter Milan đã kiện Major League Soccer (MLS) vì vi phạm nhãn hiệu, tuyên bố rằng thuật ngữ "Inter" đồng nghĩa với câu lạc bộ của họ chứ không phải ai khác.
Nhà tài trợ
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang chủ (tiếng Ý, Anh, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Nhật và Bahasa Indonesia)
Trang web của fan Inter tại Việt Nam
Inter Milan
Câu lạc bộ bóng đá Ý
Milano
Khởi đầu năm 1908 ở Ý
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1908
|
25044
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thioether
|
Thioether
|
Thioether (còn gọi là thioete) là một nhóm chức trong hóa hữu cơ có cấu trúc R-S-R1, trong đó R, R1 là bất kỳ nhóm hữu cơ nào. Thioether là tương tự như ether ngoại trừ việc nó chứa nguyên tử lưu huỳnh thay vì chứa nguyên tử oxy. Do các thuộc tính hóa học của oxy và lưu huỳnh là tương tự nhau, vì chúng năm cùng một nhóm (nhóm VI) trong bảng tuần hoàn các nguyên tố (hay quen gọi là bảng tuần hoàn Mendeleev), nên các thuộc tính hóa học của cả hai nhóm chức này là tương tự nhau.
Nhóm chức này có tầm quan trọng nhỏ trong sinh học, nổi tiếng nhất là trong amino acid methionin.
Một đặc điểm đặc trưng của các thioether, tương tự như các hợp chất chứa lưu huỳnh khác, là các thioether đơn giản dễ bay hơi đều có mùi hôi khó ngửi.
Một khác biệt với các ether là các ether (R-O-R1) chỉ có thể bị oxy hóa thành các peroxide (R-O-O-R1), trong khi các thioether (R-S-R1) có thể bị oxy hóa tiếp thành các disulfide (R-S-S-R1) hay thành sulfoxide (R-S(=O)-R1), mà chúng lại có thể bị oxy hóa tiếp thành các sulfon (R-S(=O)2-R1).
Về mặt hóa sinh học, liên kết thioether được tạo ra khi nhóm vinyl phản ứng với nhóm sulfurhydryl, chia cắt liên kết đôi và liên kết nguyên tử lưu huỳnh với nguyên tử carbon (không liên kết trước đó với phân tử gốc), như trong phản ứng sau:
R-CH=CH2 + HS-R1 -> R-CH2-CH2-S-R1
Tham khảo
Nhóm chức
|
25047
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20Ng%E1%BB%B1a
|
Họ Ngựa
|
Họ Ngựa (Equidae) là một họ động vật có vú bao gồm ngựa, lừa, ngựa vằn, và nhiều loài khác chỉ được biết đến từ hóa thạch. Tất cả các loài còn sinh tồn nằm trong chi Equus. Họ này thuộc Bộ Guốc lẻ (Perissodactyla), gồm lợn vòi, tê giác, và một vài họ khác đã bị tuyệt chủng.
Đặc trưng
Động vật họ Ngựa là các loài thú kích thước từ trung bình tới lớn, với đầu dài và cổ có bờm. Các chân mảnh dẻ, chỉ có một móng guốc, được bảo vệ bởi một guốc bằng chất sừng. Chúng có đuôi dài và mảnh dẻ, hoặc là kết thúc bằng một chùm lông hoặc là hoàn toàn được che phủ trong chùm lông rủ xuống. Chúng nói chung đã thích nghi với địa hình thoáng đãng, từ các bình nguyên tới các xavan hay các sa mạc hoặc vùng núi.
Loa tai ("tai") của động vật họ Ngựa rất linh động, cho phép chúng dễ dàng định vị nguồn phát ra âm thanh. Chúng có thị giác hai màu. Các mắt của chúng nằm xa về phía sau của đầu, cho phép chúng có góc nhìn lớn, mà không đánh mất hoàn toàn tầm nhìn hai mắt. Động vật họ Ngựa cũng có cơ quan Jacobson, cho phép các con đực có thể sử dụng phản ứng 'uốn môi trên' để đánh giá tình trạng kích dục của các bạn tình tiềm năng.
Động vật họ Ngựa là động vật ăn cỏ, chủ yếu ăn các loại thức ăn thô dạng sợi như cỏ. Khi cần thiết chúng cũng ăn cả các loại thức ăn nguồn gốc thực vật khác, như lá, quả, vỏ cây, nhưng thông thường là động vật gặm cỏ chứ không phải là động vật bứt cành hay lá. Không giống như động vật nhai lại, với hệ thống các dạ dày phức tạp của chúng, động vật họ Ngựa phân rã xenluloza trong "ruột tịt" (cecum), một phần của ruột kết. Công thức bộ răng của chúng gần như hoàn hảo, với các răng cửa có tính năng cắt để gặm thức ăn, và các răng hàm để nghiền thức ăn mọc ở phía sau các khe răng.
Động vật họ Ngựa là các động vật sống thành bầy. Ngựa cùng với ngựa vằn đồng bằng và ngựa vằn núi nói chung có bầy mang tính chất lâu bền gồm một con đực và một đàn cái, với các con đực còn lại tạo thành các bầy "độc thân" nhỏ. Các loài khác tạo thành bầy có tính chất tạm bợ, kéo dài chỉ vài tháng, trong đó hoặc là hỗn tạp hoặc là một giới. Trong cả hai trường hợp, tôn ti trật tự rõ ràng được thiết lập giữa các cá thể, thường là con cái thống lĩnh sẽ kiểm soát sự tiếp cận các nguồn thức ăn và nước uống còn con đực đầu đàn sẽ kiểm soát các cơ hội giao phối.
Sự rụng trứng ở các con cái nói chung là một trứng, tuy rằng khoảng 24-26% là nhiều trứng (trong đó 99% là hai trứng). Nói chung, khoảng thời gian giữa các lần rụng trứng là 1 ngày. Nồng độ của progesteron (hoóc môn giới tính duy trì thai) sẽ tăng lên sau lần rụng trứng thứ hai. Sau khi giao phối và mang thai trong khoảng 11 tháng thì các con cái sẽ đẻ, thường là chỉ một con non. Các con non có khả năng đi lại chỉ khoảng 1 giờ sau khi sinh ra và chúng được mẹ cho bú trong khoảng 4 tới 13 tháng (động vật họ Ngựa được thuần hóa nói chung cho con bú ít hơn về mặt thời gian). Phụ thuộc vào loài, điều kiện sống và các yếu tố khác, con cái trong hoang dã sẽ sinh đẻ sau mỗi 1 hay 2 năm.
Tại vùng ôn đới, các con cái của động vật họ Ngựa khi không mang thai nói chung có chu kỳ động dục theo mùa, từ đầu mùa xuân tới mùa thu. Phần lớn các con cái sẽ tiến tới trạng thái ngừng động dục trong mùa đông và vì thế không có khả năng thụ thai/đẻ trong thời kỳ này. Chu kỳ sinh sản được kiểm soát bằng chu kỳ chiếu sáng (độ dài thời gian ban ngày), với sự động dục được kích thích khi độ dài thời gian ban ngày dài ra. Ngừng động dục ngăn cản con cái thụ thai trong các tháng mùa đông, do điều đó làm cho khả năng sống sót của con non là rất thấp trong thời gian khắc nghiệt nhất của năm. Tuy nhiên, khi chúng sống gần xích đạo, sự thay đổi về độ dài thời gian ban ngày là không đáng kể thì các con cái không có khoảng thời gian ngừng động dục, ít nhất là về mặt lý thuyết. Ngoài ra, vì các lý do chưa rõ, khoảng 20% ngựa cái đã thuần hóa tại Bắc bán cầu cũng động dục quanh năm, có lẽ là do mất cảm giác đối với melatonin.
Phân loại
Bộ Guốc lẻ Perissodactyla
Phân bộ Hippomorpha
Liên họ Equoidea
Họ Ngựa Equidae
Chi †Haringtonhippus
Chi †Epihippus
Chi †Haplohippus
Chi †Heptaconodon
Chi †Eohippus
Chi †Minippus
Chi †Orohippus
Chi †Pliolophus
Chi †Protorohippus
Chi †Sifrhippus
Chi †Xenicohippus
Chi †Eurohippus
Chi †Propalaeotherium
Phân họ †Anchitheriinae
Chi †Anchitherium
Chi †Archaeohippus
Chi †Desmatippus
Chi †Hypohippus
Chi †Kalobatippus
Chi †Megahippus
Chi †Mesohippus
Chi †Miohippus
Chi †Parahippus
Chi †Sinohippus
Phân họ Equinae
Tông Equini
Chi †Astrohippus
Chi †Calippus
Chi †Dinohippus
Chi Equus: Chi Ngựa
Phân chi Equus
Ngựa nhà, Equus caballus
Ngựa hoang, Equus ferus
†Ngựa Tarpan, Equus ferus ferus
Ngựa Przewalski hay ngựa hoang Mông Cổ, Equus ferus przewalskii
†Ngựa Yukon, Equus lambei
Phân chi Asinus: Lừa
Lừa hoang châu Phi, Equus africanus
Lừa hoang Nubia, Equus africanus africanus
†Lừa hoang Atlas, Equus africanus atlanticus
Lừa hoang Somali, Equus africanus somalicus
Lừa, Equus africanus asinus
†Lừa hoang châu Âu, Equus hydruntinus
Lừa rừng Trung Á hay lừa rừng, Equus hemionus, Equus hemionus onager
Lừa hoang Mông Cổ, Equus hemionus hemionus
†Lừa hoang Syria, Equus hemionus hemippus
Khulan Gobi hay Dziggetai, Equus hemionus luteus
Khulan Turkmenia, Equus hemionus kulan
Lừa hoang Ấn Độ hay Khur, Equus hemionus khur
Lừa hoang Tây Tạng hay Kiang, Equus kiang
Lừa hoang Tây Tây Tạng, Equus kiang kiang
Lừa hoang Đông Tây Tạng, Equus kiang holdereri
Lừa hoang Nam Tây Tạng, Equus kiang polyodon
Lừa hoang Bắc Tây Tạng, Equus kiang chu
†Lừa Cummin, Equus cumminsii
†Lừa rừng chân cà kheo, Equus calobatus
†Lừa rừng lùn, Equus tau
Phân chi Dolichohippus: Ngựa vằn
Ngựa vằn Grevy, Equus grevyi
Phân chi Hippotigris
Ngựa vằn đồng bằng, Equus quagga
†Ngựa vằn Quagga, Equus quagga quagga
Ngựa vằn Burchell, Equus quagga burchellii
Ngựa vằn Grant, Equus quagga boehmi
Ngựa vằn Selous, Equus quagga borensis
Ngựa vằn Chapman, Equus quagga chapmani
Ngựa vằn Crawshay, Equus quagga crawshayi
Ngựa vằn núi, Equus zebra
Ngựa vằn núi Cape, Equus zebra zebra
Ngựa vằn Hartmann, Equus zebra hartmannae
†Phân chi Amerhippus
†Ngựa Scott, Equus scotti
†Ngựa Niobrara, Equus niobrarensis
†Ngựa Mexico, Equus conversidens
†Phân chi Parastylidequus
†Ngựa Mooser, Equus parastylidens
Phân chi incertae sedis
†Ngựa Hagerman hay ngựa vằn Hagerman, Equus simplicidens - có lẽ gần với phân chi Dolichohippus
†Ngựa phương Tây, Equus occidentalis
†Ngựa chân phức tạp, Equus complicatus
†Ngựa Brother, Equus fraternus
†Ngựa Noble, Equus excelsus - phân chi Equus?
†Ngựa 'lớn', nhóm Equus giganteus
† Equus giganteus
† Equus pacificus
† Equus pectinatus
† Equus crinidens
Chi †Heteropliohippus
Chi †Hippidion (gồm cả Parahipparion)
Chi †Onohippidium
Chi †Parapliohippus
Chi †Pliohippus
Chi †Protohippus
Tông †Hipparionini
Chi †Cormohipparion
Chi †Eurygnathohippus (gồm cả Stylohipparion)
Chi †Hipparion
Chi †Hippotherium
Chi †Nannippus
Chi †Neohipparion
Chi †Proboscidipparion
Chi †Pseudhipparion
Tông incertae sedis
Chi †Merychippus
Chi †Scaphohippus
Chi †Acritohippus
Tiến hóa
Các hóa thạch cổ nhất đã biết của động vật dạng ngựa có niên đại từ Tiền Eocen, khoảng 54 triệu năm trước. Loài này, trong chi Hyracotherium (trước đây gọi là Eohippus), là động vật kích thước cỡ con cáo với 3 ngón tại các chân sau và 4 ngón tại các chân trước. Nó là động vật gặm cỏ trên các loại thực vật tương đối mềm và đã thích nghi với việc chạy. Sự phức tạp trong bộ não của nó gợi ý rằng nó là động vật thông minh và luôn cảnh giác. Các loài sau này đã suy giảm số lượng ngón chân và phát triển bộ răng thích hợp hơn với việc nghiền nhỏ cỏ và các thức ăn từ thực vật cứng hơn.
Nhóm này trở nên tương đối to lớn hơn trong thế Miocen, với nhiều loài mới đã xuất hiện. Vào thời gian này, động vật dạng ngựa đã trở thành giống như ngựa thật sự hơn với sự phát triển hình dáng cơ thể điển hình của ngựa hiện đại. Nhiều loài trong số này phân bố trọng lượng chủ yếu của cơ thể chúng trên ngón trung tâm (ngón thứ ba), với những ngón khác đã suy giảm và tiếp xúc xuống mặt đất một cách rõ ràng. Chi sống sót hiện nay, Equus, đã tiến hóa vào đầu thế Pleistocen và phổ biến nhanh chóng trên toàn thế giới.
Giao phối chéo
Các loài khác nhau của họ Equidae có thể tạp giao, mặc dù con non sinh ra nói chung là vô sinh.
Một số con lai trong họ Equidae là:
La, con lai giữa lừa đực và ngựa cái. La là dạng con lai phổ biến nhất trong họ Ngựa và nổi tiếng vì khả năng dẻo dai, chắc chắn, chịu đựng khó khăn tốt của chúng.
Hinny, con lai giữa lừa cái và ngựa đực. Hiếm nhưng ít giá trị hơn la, nói chung nhỏ hơn về kích thước và không chịu đựng được khó khăn như la.
Zeedonk hay Zonkey, con lai giữa lừa và ngựa vằn.
Zony, con lai giữa ngựa vằn/ngựa pony.
Zorse hay zebrula, con lai giữa ngựa vằn đực và ngựa cái; con lai hiếm hơn của cặp ngươc lại đôi khi gọi là hebra.
Bất kỳ con lai nào trong họ ngựa với một phần tổ tiên là ngựa vằn được gọi là zebroid.
Xem thêm
Sự tiến hóa của ngựa
Lịch sử thuần hóa ngựa
Ghi chú
Ngựa, họ
Họ động vật có vú
|
25049
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%B1a%20v%E1%BA%B1n%20n%C3%BAi
|
Ngựa vằn núi
|
Ngựa vằn núi (Equus zebra) là một trong ba loài ngựa vằn.
Phân loài
Chúng được chia thành hai phân loài:
Ngựa vằn Nam Phi, Equus zebra zebra
Ngựa vằn hoang Hartmann, Equus zebra hartmanni (Matschie, 1898)
Ngựa vằn núi Hartmann có nguồn gốc ở vùng Namibia và người ta tìm thấy chúng trong các khu vực miền núi hay đồi có khí hậu khô cằn và nhiều đá. Thức ăn của chúng là cỏ, vỏ, rễ và lá cây, quả. Ngựa vằn núi Hartmann thích sống thành từng nhóm nhỏ khoảng 7-12 con. Chúng là những động vật leo trèo nhanh nhẹn, có khả năng sống trong các điều kiện khô cằn tại những vùng núi có độ dốc cao. Các vằn sáng màu của chúng có thể là hệ thống tín hiệu cho bầy đàn và cũng có thể có ích trong việc làm các kẻ thù của chúng bị nhầm lẫn.
Một số quần thể được bảo vệ trong các công viên quốc gia. Có một chương trình cho các loài đang nguy cấp của vườn thú châu Âu cho loài ngựa vằn này cũng như là sự phối hợp trong quản lý các quần thể trong các vườn thú trên toàn thế giới.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Z
Động vật hoang dã châu Phi
Loài EDGE
Động vật có vú Angola
Động vật có vú Nam Phi
Động vật có vú Namibia
Ngựa vằn
Động vật được mô tả năm 1758
Động vật có vú châu Phi
|
25052
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%ABa%20hoang%20Trung%20%C3%81
|
Lừa hoang Trung Á
|
Lừa hoang Trung Á (Equus hemionus) là một loài lừa lớn thuộc Họ Ngựa, Bộ Guốc lẻ, đặc hữu ở châu Á. Loài này được Pallas mô tả năm 1775. Chúng sinh sống ở các vùng sa mạc của Syria, Iran, Ấn Độ và Tây Tạng.
Giống như nhiều loài động vật ăn cỏ lớn khác, phạm vi phân bố của chúng bị thu hẹp chủ yếu là việc săn bắn và mất môi trường sống. Trong số 6 phân loài thì một đã bị tuyệt chủng và hai loài đang nguy cấp. Lừa hoang Tây Tạng (Equus kiang), một họ hàng gần ở Tây Tạng, nói chung được coi là loài riêng, mặc dù một số học giả vẫn phân loại chúng như là một phân loài của lừa hoang Trung Á (E. hemionus kiang).
Lừa hoang Trung Á lớn hơn so với lừa hoang châu Phi. Chúng nặng khoảng 290 kg và dài khoảng 2,1 mét (độ dài bao gồm đầu và thân). So với ngựa thì chân của chúng ngắn hơn và màu lông của chúng dao động phụ thuộc theo mùa. Nói chung, lông của chúng có màu nâu ánh đỏ trong mùa hè, trở thành nâu ánh vàng trong các tháng mùa đông. Chúng có sọc màu đen có viền màu trắng mở rộng xuống phía dưới của đoạn giữa lưng.
Lừa hoang Trung Á đã được người Sumer cổ đại sử dụng để kéo xe kể từ khoảng năm 2600 TCN.
Phân loài
Lừa hoang Mông Cổ (Equus hemionus hemionus). Tình trạng: Có thể bị đe dọa.
Lừa hoang Ấn Độ hay Khur (Equus hemionus khur). Tình trạng: Nguy cấp.
Lừa hoang Gobi (Equus hemionus luteus). Tình trạng: Có thể bị đe dọa.
Lừa hoang Turkmenia (Equus hemionus kulan). Tình trạng: Cực kỳ nguy cấp.
Lừa hoang Ba Tư (Equus hemionus onager). Tình trạng: Cực kỳ nguy cấp.
Lừa hoang Syria (Equus hemionus hemippus). Tình trạng: Tuyệt chủng từ năm 1927.
Xem thêm
La peau de chagrin
Tham khảo
Liên kết ngoài
Onager (Asiatic wild ass) - Ảnh chụp từ khu bảo tồn động vật hoang dã Hai-Bar, Israel.
H
Loài EDGE
Động vật Iran
Động vật Kazakhstan
Động vật có vú Ấn Độ
Động vật có vú Pakistan
Động vật được mô tả năm 1775
Động vật có vú châu Á
Lừa
Động vật Trung Á
Động vật Nam Á
Động vật Turkmenistan
Động vật Tây Á
Động vật ăn cỏ
Động vật có vú Trung Quốc
Động vật có vú Mông Cổ
Loài nguy cấp
|
25065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20Nam
|
An Nam
|
An Nam (Chữ Nho: 安南) là một quốc danh Việt Nam cũ, thông dụng trong giai đoạn 679 - 1945.
Lịch sử
Theo cổ sử, địa danh An Nam xuất hiện năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi Giao Châu tổng quản phủ (từ 622) thành An Nam đô hộ phủ (安南都護府). Về mặt pháp lý, địa danh này tương ứng các cơ quan An Bắc (nay thuộc Bắc Bộ CHND Trung Hoa), An Đông (nay thuộc bán đảo Cao Ly), An Tây (nay thuộc Tây Bộ CHND Trung Hoa).
Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, An Nam là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình Việt Nam với triều đình Trung Hoa, trong khi người Cao Ly, Nhật Bản và muộn hơn là người Âu châu thường gọi Giao Chỉ. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người Việt Nam thường xưng An Nam quốc (安南國) hoặc Nam quốc khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình Trung Hoa chấp thuận danh xưng An Nam quốc nhưng vẫn gọi phiếm Nam bang hoặc Giao Chỉ quốc, từ triều Mạc vì viện cớ Mạc Thái Tổ tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống An Nam đô thống sứ ti (安南都統使司).
Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn Đại Việt làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế Nguyễn Thánh Tổ mới ban đạo dụ nhất quán gọi Đại Nam quốc, tuy nhiên danh xưng An Nam vẫn không dứt.
Bắc thuộc
Thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt Việt Nam (tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay) là An Nam đô hộ phủ (679-757 và 766-866). Thời kỳ 757-766, Việt Nam mang tên Trấn Nam đô hộ phủ. Năm 866, thăng An Nam đô hộ làm Tĩnh Hải quân tiết độ.
Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu An Nam quốc vương (kể từ năm 1164).
Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Chẳng hạn, Cao Hùng Trưng (đời nhà Minh) đã viết cuốn An Nam chí (nguyên) về đất nước Đại Việt.
Ngay cuốn sách in đầu tiên của một người Việt lưu vong ở Trung Hoa bằng chữ Hán năm 1335 cũng có nhan đề là An Nam chí lược (安南志略), do Lê Tắc (黎崱) viết.
Từ đó xuất hiện các cách gọi "người An Nam", "tiếng An Nam".
Tự chủ
Tên gọi An Nam do người Trung Quốc sử dụng dần dần được người châu Âu gọi theo. Chẳng hạn đã xuất hiện:
Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển (tiếng) An Nam - Bồ Đào Nha - Latinh) của Alexandre de Rhodes, năm 1651
Dictionarium Anamitico-Latinum (Từ điển An Nam - Latinh) của Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), soạn năm 1773 và được Jean-Louis Taberd biên tập lại và xuất bản năm 1838
Dictionnaire annamite - français (Từ điển An Nam - Pháp) của J. F. M. Génibrel, năm 1898
Nên nhắc lại là trong những tác phẩm do Alexandre de Rhodes viết nước "Annam" gồm có hai vùng "Tunquin" (Đàng Ngoài) và "Cochinchine" (Đàng Trong). "Cochinchine" lúc ấy, chỉ là miền Trung bây giờ: lúc sách La glorieuse mort d'André catechiste de la Cochinchine được in ra ở Paris vào năm 1653, thì cuộc Nam tiến của Đại Việt chỉ mới vào đến Nha Trang.
Trong lịch sử cận đại, "Annam" được sử dụng trong tiếng Pháp để chỉ phần đất Miền Trung Việt Nam (hay Trung Kỳ) do triều đình Huế của nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Ngày nay, người Việt thường hiểu từ "Annam" theo một nghĩa tiêu cực, mang hàm ý miệt thị dân tộc và vì vậy không thích sử dụng nó.
Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc (1887-1945), Việt Nam bị chia thành ba miền Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine) với ba chế độ quản lý khác nhau.
Annam là vùng đất do triều đình nhà Nguyễn cai quản dưới sự bảo hộ của Pháp. Khu vực hành chính có diện tích 150.200 km² nằm ở miền trung Việt Nam với thủ phủ là Huế. Trong phạm vi lãnh thổ của Annam còn có các đô thị lớn khác như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Quảng Trị, Vinh. Về mặt hình thức Annam là một quốc gia nằm trong Liên Hiệp Pháp, có bộ máy chính quyền đứng đầu bởi vua Nguyễn, có quốc kỳ, quốc ca. Tuy nhiên về thực chất toàn bộ bộ máy chính quyền tại đây đều bị một quan chức thuộc địa của Pháp - Khâm sứ Trung kỳ (Résident Supérieur d'Annam) giám sát và chi phối. Năm 1945, với việc vua Bảo Đại thành lập Đế quốc Việt Nam, Annam với tư cách là một vùng lãnh thổ hành chính về mặt pháp lý chấm dứt tồn tại.
Tham khảo
Quốc danh Việt Nam
Hán tự văn hóa quyển
Liên kết
Tài liệu
Trần Quang Đức, Áo xiêm chưa đổi hết, sách vở còn nguyên sao ?, Hà Nội, 2016.
Trần Quang Đức, Hán - Việt, Hà Nội, 2016.
Trần Quang Đức, Hán nô ?, Hà Nội, 2016.
Lê Vinh Huy, Sự giãn nở của lịch sử An Nam, Biên Hòa, 2017.
Dictionaire annamite - français (Từ điển An Nam - Pháp) của J. F. M. Génibrel, 1898
Tư liệu
Nguồn gốc quốc danh An Nam
Đế quốc An Nam và người dân An Nam - Bức tranh đa diện
Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3
Lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc
Địa danh cũ Việt Nam
Trung Bộ
Bắc Bộ
Cựu quốc gia trong lịch sử Việt Nam
Địa lý Việt Nam
Vùng của Việt Nam
|
25072
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADp%20L%C4%83ng-gi%C3%A0%20kinh
|
Nhập Lăng-già kinh
|
Nhập Lăng-già kinh (, rù lèngqié jīng; ; ) là một bộ kinh Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giác ngộ nội tại, qua đó mọi hiện tượng nhị nguyên đều biến mất, hành giả đạt tâm vô phân biệt. Đó là tâm thức đã chứng được Như Lai tạng (sa. tathāgata-garbha) vốn hằng có trong mọi loài. Kinh này chỉ rõ là văn tự không cố định trong việc trao truyền giáo pháp, như cùng một vật một việc nhưng có nhiều tên gọi, ý nghĩa và lời dạy của đức Phật, Phật pháp phải uyển chuyển theo ngữ cảnh, phù hợp với mọi chúng sinh.
Kinh này có ba bản dịch Hán ngữ song song với nguyên bản tiếng Phạn còn tồn tại:
Bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la (sa. guṇabhadra) dưới tên Lăng-già-a-bạt-đa-la bảo kinh (zh. 楞伽阿跋佗羅寶經; sa. liṅga-avatāra sūtra) 4 quyển;
Bản của Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhiruci) với tên Nhập Lăng-già kinh, 10 quyển;
Đại thừa nhập Lăng-già kinh (zh. 大乘入楞伽經) của Thật-xoa-nan-đà (sa. śikṣānanda), 7 quyển.
Những thuyết trong kinh này rất gần với quan điểm của Thiền tông. Cùng với kinh Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa và Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra), kinh Nhập Lăng-già là một trong những bộ kinh Đại thừa có ảnh hưởng lớn đến Thiền tông Trung Quốc. Người ta cho rằng bộ kinh này do Bồ-đề-đạt-ma, Sơ tổ thiền Trung Quốc chính tay truyền cho Nhị tổ Huệ Khả. Ngay cả giáo pháp tiệm ngộ (giác ngộ từng bậc) của Thần Tú cũng bắt nguồn từ kinh Nhập Lăng-già này.
Kinh bao gồm 9 chương văn xuôi trộn lẫn với các câu kệ và một chương chỉ toàn văn vần. Kinh này lần đầu được dịch ra Hán văn trong thế kỉ thứ 5. Kinh Nhập Lăng-già được Phật thuyết tại Tích Lan theo lời mời của một nhà vua xứ này, trong đó Phật trả lời những câu hỏi của Bồ Tát Đại Huệ (sa. mahāmati). Giáo pháp trong kinh này là nền tảng của Duy thức tông (sa. yogācāra, vijñānavāda).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Liên kết ngoài
Nguyên bản Phạn ngữ Devangari
Nguyên bản Phạn ngữ Latinh hoá
Bản dịch tiếng Anh của Suzuki: The Laṅkāvatāra Sūtra - Translated for the first time from the original Sanskrit by Daisetz Teitaro Suzuki
Kinh Đại thừa Nhập lăng già bản của thích nữ Trí Hải năm 1969, hiệu chính năm 1997, dịch từ bản đời Đường của Thiệt Xoa Nan Đà, có tham khảo bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki
Triết lý Phật giáo
Phật tính
Kinh văn Phật giáo Đại thừa
|
25074
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20ho%E1%BA%A1t%20t%C3%ADnh
|
Than hoạt tính
|
Than hoạt tính là một dạng của carbon được xử lý để có những lỗ rỗng bé thể tích nhỏ để tăng diện tích bề mặt cho dễ hấp phụ hoặc tăng cường phản ứng hóa học. Do mức độ vi mao quản cao, chỉ một gam than hoạt tính có diện tích bề mặt vượt quá 800 – 1000 m², được xác định bởi phương pháp hấp phụ khí. Một mức độ hoạt hóa đủ cho ứng dụng có ích có thể đạt được duy nhất từ diện tích bề mặt cao, hơn nữa, sự xử lý hóa học thường làm tăng tính chất hấp phụ. Than hoạt tính thường thu từ than củi và thỉnh thoảng là than sinh học. Những loại thu được từ than đá hay cốc thì được gọi là than đá hoạt tính hoặc cốc hoạt tính.
Về mặt hóa học gồm chủ yếu là nguyên tố carbon ở dạng vô định hình (bột), một phần nữa có dạng tinh thể vụn grafit. Ngoài carbon thì phần còn lại thường là tàn tro, mà chủ yếu là các kim loại kiềm và vụn cát). Than hoạt tính có diện tích bề mặt ngoài rất lớn nên được ứng dụng như một chất lý tưởng để lọc hút nhiều loại hóa chất.
Cấu tạo
Diện tích bề mặt của than hoạt tính nếu tính ra đơn vị khối lượng thì là từ 500 đến 2500 m2/g (lấy một ví dụ cụ thể để so sánh thì một sân quần vợt có diện tích rộng khoảng chừng 260 m²). Bề mặt riêng rất lớn này là hệ quả của cấu trúc xơ rỗng mà chủ yếu là do thừa hưởng từ nguyên liệu hữu cơ xuất xứ, qua quá trình chưng khô (sấy) ở nhiệt độ cao trong điều kiện yếm khí. Phần lớn các vết rỗng - nứt vi mạch, đều có tính hấp thụ rất mạnh và chúng đóng vai trò các rãnh chuyển tải (kẽ nối). Than hoạt tính thường được tự nâng cấp (ví dụ, tự rửa tro hoặc các hóa chất tráng mặt), để lưu giữ lại được những thuộc tính lọc hút, để có thể thấm hút được các thành phần đặc biệt như kim loại nặng.
Thuộc tính làm tăng ý nghĩa của than hoạt tính còn ở phương diện nó là chất không độc (kể cả một khi đã ăn phải nó), than hoạt tính được tạo từ gỗ và than đá thường có giá thành thấp, từ xơ dừa, vỏ trái cây thì giá thành cao và chất lượng hơn. Chất thải của quá trình chế tạo than hoạt tính dễ dàng được tiêu hủy bằng phương pháp đốt. Nếu như các chất đã được lọc là những kim loại nặng thì việc thu hồi lại, từ tro đốt, cũng rất dễ. Phần lớn than hoạt tính có mặt trong đời sống được làm từ gỗ bằng cách đốt cháy thân cây rồi phun nước lên thân cây đang cháy(loại này còn có tên là than hoa) hoặc nung thân gỗ trong môi trường yếm khí
Những thông số của than hoạt tính
Kích thước, thể tích lỗ xốp và diện tích bề mặt riêng:
Kích thước của lỗ xốp được tính bằng khoảng cách giữa hai cạnh của rãnh hoặc đường kính của ống xốp. Theo tiêu chuẩn của IUPAC thì kích thước lỗ xốp được chia ra làm ba loại: micro pore có kích thước bé hơn 2 nm, meso pore có kích thước từ 2-50 nm và macro pore có kích thước từ 50 nm trở lên.
Diện tích bề mặt riêng của than hoạt tính được đo bằng m²/g và là một thông số hết sức quan trọng đối với than, cho biết khả năng hấp phụ của than hoạt tính. 95% diện tích bề mặt riêng của than là diện tích của những lỗ xốp micro. Những lỗ xốp meso có diện tích bề mặt chiếm không quá 5% tổng diện tích bề mặt của than. Những lỗ xốp kích thước lớn không có nhiều ý nghĩa trong hoạt tính của than vì diện tích bề mặt riêng của chúng không đáng kể.
Chỉ số iod
Đây là một chỉ số cơ bản của than hoạt tính đặc trưng cho diện tích bề mặt của lỗ xốp cũng như khả năng hấp phụ của than. Chỉ số iod được tính bằng khối lượng iod có thể được hấp phụ bởi một đơn vị khối lượng của than.(mg/g). Nguyên lý của phương pháp đo dựa trên sự hấp phụ lớp đơn phân tử iod trên bề mặt của than. Chỉ số iod càng lớn thì mức độ hoạt hóa càng cao. Giá trị của chỉ số iod rơi vào khoảng 500–1200 mg/g. Từ giá trị của chỉ số iod có thể tính ra được diện tích bề mặt riêng của than
Độ cứng
Là khả năng chống chịu mài mòn của than hoạt tính. Đây là một thông số quan trọng bởi vì trong quá trình sử dụng, than hoạt tính còn phải chịu những tác động vật lý như: bị đặt dưới dòng chảy lỏng hoặc khí, dưới tác động của áp suất, do đó than cần phải đảm bảo được những yếu tố về độ cứng nhằm giữ được nguyên vẹn cấu trúc trong quá trình sử dụng và phục hồi. Độ cứng của than phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu đầu vào cũng như mức độ quá trình hoạt hóa.
Phân bố kích thước hạt
Kích thước hạt ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận của chất được hấp phụ tới bền mặt của than. Kích thước càng nhỏ thì khả năng tiếp cập càng dễ và quá trình hấp phụ diễn ra càng nhanh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi hấp phụ trong hệ khí có áp suất thấp. Tính toán kỹ được phân bố kích thước hạt giúp chúng ta có thể chọn lựa được những thông số áp suất tối ưu để giảm thiểu tối đa mức tiêu thụ năng lượng.
Ứng dụng
Than hoạt tính được sử dụng trong tinh chế khí, thức uống không chứa caffein, tinh chế quặng vàng, chiết kim loại, làm tinh khiết nước, y tế, xử lý chất thải, lọc không khí trong mặt nạ phòng độc và khẩu trang.
Ứng dụng công nghiệp
Một ứng dụng công nghiệp chính là xử lý kim loại cuối. Nó được sử dụng rộng rãi trong tinh chế dung dịch mạ điện. Ví dụ, nó là kỹ thuật tinh chế chính trong việc loại bỏ những tạp chất hữu cơ từ dung dịch mạ kền sáng. Nhiều chất hữu cơ được thêm vào dung dịch mạ để cải thiện tính bám dính và tăng tính chất như độ sáng, nhẵn, tính uốn v.v... Sự truyền dòng điện trực tiếp và phản ứng điện hóa của oxy hóa anot và khử catot, những phụ gia hữu cơ sinh ra những sản phẩm phân hủy không mong muốn trong dung dịch. Sự sinh ra quá nhiều của chúng có thể có hại cho chất lượng mạ và tính chất vật lý của kim loại. Sự xử lý bằng than hoạt tính loại bỏ những tạp chất như vậy và trả lại hiệu suất mạ về mức độ mong muốn.
Ứng dụng y tế
Than hoạt tính được sử dụng để xử lý chất độc và sự dùng quá liệu qua đường miệng. Những viên hoặc nang than hoạt tính được sử dụng ở nhiều nước như một thuốc không cần kê toa bác sĩ để xử lý bệnh tiêu chảy, chứng khó tiêu và đầy hơi.
Tuy nhiên, nó không hiệu quả cho nhiều sự ngộ độc của acid hoặc kiềm mạnh, cyanide, sắt, lithi, arsen, methanol, ethanol hay ethylene glycol.
Ứng dụng gián tiếp (ví dụ cho vào phổi) dẫn đến sặc hệ hô hấp, có thể gây chết người nếu không được xử lý y tế ngay lập tức.
Ứng dụng hóa phân tích
Than hoạt tính, hỗn hợp 50/50 khối lượng diatomit và than hoạt tính được sử dụng như pha tĩnh trong sắc khí áp suất thấp cho carbohydrate sử dụng dung dịch rượu (5-50%) như pha động trong đinh chuẩn chuẩn bị và phân tích.
Ứng dụng môi trường
Sự hấp phụ cacbon có nhiều ứng dụng trong loại bỏ chất gây ô nhiễm từ không khí hay nước như:
Làm sạch dầu tràn
Lọc nước ngầm
Lọc nước uống
Làm sạch không khí
Giữ tạp chất hữu cơ không bay hơi từ màu vẽ, lọc khô, bay hơi xăng và những quá trình khác.
Trong suốt đầu sự bổ sung của Luật nước uống an toàn 1974 ở Mỹ, EPA đã phát triển một điều luật đề xuất yêu cầu những hệ thống xử lý nước uống sử dụng than hoạt tính dạng hạt. Nhưng do giá quá cao, điều luật gọi là luật GAC gặp những phản đối mạnh mẽ trong cả nước từ công nghiệp cung cấp nước, bao gồm nhà máy nước lớn nhất ở California, nên luật đã bị bãi bỏ.
Than hoạt tính cũng được dùng để đo nồng độ Radon trong không khí.
Trong y tế (Carbo medicinalis – than dược): để tẩy trùng và các độc tố sau khi bị ngộ độc thức ăn...
Trong kỹ thuật, than hoạt tính là một thành phần lọc khí (trong đầu lọc thuốc lá, miếng hoạt tính trong khẩu trang); tấm khử mùi trong tủ lạnh và máy điều hòa nhiệt độ...
Trong xử lý nước (hoặc lọc nước trong gia đình): để tẩy các chất bẩn vi lượng, diệt khuẩn và khử mùi....v.v.v.
Tác dụng tốt trong phòng tránh tác hại của tia đất.
Tham khảo
Tá dược
Thù hình của carbon
Công nghệ khí
Hoạt tính
|
25075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20c%E1%BB%A7i
|
Than củi
|
Than gỗ hay than củi là một chất màu đen, rất nhẹ, được chế từ gỗ qua quá trình chưng khô gỗ (tách nguyên tố cacbon ra khỏi các thành phần khác, chủ yếu là hơi nước và các chất dễ bay hơi). Than gỗ còn giữ lại được một phần dạng cấu trúc của tế bào gỗ. Chúng có khả năng hấp thụ lớn và được sử dụng làm chất hấp thụ, chất lọc, dược phẩm, chất đốt hoặc làm phụ gia của than hoạt tính và thuốc .
Phân hạng than gỗ
Than gỗ từ buồng đốt
Than gỗ từ buồng đốt là than gỗ nhận được từ sự phân hủy qua chưng khô gỗ của cây lá bản hoặc lá kim, trong điều kiện nhiệt độ khoảng 450 °C, có chứa từ 10–20% thành phần bay hơi và 70-80% cacbon.
Than gỗ từ lò ủ lửa
Than gỗ từ lò ủ lửa là loại than gỗ thu được từ quá trình phân hủy bằng chưng khô gỗ của cây lá bản hoặc lá kim, trong điều kiện nhiệt độ khoảng 700 °C, không chứa trên 4% các thành phần bay hơi.
Đây là cách mà người dân miền núi tại Việt Nam hay dùng để sản xuất than gỗ, từ những thân cây tươi, trong những lò đất hàm ếch với dung tích khoảng 2-3 mét khối.
Tham khảo
Nhiên liệu thể rắn
Trị liệu sinh học
Nhiên liệu
Thù hình của carbon
Chất cải tạo đất
Thịt nướng hun khói
Nhiên liệu pháo hoa
Nhiên liệu sinh học
|
25076
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0ng%20kh%C3%B4
|
Chưng khô
|
Chưng khô (piroliza) là quá trình phân hóa các chất hữu cơ bằng nhiệt, dưới tác động của nhiệt độ cao, trong thời gian dài và trong điều kiện thiếu oxy và các chất oxy hóa khác.
Thường thì trong quá trình chưng khô các hợp chất hóa học phức tạp sẽ bị phân hủy thành các chất đơn giản hơn, có phân tử lượng nhỏ hơn (cracking). Trong một số trường hợp thì qua chưng khô có thể tạo ra các chất nung, là các chất đơn giản hơn về hóa học nhưng lại có cấu trúc mạng không gian, với nhiều thuộc tính vật lý rất thú vị. Cơ chế biến hóa trong quá trình chưng khô thường là khá phức tạp, còn về bản chất của hiện tượng này thì rất khó nghiên cứu trong các điều kiện mà nó tồn tại.
Trong công nghiệp thì chưng khô thường dùng để:
Thu hồi các chất mônôme (có cấu trúc đơn phần) từ polymer (cấu trúc chuỗi đa phần) trong quá trình xử lý chất thải và tái thu hồi (recycling).
Sản xuất đồ sứ.
Sản xuất các vật liệu, nhất là các loại vật liệu chịu nhiệt.
Chưng khô là một công đoạn của quá trình hóa khí.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trong tình huống con đường công nghệ nhiệt phân nhanh xúc tác Phòng thí nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia
Trình kỹ nghệ
Phản ứng hữu cơ
Quá trình công nghiệp
Quá trình hóa học
Công nghệ xử lý chất thải
|
25081
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/JSP
|
JSP
|
Jakarta Server Pages (JSP; trước đây là JavaServer Pages) là một bộ công nghệ giúp các nhà phát triển phần mềm tạo ra các trang web động dựa trên HTML, XML, SOAP hay các loại tài liệu khác. Được phát hành vào năm 1999 bởi Sun Microsystems, JSP tương tự như PHP và ASP, nhưng sử dụng ngôn ngữ lập trình Java.
Để triển khai và chạy Jakarta Server Pages, cần có một máy chủ web tương thích với servlet container, ví dụ như Apache Tomcat hoặc Jetty.
Tổng quan
Về mặt kiến trúc, JSP có thể được coi là một trừu tượng cấp cao của Java servlets. JSP được dịch thành các servlet tại thời gian chạy, do đó JSP chính là một Servlet; mỗi servlet JSP được lưu trữ trong bộ nhớ cache và tái sử dụng cho đến khi JSP gốc bị sửa đổi.
Jakarta Server Pages có thể được sử dụng độc lập hoặc như thành phần chế độ xem của một thiết kế MVC ở phía máy chủ, thường với JavaBeans làm model và Java servlets (hoặc một hệ khung như Apache Struts) làm controller. Đây là một loại kiến trúc Model 2.
JSP cho phép mã Java và một số hành động xử lý đã được định trước nằm xen kẽ với nội dung tĩnh của trang web, ví dụ như HTML. Trang kết quả được biên dịch và thực thi trên máy chủ để cung cấp một tài liệu. Các trang biên dịch, cũng như các thư viện Java phụ thuộc, chứa mã bytecode Java thay vì mã máy. Giống như bất kỳ .jar hoặc chương trình Java nào khác, mã phải được thực thi trong một Máy ảo Java (JVM) có tương tác với hệ điều hành của máy chủ để cung cấp môi trường trừu tượng, độc lập với nền tảng.
JSP thường được sử dụng để cung cấp tài liệu HTML và XML, nhưng thông qua việc sử dụng OutputStream, chúng cũng có thể cung cấp các loại dữ liệu khác.
Web container tạo ra các đối tượng ngầm định JSP như request, response, session, application, config, page, pageContext, out và exception. JSP Engine tạo ra những đối tượng này trong quá trình biên dịch.
JSP và Servlet
Về mặt kiến trúc mà nói, ta có thể xem JSP là một trừu tượng ở mức độ cao của servlet, một phần mở rộng thực thi của Servlet 2.1 API. Cả hai, servlet và, đều nguyên do công ty Sun Microsystems tạo dựng. Bắt đầu từ phiên bản 1.2 đặc tả của JSP, JavaServer Pages đã được xây dựng do Tiến trình cộng đồng Java (Java Community Process). JSR 53 - Java Specification Requests hay "Yêu cầu đặc tả cho Java" - định nghĩa bản đặc tả của cả hai, JSP 1.2 và Servlet 2.4, và JSR 152 định nghĩa bản đặc tả JSP 2.0. Tại thời điểm năm 2006 bản đặc tả JSP 2.1 được xây dựng trên nền của yêu cầu JSR 245.
Cú pháp JSP
Một trang JSP có thể được phân thành từng phần nhỏ như sau:
dữ liệu tĩnh, như HTML
các chỉ thị JSP (JSP directives) như chỉ thị include: <jsp:include>
các phần tử kịch bản JSP (scripting elements) và các biến (variables), ví dụ:
<% scriptlet %>
<%= expression %>
<%! declaration %>
hành động JSP (JSP actions)
thẻ tùy biến (custom tags)
Dữ liệu tĩnh
Vì dữ liệu tĩnh được viết ra trong phần hồi âm HTTP (HTTP response) cũng giống như nó được viết trong tập tin nhận vào (input file), cho nên dữ liệu nhập hợp lệ của JSP thường là một trang HTML bình thường, không có mã java hoặc hành động JSP nhúng trong đó. Với dữ liệu tĩnh này, bất cứ lúc nào trình chủ web hồi âm, trình chủ web cũng sẽ gửi cùng một dữ liệu sang trang trình khách.
Các chỉ phối JSP
Chỉ phối JSP (JSP directives) điều khiển cách mà bộ biên dịch JSP khởi tạo một servlet. Các chỉ phối hiện có được liệt kê như sau:
include – Chỉ phối include thông báo cho bộ biên dịch JSP cho nhập toàn bộ nội dung của một tập tin vào trong nội dung hiện có. Việc làm này tương tự như việc chúng ta lấy nội dung của tập tin đó dán trực tiếp vào trong nội dung của tập tin đang dùng. Tính năng này cũng tương tự như tính năng "#include" của Bộ tiền xử lý C (C preprocessor). Tập tin được nhập thường có đuôi mở rộng (extension) là "jspf" (do JSP Fragment (mảnh, đoạn) mà ra):
<%@ include file="somefile.ext" %>
page (Trang) – Có nhiều tùy chọn với chỉ phối page.
<%@ page import="java.util.*" %> //example import
<%@ page contentType="text/html" %> //example contentType
<%@ page isErrorPage=false %> //example for non error page
<%@ page isThreadSafe=true %> //example for a thread safe JSP
Chú ý: Chỉ có chỉ phối trang "import" là có thể được dùng nhiều lần trong cùng một trang JSP.
taglib – Chỉ phối taglib thông báo rằng chúng ta sẽ sử dụng một thư viện thẻ JSP (JSP tag library). Chỉ phối này đòi hỏi một tiền tố (prefix) (tương tự như namespace trong C++), cũng như kết nối URI của phần mô tả thư viện thẻ (URI for the tag library description) phải được xác định.
<%@ taglib prefix="myprefix" uri="taglib/mytag.tld" %>
Các thành phần trong văn lệnh JSP và các biến
Các biến văn lệnh tiêu chuẩn
Các biến văn lệnh (scripting variables) sau có thể dùng lúc nào cũng được:
out (xuất) – JSPWriter sử dụng nó để ghi dữ liệu vào luồng dữ liệu hồi âm (response stream).
page (trang) – Bản thân servlet.
pageContext (ngữ cảnh của trang) – Một PageContext là một thực thể có chứa dữ liệu liên kết với toàn bộ trang web. Một trang HTML nào đấy có thể được truyền qua nhiều trang JSP.
request (yêu cầu ) – Đối tượng HTTP request
response (hồi âm ) – Đối tượng HTTP response
session (phiên giao dịch ) – Đối tượng HTTP session. Cái này có thể được dùng để theo dõi tin tức về một người dùng, từ yêu cầu này đến yêu cầu khác.
Các thành phần trong văn lệnh
Có 3 thành phần chính trong văn lệnh. Chúng cho phép mã Java được chèn (insert) trực tiếp vào trong servlet.
Một thẻ khai báo (declaration tag) đặt định nghĩa của một biến vào trong lòng phần thân lớp servlet của Java (java servlet class). Những thành viên dữ liệu tĩnh (Static data members) cũng có thể được định nghĩa ở đây nữa.
<%! int serverInstanceVariable = 1; %>
Một thẻ văn lệnh con (scriptlet tag) đặt những câu lệnh đã được bao gọn (contained statements) vào trong phương thức _jspService() của lớp servlet của java.
<% int localStackBasedVariable = 1;
out.println(localStackBasedVariable); %>
Một thẻ biểu thức (expression tag) đặt một biểu thức cần phải được tính toán (evaluate) vào trong lớp servlet của java. Không nên kết thúc biểu thức bằng một dấu chấm phẩy (semi-colon - ";").
<%= "expanded inline data " + 1 %>
Các hành động của JSP
Hành động JSP là các thẻ XML được dùng để khởi động chức năng mà máy chủ web vốn có. Những hành động sau đây được cung cấp:
Ví dụ về các thẻ
jsp:include
<html>
<body>
<jsp:include page="mycommon.jsp" >
<jsp:param name="extraparam" value="myvalue" />
</jsp:include>
name:<%=request.getParameter("extraparam")%>
</body></html>
jsp:forward
<jsp:forward page="subpage.jsp" >
<jsp:param name="forwardedFrom" value="this.jsp" />
</jsp:forward>
Trong ví dụ tiếp tới này, yêu cầu được chuyển về phía trước tới "subpage.jsp". Thao tác xử lý yêu cầu không quay trở lại trang này.
jsp:plugin
<jsp:plugin type=applet height="100%" width="100%"
archive="myjarfile.jar,myotherjar.jar"
codebase="/applets"
code="com.foo.MyApplet" >
<jsp:params>
<jsp:param name="enableDebug" value="true" />
</jsp:params>
<jsp:fallback>
Trình duyệt web của bạn không hỗ trợ những applet này.
</jsp:fallback>
</jsp:plugin>
Ví dụ plugin trên minh họa một phương pháp đồng bộ để nhúng applet trong một trang web. Trước khi thẻ <OBJECT> được tạo ra, chưa có một phương pháp chung nào cho phép người ta nhúng các applet cả. Thiết kế của thẻ này tương đối nghèo nàn. Hy vọng những đặc tả của nó trong tương lai sẽ cho phép những cái như đặc tính năng động (dynamic attributes) (height="${param.height}", code="${chart}" v.v.) và thông số năng động (dynamic parameters). Hiện này, thẻ jsp:plugin không cho phép dùng những applet khởi động một cách năng động. Chẳng hạn, nếu chúng ta có một applet biểu hiện đồ thị và nó cần có các dữ liệu về tọa độ được truyền cho nó thông qua các thông số, chúng ta không thể dùng jsp:params, trừ phi số điểm tọa độ là một số cố định. Chúng ta không thể, ví dụ, luân chuyển qua danh sách loạt kết quả (ResultSet) để kiến tạo các thẻ jsp:param. Chúng ta phải tự tính toán cho từng cái thẻ jsp:param một. Đương nhiên, mỗi một thẻ jsp:param ấy có thể có một cái tên và một giá trị tùy định.
jsp:useBean
<jsp:useBean id="myBean" class="com.foo.MyBean" scope="request" />
<jsp:getProperty name="myBean" property="lastChanged" />
<jsp:setProperty name="myBean" property="lastChanged" value="<%= new Date()%>" />
Những thuộc tính về phạm vi ảnh hưởng (scope attribute) có thể là yêu cầu (request), trang (page), phiên giao dịch (session), hoặc trình ứng dụng (application). Ý nghĩa của các thuộc tính như sau:
yêu cầu (request) — thuộc tính này kéo dài trong toàn bộ thời gian tồn tại của yêu cầu (lifetime of the request). Một khi yêu cầu đã được tất cả cácc trang JSP xử lý, thuộc tính sẽ mất điểm tham chiếu (de-referenced).
trang (page) — thuộc tính chỉ được dùng trong trang hiện tại mà thôi.
phiên giao dịch (session) — thuộc tính được dùng trong toàn bộ thời gian tồn tại phiên giao dịch của người dùng.
trình ứng dụng (application) — thuộc tính có thể được dùng bởi tất cả các thực thể (instance) và sẽ không bao giờ mất điểm tham chiếu. Tương tự như một biến toàn cục (global variable).
Ví dụ trên sử dụng Chương trình quản lý Bean (Bean Manager) để tạo một thực thể (instance) của lớp com.foo.MyBean và lưu trữ thực thể trong thuộc tính (attribute) có tên là "myBean". Thuộc tính tồn tại trong toàn bộ thời gian của yêu cầu. Nó có thể được chia sẻ giữa tất cả các trang JSP đã được bao gồm hay những trang được chuyển về phía trước từ trang JSP nhận yêu cầu đầu tiên.
Thư viện thẻ JSP
Cùng với các hành động JSP định sẵn, các nhà phát triển có thể thêm vào các hành động tùy biến của họ dùng các hàm API của JSP hỗ trợ cho việc mở rộng thẻ (JSP Tag Extension API). Các nhà phát triển sẽ viết một lớp Java (class) để thực thi một trong các thẻ giao diện (Tag interfaces) và cung cấp một tập tin chứa mô tả XML về thư viện thẻ. Tập tin này được dùng để xác định các thẻ và các lớp Java (java classes) thực hiện các thẻ đó.
Xem xét ví dụ sau:
<%@ taglib uri="mytaglib.tld" prefix="myprefix" %>
...
<myprefix:myaction> <%-- thẻ mở đầu %>
...
</myprefix:myaction> <%-- thẻ kết thúc %>
...
Bộ biên dịch JSP sẽ đọc tập tin XML mytaglib.tld và phát hiện rằng thẻ myaction được thực hiện bởi lớp Java (java class) tên MyActionTag (xem ở dưới). Lần đầu tiên, khi thẻ này được dùng trong tập tin JSP, nó sẽ tạo nên một thực thể (instance) của MyActionTag. Sau đó (và mỗi lần thẻ này được dùng lại), nó sẽ khởi động phương thức doStartTag() khi nó gặp thẻ "mở đầu" (start). Nó thẩm tra kết quả của thẻ "mở đầu", và quyết định phương pháp để xử lý phần thân của thẻ. Thân của thẻ là phần văn bản nằm giữa thẻ "mở đầu" và thẻ "kết thúc" (end). Phương thức doStartTag() có thể trả về một trong những hằng sau:
SKIP_BODY - Phần thân giữa thẻ không được xử lý (bỏ qua)
EVAL_BODY_INCLUDE - định giá trị phần thân của thẻ
EVAL_BODY_TAG - định giá trị phần thân của thẻ và đẩn kết quả vào luồng dữ liệu (được lưu trong thuộc tính về nội dung thân của thẻ).
Chú ý: Nếu thẻ là kế thừa (extends) của lớp BodyTagSupport, thì phương thức doAfterBody() sẽ được khởi động khi phần thân được xử lý, trước khi khởi động doEndTag(). Phương thức này dùng để thực hiện cấu trúc lặp vòng.
Khi gặp thẻ "kết thúc", nó gọi phương thức doEndTag(). Phương thức này có thể trả lại một trong hai giá trị:
EVAL_PAGE - ám chỉ rằng phần còn lại của tập tin JSP cần phải được xử lý.
SKIP_PAGE - ám chỉ rằng không còn phần xử lý nào cần phải làm nữa. Quyền khống chế sẽ rời khỏi trang JSP. Phương pháp này được dùng trong hành động chuyển trang (forwarding action).
Thẻ myaction cần phải có một lớp (class) thực thi nó, tương tự như phần sau đây:
public class MyActionTag extends TagSupport {
//Giải phóng mọi thực thể của biến (instance variable) - trong bộ nhớ.
public void release() {...}
public MyActionTag() {... }
//gọi khi gặp thẻ "mở đầu"
public int doStartTag() {... }
//gọi khi gặp thẻ "kết thúc"
public int doEndTag() {... }
}
Quốc tế hóa
Quốc tế hóa trong JSP có thể được thực hiện tương tự như phương pháp làm trong các trình ứng dụng Java thông thường, nghĩa là bằng cách dùng gói tài nguyên (resource bundle).
Việc thay đổi ngôn ngữ thể hiện trên các trang web được thực hiện một cách đơn giản thông qua việc thay đổi đơn vị locale. Bằng cách đó, lập trình viên có thể thực hiện thay đổi nội dung, ngôn ngữ... thông qua thay đổi các resource bundle này chứ không cần trực tiếp tác động lên code của trang JSP hay code của taglib.
JSP 2.0
Phiên bản đặc tả mới của JSP bao gồm những đặc trưng mới nhằm nâng cao hiệu năng của nhà lập trình (hầu cho họ làm việc được nhanh và có kết quả hơn), gọi là:
Ngôn ngữ biểu thức (JSP Expression Language - viết tắt là JSP EL) nhằm cho phép các nhà phát triển tạo ra mẫu (templates) theo phong cách Tốc lực (Velocity) (và những cái khác nữa).
Một phương thức nhanh gọn / dễ dàng để tạo ra các thẻ mới.
Hello, ${param.visitor} <%-- giống như: Hello, <%=request.getParameter("visitor")%> --%>
Mẫu hình MVC
Sun khuyến cáo việc sử dụng mẫu hình MVC (Model-View-Controller - tạm dịch là "Mô hình dữ liệu - giao diện người dùng - lôgic điều khiển", có thể gọi ngắn là "mô hình - giao diện - điều khiển") cho các tập tin JSP để có thể tách biệt phần trình bày (presentation) khỏi phần xử lý yêu cầu (request processing) và lưu trữ dữ liệu (data storage). Hoặc là các servlets thông thường
hoặc là các tập tin JSP phải được sử dụng để xử lý yêu cầu. Sau khi đã hoàn thành việc xử lý yêu cầu, quyền điều khiển được chuyển sang cho một trang JSP khác. Trang này chỉ được dùng để tạo xuất liệu, tức là hiển thị ở đầu ra. Hiện nay có một vài hệ nền (platforms) được tạo dựa trên nền của nguyên lý mẫu hình MVC cho các tầng máy web (web tiers) (chẳng hạn như Struts và cơ cấu Spring (Spring framework))
Ví dụ
Mặc dầu bộ biên dịch JSP kiến tạo mã nguồn Java cho servlet hoặc phát ra mã byte của Java (byte code) trực tiếp, chúng ta cũng nên hiểu quá trình bộ biên dịch JSP biến đổi một trang JSP trở thành một servlet của Java như thế nào. Chẳng hạn, chúng ta thử cân nhắc những dữ liệu nhập của JSP sau đây, và kết quả Java Servlet mà nó sinh tạo.
Trang JSP nhập vào
<nowiki>
<%@ page errorPage="myerror.jsp" %>
<%@ page import="com.foo.bar" %>
<html>
<head>
<%! int serverInstanceVariable = 1;%>
...
<% int localStackBasedVariable = 1; %>
<table>
<tr><td><%= toStringOrBlank("expanded inline data" + 1) %></td></tr>
...
</nowiki>
Kết quả servlet được sinh tạo
<nowiki>
package jsp_servlet;
import java.util.*;
import java.io.*;
import javax.servlet.*;
import javax.servlet.http.*;
import javax.servlet.jsp.*;
import javax.servlet.jsp.tagext.*;
import com.foo.bar; //nhập nội do kết quả của dòng <%@ page import="com.foo.bar" %>
import...
class _myserlvet implements javax.servlet.Servlet, javax.servlet.jsp.HttpJspPage {
//được chèn thêm vào
//do kết quả của dòng <%! int serverInstanceVariable = 1;%>
int serverInstanceVariable = 1;
...
public void _jspService(javax.servlet.http.HttpServletRequest request,
javax.servlet.http.HttpServletResponse response)
throws javax.servlet.ServletException,
java.io.IOException
{
javax.servlet.ServletConfig config =...;//lấy cấu hình của servlet vào
Object page = this;
PageContext pageContext =...;//lấy ngữ cảnh của trang đối với yêu cầu này
javax.servlet.jsp.JspWriter out = pageContext.getOut();
HttpSession session = request.getSession(true);
try {
out.print("<html>\r\n");
out.print("<head>\r\n");
...
//sinh ra từ dòng <% int localStackBasedVariable = 1; %>
int localStackBasedVariable = 1;
...
out.print("<table>\r\n");
out.print(" <tr><td>");
//để ý, toStringOrBlank() đổi biểu thức thành chuỗi ký tự hoặc
// nếu biểu thức không tồn tại (null), dùng chuỗi ký tự trống rỗng (empty string) thay thế.
//từ dòng <%= "expanded inline data " + 1 %>
out.print(toStringOrBlank("expanded inline data " + 1));
out.print(" </td></tr>\r\n");
...
} catch (Exception _exception) {
//dọn dẹp sạch sẽ và chuyển hướng điều khiển tới trang báo lỗi như trong dòng <%@ page errorPage="myerror.jsp" %>
}
}
}
</nowiki>
Sách
JavaServer Pages, Third Edition, Hans Bergsten, O'Reilly & Associates, Inc., Sebastopol, California, 2003. ISBN 0-596-00563-6
Xem thêm
J2EE
JavaServer Faces
Servlet
SSJS
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sun's JSP product description
Free JSP training/learning materials
Công nghệ Java
Internet
|
25089
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ky%C5%8Dto%20%28th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%29
|
Kyōto (thành phố)
|
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai.
Năm 794, Kyoto (lúc đó được gọi là Heian-kyō) được chọn làm kinh đô mới của triều đình Nhật Bản. Các Thiên hoàng Nhật Bản cai trị ở Kyoto trong 11 thế kỷ cho đến năm 1869 khi triều đình chuyển đến Tokyo. Thành phố bị tàn phá trong Chiến tranh Ōnin vào thế kỷ 15 và bước vào thời kỳ suy tàn kéo dài, nhưng dần dần hồi sinh dưới thời Mạc phủ Tokugawa (1600-1868) và phát triển mạnh mẽ để trở thành một thành phố lớn ở Nhật Bản. Thành phố hiện đại của Kyoto được thành lập vào năm 1889. Thành phố đã tránh khỏi sự tàn phá quy mô lớn trong Thế chiến II và kết quả là di sản văn hóa trước chiến tranh của nó được bảo tồn khá nhiều.
Kyoto được coi là thủ đô văn hóa của Nhật Bản và là một điểm đến du lịch lớn. Đây là nơi có nhiều đền thờ Phật giáo, đền thờ Thần đạo, cung điện và vườn, nhiều trong số đó được UNESCO liệt kê là Di sản Thế giới. Các địa danh nổi bật bao gồm Cung điện Hoàng gia Kyoto, Kiyomizu-dera, Kinkaku-ji, Ginkaku-ji và Biệt thự Hoàng gia Katsura. Kyoto cũng là một trung tâm của cao học, với Đại học Kyoto là một trường nổi tiếng thế giới.
Tên gọi
Trong tiếng Nhật, trước đây, Kyoto được gọi là Kyō (), Miyako () hoặc Kyō no Miyako (). Vào thế kỷ 11, thành phố được đổi tên thành "Kyōto" (京都, "kinh đô"), từ Hán trung cổ (cf. Mandarin jīngdū). Sau khi thành phố Edo được đổi tên thành "Tōkyō" (, "Đông kinh") vào năm 1868 và kinh đô chuyển đến đó, Kyoto trong một thời gian ngắn được gọi là Saikyō (, "Tây kinh"). Kyoto đôi khi cũng được gọi là Thiên niên chi đô - Thủ đô nghìn năm ().
Quốc hội Nhật Bản không bao giờ chính thức thông qua bất kỳ luật chỉ định một thủ đô. Các cách viết nước ngoài cho tên thành phố bao gồm Kioto, Miaco (都 miyako, có nghĩa "đô") và Meaco, được sử dụng chủ yếu bởi người vẽ bản đồ Hà Lan. Một thuật ngữ khác thường được sử dụng để chỉ thành phố trong thời kỳ tiền hiện đại là , "thủ đô".
Lịch sử
Nguồn gốc
Bằng chứng khảo cổ học phong phú cho thấy sự định cư của con người ở Kyoto bắt đầu sớm nhất là vào thời kỳ Cổ sinh, mặc dù không có nhiều tài liệu công bố được giữ lại về hoạt động của con người trong khu vực trước thế kỷ thứ 6, khoảng thời gian đó, đền Shimogamo được cho là đã được thành lập.
Heian-kyō
Trong thế kỷ thứ 8, khi các giáo sĩ Phật giáo hùng mạnh và tham gia vào các vấn đề của chính quyền Hoàng gia, Thiên hoàng Kanmu đã chọn di dời thủ đô để tránh xa cơ sở giáo sĩ ở Nara. Lựa chọn cuối cùng của anh cho địa điểm là ngôi làng Uda, thuộc huyện Kadono, tỉnh Yamashiro.
Thành phố mới, , một bản sao thu nhỏ của thủ đô nhà Đường Trung Quốc thời bấy giờ Trường An, trở thành kinh đô triều đình Nhật Bản vào năm 794, bắt đầu thời Heian của lịch sử Nhật Bản. Mặc dù các nhà cai trị quân sự đã thành lập chính phủ của họ ở Kyoto (Mạc phủ Muromachi) hoặc ở các thành phố khác như Kamakura (Mạc phủ Kamakura) và Edo (Mạc phủ Tokugawa), Kyoto vẫn là thủ đô của Nhật Bản cho đến khi triều đình chuyển đến Tokyo vào năm 1869 tại thời điểm Minh Trị Duy tân.
Thành phố đã bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Ōnin từ năm 1467 đến năm 1477 và không thực sự hồi phục cho đến giữa thế kỷ 16. Trong suốt chiến tranh Ōnin, mạc phủ sụp đổ và quyền lực được chia cho các gia đình quân nhân. Các trận chiến giữa các phe phái samurai tràn ra đường và liên quan đến giới quý tộc triều đình (kuge) cùng các phe phái tôn giáo. Lâu đài của những người quý tộc đã được biến thành pháo đài, những rãnh hào sâu được đào khắp thành phố để phòng thủ và nhiều tòa nhà bị đốt cháy. Đây là lần tàn phá khủng khiếp nhất từ trước đến nay.
Vào cuối thế kỷ 16, Toyotomi Hideyoshi đã xây dựng lại thành phố bằng cách xây dựng các đường phố mới để nhân đôi số lượng đường phố bắc nam ở trung tâm Kyoto, tạo ra các khối hình chữ nhật thay thế các khối vuông cổ xưa. Hideyoshi cũng đã xây những bức tường đất gọi là bao quanh thành phố. Đường Teramachi ở trung tâm Kyoto là một khu đền thờ Phật giáo nơi Hideyoshi tập hợp các ngôi đền trong thành phố. Trong suốt thời Edo, nền kinh tế của thành phố phát triển mạnh mẽ và là một trong ba thành phố lớn ở Nhật Bản, hai thành phố khác là Osaka và Edo.
Tân Kyoto
Cuộc nổi dậy Hamaguri năm 1864 đã thiêu rụi 28.000 ngôi nhà trong thành phố, điều này cho thấy sự bất mãn của phiến quân đối với Mạc phủ Tokugawa. Việc di chuyển tiếp theo của Thiên hoàng đến Tokyo vào năm 1869 đã làm suy yếu nền kinh tế. Thành phố hiện đại Kyoto được hình thành vào ngày 1 tháng 4 năm 1889. Việc xây dựng kênh đào hồ Biwa vào năm 1890 là một biện pháp để hồi sinh thành phố. Dân số của thành phố vượt quá một triệu vào năm 1932.
Hoa Kỳ cân nhắc khi nhắm mục tiêu thả bom nguyên tử vào cuối Thế chiến II vào Kyoto bởi vì nó là một trung tâm trí tuệ của Nhật Bản, nó có một dân số đủ lớn để có thể thuyết phục Thiên hoàng đầu hàng. Cuối cùng, Henry L. Stimson, Bộ trưởng Chiến tranh ở chính quyền Roosevelt và Truman khẳng định thành phố đã bị xóa khỏi danh sách các mục tiêu và được thay thế bởi Nagasaki. Thành phố cũng không bị ném bom trong các lần khác mặc dù các cuộc không kích quy mô nhỏ đã gây thương vong.
Do đó, Thành phố Hoàng gia của Kyoto là một trong số ít các thành phố của Nhật Bản vẫn còn rất nhiều tòa nhà trước chiến tranh, như nhà phố truyền thống được gọi là machiya. Tuy nhiên, việc hiện đại hóa đang tiếp tục phá vỡ truyền thống Kyoto để xây các kiến trúc mới hơn, chẳng hạn như khu phức hợp ga Kyōto.
Kyoto trở thành đô thị cấp quốc gia bởi sắc lệnh của chính phủ vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Năm 1997, Kyoto đã tổ chức hội nghị về phát thải khí nhà kính.
Địa lý
Kyoto nằm trong một thung lũng, một phần của lưu vực Yamashiro (hay Kyoto), ở phía đông của khu vực miền núi được gọi là vùng cao nguyên Tamba. Lưu vực Yamashiro bao quanh ba mặt bởi các núi là Higashiyama, Kitayama và Nishiyama với độ cao chỉ hơn 1000 mét trên mực nước biển. Các ngọn núi này đã mang đến mùa Hè nóng và mùa Đông lạnh. Có ba con sông trong lưu vực: Ujigawa ở phía nam, Katsuragawa ở phía tây và Kamogawa ở phía đông. Thành phố Kyoto chiếm 17,9% đất đai trong tỉnh với diện tích 827,9 km².
Thành phố ban đầu được bố trí theo phong thủy truyền thống của Trung Quốc theo mô hình của thủ đô Trường An cổ đại của Trung Quốc. Cung điện hoàng gia nhìn về phía Nam, do đó Ukyō (phần bên phải của kinh đô) nằm ở phía Tây trong lúc Sakyō (phần bên trái) nằm ở phía Đông. Các phố ở các phường ngày nay Nakagyō, Shimogyō và Kamigyō vẫn theo kiểu bố trí này.
Ngày nay, quận kinh doanh chính nằm ở phía Nam của Cung điện hoàng gia cổ, với khu vực phía Bắc thưa dân hơn và vẫn còn nhiều mảng xanh. Các khu vực xung quanh không tuân theo kiểu bố trí như trung tâm thành phố. Kyoto được bao bọc ba bên xung quanh bởi các núi Higashiyama, Kitayama và Nishiyama, với độ cao chỉ khoảng 1000 m dưới mực nước biển.
Kyoto nằm trên những giếng nước ngọt lớn. Do quá trình đô thị hóa quy mô lớn, lượng mưa chảy vào tầng nước ngầm đang cạn dần và các giếng trên toàn khu vực đang khô với tốc độ ngày càng tăng.
Nhân khẩu học
Trong lịch sử, Kyoto là thành phố lớn nhất ở Nhật Bản, sau đó bị Osaka và Edo (Tokyo) vượt qua vào cuối thế kỷ 16. Năm 1947, thành phố đứng vị trí thứ 3. Đến năm 1960, nó đã giảm xuống hạng 5 và đến năm 1990, nó đã giảm xuống hạng 7 và năm 2015 là hạng 9.
Khí hậu
Kyoto có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) với sự thay đổi rõ rệt theo mùa về nhiệt độ và lượng mưa. Mùa hè nóng và ẩm, nhưng mùa đông tương đối lạnh với tuyết rơi thỉnh thoảng. Mùa mưa ở Kyoto bắt đầu vào khoảng giữa tháng 6 và kéo dài đến cuối tháng 7, mang lại một nửa cuối mùa hè nóng và nắng. Kyoto cùng với hầu hết các thành phố ven bờ biển Thái Bình Dương và các khu vực trung tâm của Nhật Bản dễ bị bão trong tháng 9 và tháng 10.
Chính trị và chính phủ
Thị trưởng được bầu trực tiếp tại Kyoto năm 2013 là Daisaku Kadokawa, một đảng độc lập được hỗ trợ bởi Đảng Dân chủ Nhật Bản, Đảng Dân chủ Tự do, Đảng Komeito mới, Đảng của bạn và Đảng Dân chủ Xã hội. Hội đồng thành phố lập pháp có 69 thành viên được bầu.
Hội đồng thành phố Kyoto
Bầu cử
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2008
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2012
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2016 (:ja:2016年京都市長選挙)
Khu
Kyoto có 7 .
Chúng cùng nhau tạo nên thành phố Kyoto. Giống như các thành phố khác ở Nhật Bản, Kyoto có một thị trưởng duy nhất và một hội đồng thành phố.
Văn hóa
Mặc dù bị tàn phá bởi chiến tranh, hỏa hoạn và động đất trong suốt 11 thế kỷ là thủ đô nhưng Kyoto vẫn không bị tàn phá bởi bom lửa trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó đã bị xóa khỏi danh sách mục tiêu bom nguyên tử bởi sự can thiệp cá nhân của Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson vì ông muốn cứu trung tâm văn hóa này, nơi ông biết từ tuần trăng mật và các chuyến thăm ngoại giao trước đó. Kyoto đã và vẫn là trung tâm văn hóa của Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang chuyển Cơ quan các vấn đề văn hóa đến Kyoto vào năm 2021.
Với 2000 ngôi đền đạo Phật và 400 đền Thần đạo, cũng như các cung điện, vườn thượng uyển và các công trình kiến trúc còn nguyên vẹn, Kyoto là một trong những thành phố được bảo tồn tốt nhất của Nhật Bản. Trong số các ngôi đền nổi tiếng của Kyoto phải kể đến Kiyomizu-dera, một ngôi đền bằng gỗ nằm trên loạt móng cọc gỗ cắm trên sườn núi dốc; Kinkaku-ji, ngôi đền được dát vàng; Ginkaku-ji, ngôi đền được dát bạc; Ryōan-ji, nổi tiếng về khu vườn đá. Đền Heian Jingū là một đền Shinto đánh dấu thời kỳ hoàng gia (xây dựng năm 1895) và kỷ niệm vị Thiên hoàng đầu tiên và cuối cùng đóng đô tại Kyoto. Có 3 địa điểm đặc biệt liên quan đến Hoàng gia ở Kyoto, đó là Cung điện Hoàng gia Kyoto, nơi ở của các vị Thiên hoàng Nhật trong nhiều thế kỷ; biệt thự Hoàng gia Katsura, một trong những công trình kiến trúc cầu kỳ nhất nước Nhật; và biệt thự Hoàng gia Shugaku-in, một trong những khu vườn Nhật đẹp nhất. Ngoài ra, đền thờ Sennyu-ji còn có lăng mộ của các Thiên hoàng từ Shijō đến Kōmei.
Các địa điểm đáng chú ý khác ở quanh Kyoto gồm có Arashiyama và khu hồ đẹp như tranh vẽ, khu Gion và Pontochō nơi hoạt động của các Geisha, đường đi dạo Philosopher, và các kênh đào chạy dọc theo các con phố cổ.
Các công trình lịch sử của cố đô Kyoto được UNESCO liệt kê trong thành các Di sản Thế giới. Chúng gồm các ngôi đền Kamo (Kami và Shimo), Kinkakuji, Kyō-ō-Gokokuji (Tō-ji), Kiyomizu-dera, Daigo-ji, Ninna-ji, Saihō-ji (Kokedera), Tenryū-ji, Rokuon-ji (Kinkaku-ji), Jishō-ji (Ginkaku-ji), Ryōan-ji, Hongan-ji, Kōzan-ji và lâu đài Nijo, chủ yếu được xây dựng bởi các tướng quan thời. Các công trình khác nằm bên ngoài thành phố cũng được liệt kê trong danh sách.
Kyoto cũng nổi tiếng về các món ăn truyền thống và cách nấu nướng phong phú. Các nghi lễ đặc biệt của Kyoto như một thành phố xa biển và là nơi có nhiều đền thờ Phật tạo ra sự phát triển của các loại rau quả khác nhau rất đặc biệt của vùng Kyoto (京野菜 kyōyasai).
Ngành công nghiệp truyền hình và điện ảnh của Nhật cũng có trung tâm ở Kyoto. Rất nhiều jidaigeki, phim hành động samurai được quay tại Toei Uzumasa Eigamura. Một bộ phim và công viên chủ đề, Eigamura có các bản sao của các tòa nhà truyền thống của Nhật Bản, được sử dụng cho jidaigeki. Trong số các bộ có một bản sao của Nihonbashi cũ (cây cầu ở lối vào Edo), một tòa án truyền thống, một bốt cảnh sát thời Minh Trị và một phần của khu đèn đỏ Yoshiwara cũ. Việc quay phim thực tế thỉnh thoảng diễn ra và du khách được chào đón để quan sát.
Phương ngữ được nói ở Kyoto được gọi là Kyō-kotoba hoặc Kyōto-ben, một phương ngữ cấu thành của phương ngữ Kansai. Khi Kyoto là thủ đô của Nhật Bản, phương ngữ Kyoto là tiêu chuẩn thực của Nhật Bản và ảnh hưởng đến sự phát triển của phương ngữ Tokyo, tiêu chuẩn Nhật Bản hiện đại. Courtesans thực hiện nhiệm vụ tại Tokyo được gọi là "Edokko" (bourgois). Thành ngữ nổi tiếng ở Kyoto là một copula dosu lịch sự, một động từ kết thúc lịch sự -haru, một cụm từ chào mừng okoshi-yasu "xin chào", v.v.
Kinh tế
Ngành du lịch là cơ sở chính của kinh tế Kyoto. Du khách đến tham quan cảnh đẹp và di sản văn hóa của Kyoto. Tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ. Thành phố Kyoto là trung tâm sản xuất áo kimono. Công nghiệp nặng chủ yếu là sản xuất hàng điện tử, đây là nơi đóng trụ sở của các hãng Nintendo, OMRON, Kyocera, và Murata Machinery. Hãng Wacoal lớn cũng hoạt động ở đây. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của ngành công nghệ cao cũng không kịp nhịp suy giảm của công nghiệp truyền thống. Sản lượng công nghiệp của Kyoto đã giảm sút khá nhiều và giảm sút so với các thành phố Nhật Bản.
Đại học cao đẳng
Có 37 viện và trường đại học ở Kyoto. Kyoto là một trong những trung tâm học thuật của Nhật Bản. 3 trường đại học nổi tiếng lớn nhất là Đại học Doshisha, Đại học Kyoto và Đại học Ritsumeikan. Trong số đó, Đại học Kyoto được xem là một trong những đại học hàng đầu Nhật Bản với nhiều người đoạt giải Nobel như Yukawa Hideki và Yamanaka Shinya.
Kyoto có một mạng lưới giáo dục bậc cao duy nhất, đó là Liên hiệp các trường đại học của Kyoto, bao gồm 3 trường đại học quốc gia, 5 trường thuộc tỉnh và thành phố, và 41 trường tư thục, cùng với 4 tổ chức khác của thành phố. Liên hiệp không cấp bằng mà cung cấp các khóa học từng phần của bằng cấp tại các trường thành viên.
Giao thông
Nhà ga Kyoto là đầu mối giao thông của thành phố. Là nhà ga lớn thứ nhì của Nhật, cao 15 tầng, nó bao gồm một trung tâm mua sắm lớn, khách sạn, rạp chiếu phim và siêu thị Isetan. Tuyến đường tàu cao tốc Tōkaidō Shinkansen (xem bên dưới) cũng như tất cả các tuyến đường tàu địa phương đều được kết nối tại đây.
Hệ thống tàu điện ngầm và mạng lưới xe buýt thành phố của Kyoto có phạm vi rất rộng. Các tuyến đường tàu tư nhân cũng hoạt động trong phạm vi thành phố. Khách du lịch cũng thường xuyên tham gia giao thông trên các tuyến xe buýt công cộng, xe buýt du lịch hoặc đi taxi. Xe buýt vận hành trên tất cả các tuyến đường trong thành phố, đặc biệt tại các nơi không có tàu điện. Xe buýt ở Kyoto có thông báo bằng tiếng Anh đi kèm với bảng điện tử báo hiệu điểm dừng tại các bến đỗ có ghi tên dùng ký tự La tinh.
Hầu hết các xe buýt trong thành phố đều có mức giá cố định: 230 yên/người lớn và 120 yên/trẻ em 6-12 tuổi. Bên cạnh đó còn có vé đi không giới hạn 1 ngày trong thành phố (500 yên/người lớn và 250 yên/trẻ em) hay vé kết hợp giữa tàu và xe buýt (1200 yên/người lớn và 600 yên/trẻ em). Hình thức vé này đặc biệt tiện dụng cho việc đi tham quan nhiều địa điểm khác nhau trong 1 ngày của du khách. Trung tâm thông tin xe buýt ở ngay bên ngoài nhà ga trung tâm phụ trách việc bán vé. Công ty vận tải của thành phố cũng phân phát các tờ rơi rất hữu ích, gọi là "Bus Navi". Tờ rơi này bao gồm bản đồ các tuyến đường đi của xe buýt tới hầu hết các địa điểm du lịch cùng với giá vé. Khách du lịch có thể dễ dàng lấy tờ rơi này tại các trung tâm cung cấp thông tin cho khách hàng ở trước cửa các nhà ga chính.
Tuyến tàu điện cao tốc Tōkaidō Shinkansen phục vụ vận chuyển hành khách giữa Kyoto với Nagoya và Tokyo (theo một hướng) và vùng Osaka cũng như các địa điểm khác ở phía tây (theo hướng ngược lại). Tàu Tōkaidō Shinkansen đi từ nhà ga trung tâm Kyoto đến nhà ga trung tâm Tokyo mất khoảng 140 phút. Một đường khác dẫn đến Kyoto là qua sân bay quốc tế Kansai. Tuyến tàu nhanh Haruka Express đưa hành khách từ sân bay tới nhà ga Kyoto trong vòng 72 phút. Ngoài ra cũng có các tuyến tàu khác như JR, Keihan, Hankyu hay Kintetsu và các tuyến khác dẫn đến Kyoto cũng như các thành phố lân cận trong vùng Kansai.
Ngoài ra, đi xe đạp cũng là một cách đi lại phổ biến trong thành phố, thậm chí nó còn như một văn hóa đi xe đạp của cố đô Kyoto. Địa hình và phạm vi của thành phố cũng phù hợp cho việc đi lại bằng xe đạp.
Du lịch
Kyoto chứa khoảng 2.000 ngôi đền và đền thờ.
Di sản thế giới UNESCO
Khoảng 20% Kho báu Quốc gia Nhật Bản và 14% Tài sản Văn hóa Quan trọng tồn tại trong thành phố. Di sản thế giới được UNESCO công nhận là Di tích lịch sử của thành phố cổ Kyoto (thành phố Kyoto, Uji và Otsu) bao gồm 17 địa điểm ở Kyoto, Uji ở tỉnh Kyoto và Ōtsu ở tỉnh Shiga. Địa điểm được chỉ định là Di sản Thế giới năm 1994.
Bảo tàng
Umekoji Steam Locomotive Museum
()
Kitamura Museum ()
The ()
()
Kyoto Municipal Museum of Art
Kyoto City Archaeological Museum ()
Kyoto Art Center
The Kyoto International Manga Museum
The National Museum of Modern Art, Kyoto
The Kyoto National Museum ()
The Kyoto University Museum ()
()
The Museum of Kyoto ()
The Kyoto Botanical Garden ()
()
()
Koryo Museum of Art ()
()
Ryozen Museum of History ()
Sen-oku Hakuko Kan ()
Toei Kyoto Studio Park ()
Nomura Art Museum ()
()
The Yurinkan Museum ()
The ()
The Hosomi Museum ()
Hakusasonso Hashimoto Kansetsu Garden and Museum ()
The Raku Museum ()
Kyoto Museum for World Peace of Ritsumeikan University ()
Ōkōchi Sansō ()
The Kyoto Kaleidoscope Museum ()
Shigureden
Kyoto Railway Museum
Lễ hội
Kyoto nổi tiếng với các lễ hội truyền thống đã được tổ chức trong hơn 1000 năm và là một điểm thu hút khách du lịch lớn. Đầu tiên là Aoi Matsuri vào ngày 15 tháng 5. Hai tháng sau (từ 1 đến 31 tháng 7) là Gion Matsuri được biết đến là một trong 3 lễ hội lớn của Nhật Bản, đỉnh cao là một cuộc diễu hành lớn vào ngày 17 tháng 7. Kyoto đánh dấu Lễ hội Bon với Gozan no Okuribi bằng việc thắp sáng ngọn lửa trên núi để hướng dẫn các linh hồn về nhà (ngày 16 tháng 8). Ngày 22 tháng 10, Jidai Matsuri, Lễ hội thời đại, kỷ niệm quá khứ lừng lẫy của Kyoto.
Quan hệ quốc tế
Kyoto từng là thành phố thủ đô của Nhật Bản, nơi học tập và văn hóa, có mối quan hệ lâu dài với các thành phố lớn khác trên thế giới. Nhiều học giả, nghệ sĩ và nhà văn nước ngoài đã ở lại Kyoto trong nhiều thế kỷ.
Thành phố kết nghĩa
Thành phố Kyoto có mối quan hệ với các thành phố sau đây:
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ (1959)
Cologne, North Rhine-Westphalia, Đức (1963)
Prague, Cộng hòa Séc (1996)
Florence, Toscana, Ý (1965)
Kiev, Ukraine (1971)
Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc (1974)
Guadalajara, Jalisco, México (1980)
Zagreb, Croatia (1981)
Partner cities
Ngoài các thành phố kết nghĩa hợp tác nhiều mặt, Kyoto đã tạo ra một hệ thống "thành phố đối tác" tập trung vào hợp tác dựa trên một chủ đề cụ thể. Hiện tại, Kyoto đã sắp xếp thành phố đối tác với các thành phố sau đây:
Jinju, Tỉnh Nam Gyeongsang, Hàn Quốc (1999)
Konya, Thổ Nhĩ Kỳ (2009)
Paris, Pháp (1958)
Thanh Đảo, Sơn Đông, Trung Quốc (2012)
Huế, Việt Nam (2013)
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ (2013)
Varanasi, Uttar Pradesh, Ấn Độ (2014)
Viên Chăng, Lào (2015)
Thể thao
Trong môn bóng đá, Kyoto có đại diện là Kyoto Purple Sanga who rose to J. League's Division 1 in 2005. With the popularity of the nearby Hanshin Tigers, Kyoto chưa từng có đội bóng nào tham dự giải Bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản, though the Tigers play several neutral-site games at Kyoto's Nishi Kyogoku stadium every year.
Bên cạnh đó, các đội bóng chày của các trường trung học ở Kyoto cũng khá mạnh, cùng với Heian và Toba tạo nên đội quân hùng mạnh tại giải thi đấu hàng năm được tổ chức tại sân vận động Koshien, Nishinomiya gần Osaka.
Xem thêm
Di sản văn hóa cổ đô Kyoto
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Fiévé, Nicolas (ed.) (2008) Atlas historique de Kyôto. Analyse spatiale des systèmes de mémoire d’une ville, de son architecture et de ses paysages urbains. Foreword Kôichirô Matsuura, Preface Jacques Gernet, Paris, Éditions de l’UNESCO / Éditions de l’Amateur, 528 pages, 207 maps et 210 ill. .
Fiévé, Nicolas and Waley, Paul. (2003). Japanese Capitals in Historical Perspective: Place, Power and Memory in Kyoto, Edo and Tokyo. London: Routledge. 417 pages + 75 ill.
Lone, John. (2000). Old Kyoto: A Short Social History. Oxford: Oxford University Press. .
Ponsonby-Fane, Richard A. B. (1956). Kyoto: The Old Capital of Japan, 794–1869. Kyoto: The Ponsonby Memorial Society.
Ropke, Ian Martin. Historical Dictionary of Osaka and Kyoto. 273pp Scarecrow Press (ngày 22 tháng 7 năm 1999) .
Stewart, Harold. (1981). By the Old Walls of Kyoto: A Year's Cycle of Landscape Poems with Prose Commentaries. New York: Weatherhill. .
Titsingh, Isaac. (1834). [Siyun-sai Rin-siyo/Hayashi Gahō, 1652], Nihon Ōdai Ichiran; ou, Annales des empereurs du Japon. Paris: Oriental Translation Fund of Great Britain and Ireland. link for digitized, full-text copy of this book (bằng tiếng Pháp)
Wyden, Peter. (1984). Day One: Before Hiroshima and After. Simon & Schuster, Inc. .
Liên kết ngoài
Kyoto Travel Guide — City of Kyoto and Kyoto Tourism Council
Kyoto City Local Government
Kyoto Guide including map with 300+ points of interest
Photos of Kyoto, mostly temples and shrines
Kyoto Prefectural Domoto-Insho Museum of Fine Arts at Google Cultural Institute
Thành phố phủ Kyōto
Thánh địa Phật giáo
Địa điểm hành hương Phật giáo
|
25092
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AAn%20g%E1%BB%8Di%20Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn
|
Tên gọi Triều Tiên
|
Hiện nay có nhiều tên gọi được sử dụng để chỉ Triều Tiên. Trong tiếng Triều Tiên, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (tức Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) dùng tên Chosŏn/Joseon (조선, 朝鮮, Triều Tiên), trong khi Đại Hàn Dân Quốc (tức Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) dùng tên Hanguk (한국, 韓國, Hàn Quốc). Trong giao dịch quốc tế, cả hai bên đều dùng tên tiếng Anh là Korea. Bài này giải thích lịch sử và quá trình sử dụng của những tên này.
Lịch sử
Xem thêm: Lịch sử Triều Tiên
Sử sách lâu đời nhất của Triều Tiên được viết bằng chữ Hán mà người Triều Tiên gọi là hanja, tuy hai ngôn ngữ này không cùng hệ ngôn ngữ. Ngay sau khi Hangul được sáng chế, người Triều Tiên vẫn dùng chữ hanja để viết sử sách, tương tự như chữ nho trong tiếng Việt. Hơn thế nữa, cách đọc của mỗi Hán tự của hai ngôn ngữ có nhiều điểm khác nhau, và thay đổi theo thời gian.
Vì những lý do trên, cùng với sử sách nhiều khi đối nghịch nhau, việc định rõ nghĩa gốc và cách đọc những tên cổ đại vẫn còn khó khăn.
Lịch sử cổ đại
Cổ Triều Tiên
Từ khoảng Công nguyên trở về trước bắc phần Triều Tiên và một phần Mãn Châu thuộc nước Cổ Triều Tiên (古朝鮮, 조선, Gojoseon). Chữ "Cổ" (古, Go), được dùng để phân biệt với các triều đại sau này.
Các nhà cổ học cho rằng âm Triều Tiên có lẽ thời trước đọc là "Jyusin". Sử Trung Hoa ghi lại bằng ba cách:
肅愼 (숙신, suksin) âm Hán Việt: Túc Thận)
稷愼 (직신, jiksin): Tắc Thận
息愼 (식신, siksin): Tức Thận").
Có thuyết thì cho rằng ba âm trên đúng ra là tên gọi tổ tiên giống dân Nữ Chân (여진, 女眞).
Còn về địa danh 朝鮮: Triều Tiên (có nghĩa Hán là buổi sáng tươi đẹp) thì gốc của nó là dịch nghĩa Asadal (아사달) vốn là kinh đô xứ Cổ Triều Tiên. Trong tiếng Hàn asa có nghĩa là buổi sáng, còn tar có nghĩa là đất hay núi.
Hàn
Cũng vào thời điểm này, một số bộ lạc ở miền Nam Triều Tiên hợp thành liên minh, gọi chung là "Tam Hàn" (三韓, 삼한, Samhan). Hàn là một từ gốc Triều Tiên có nghĩa là "lãnh tụ" hay "vĩ đại" như trong maripgan ("vua", nghĩa cổ), halabeoji ("ông"), và có thể là hana ("một") và haneul ("bầu trời").
Hàn được viết trong sử sách Trung Hoa là 韓 (한, han, hàn), 幹 (간, gan, cán), 刊 (간, gan, khan), 干 (간, gan, can) hay 漢 (한, han, hán), nhưng không có liên hệ đến người Trung Quốc, cũng gọi là người Hán.
Cao Câu Ly
Vào khoảng đầu Công nguyên, các phần tản mát của Cổ Triều Tiên bị sụp đổ được thống nhất lại và được mở rộng bởi vương quốc Cao Câu Ly (Koguryo). Tên này cũng là một tên gốc Triều Tiên, chắc được đọc như "Guri". Trong chữ Hán, nó được viết là: 高駒麗 (고구려, goguryeo hay koguryo), 高麗 (고려, goryeo, hay "Cao Ly"), 高離 (고리, gori, hay "Cao Ly") hay 句麗 (구려, guryeo, hay "Cú Ly"). Trong 高駒麗, chữ 高 (cao) là một tính từ, không phải là một phần của tên. Chữ 麗 (ly) đôi khi được đọc là "ri".
Tên gốc trong tiếng Triều Tiên được nhiều người tin là Guru (구루, "tường thành") hay Gauri (가우리, "trung tâm").
Giả thuyết rằng Triều đại sáng lập ra nước Cao Câu Ly là họ Cao (Ko hay Go) đã không được tin nữa (Triều đại đặt tên theo tên quốc gia).
Cao Ly, Triều Tiên và Đại Hàn
Tại miền Nam, các liên minh Hàn đã hợp vào trong các vương quốc Bách Tế (百濟, 백제, Baekje), Tân La (新羅, 신라, Silla), cùng với Cao Cú Ly tạo thành Tam Quốc. Năm 668, Tân La hợp nhất ba vương quốc lại, và năm 935 Tân La thống nhất bị lật đổ.
Vương quốc mới này lấy tên là Cao Ly (고려; 高麗, Goryeo). Qua Con đường tơ lụa, Tân La và Cao Ly được Ấn Độ và Trung Đông biết đến. Cao Ly được phiên âm theo tiếng Ý là "Cauli", tên mà Marco Polo sử dụng trong quyển sách của ông. Từ chữ "Cauli", tiếng Anh phiên âm là "Corea", và nay thành "Korea" (xem Tên gọi trong các ngôn ngữ châu Âu dưới đây).
Năm 1392, Lý Thành Quế đổi tên đất nước thành "Triều Tiên". Năm 1897, quốc gia lại đổi tên, dùng tên gọi Hàn: Đại Hàn Đế quốc (대한제국, 大韓帝國, Daehan Jeguk).
Thế kỷ 20
Khi Triều Tiên rơi vào tay Nhật Bản năm 1910, tên này lại đổi thành Joseon (Triều Tiên, chính thức theo tiếng Nhật đọc là Chosen). Trong thời kỳ này có nhiều nhóm khác nhau ở bên ngoài Triều Tiên đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc này, trong đó có Daehan Minguk Imsi Jeongbu (대한민국 임시정부, 大韓民國 臨時政府, nghĩa là "Đại Hàn Dân Quốc lâm thời chính phủ"; tiếng Anh dịch là Provisional Government of the Republic of Korea).
Triều Tiên trở nên độc lập sau khi Nhật Bản bại trận năm 1945. Đất nước Triều Tiên khi đó bị chia đôi, miền Bắc do Liên Xô chiếm đóng và miền Nam do Mỹ chiếm đóng.
Miền Nam năm 1948 đã lấy tên chính phủ lâm thời đã chọn là Daehan Minguk (대한민국, 大韓民國, tức "Đại Hàn Dân quốc"; tiếng Anh dịch là Republic of Korea) để tự đặt cho mình. Trong khi đó miền Bắc trở thành Chosŏn Minjujuŭi Inmin Konghwaguk (조선 민주주의 인민공화국, 朝鮮民主主義人民共和國, tức "Triều Tiên Dân chủ chủ nghĩa Nhân dân Cộng hòa quốc"; hay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tiếng Anh dịch là Democratic People's Republic of Korea).
Cách dùng hiện nay
Ngày nay, người CHDCND Triều Tiên dùng tên gọi Chosŏn (Triều Tiên) để chỉ toàn bộ hai miền và gọi từng nước (miền) là Bukchosŏn (북조선, 北朝鮮; "Bắc Triều Tiên") và Namjosŏn (남조선, 南朝鮮; "Nam Triều Tiên"). Người Hàn Quốc lại dùng các từ tương ứng là Hanguk (Hàn Quốc), và Bukhan (북한, 北韓; "Bắc Hàn" nghĩa là Triều Tiên).
Tiếng Triều Tiên được gọi là Chosŏnŏ hay Chosŏnmal (Triều Tiên ngữ) ở miền Bắc và Hangugeo hay Hangungmal (Hàn Quốc ngữ) ở miền Nam. Chosŏn'gŭl (chữ Triều Tiên) là tên gọi được dùng ở miền Bắc trong khi ở miền Nam nó được gọi là Hangul (chữ Hàn). Tương tự như vậy, bán đảo Triều Tiên được gọi là Chosŏn Pando (Triều Tiên bán đảo) ở miền Bắc và Hanbando (Hàn bán đảo) ở miền Nam. Các bản đồ chính thức ở cả hai miền đều không vẽ Giới tuyến phi quân sự phân chia hai nước, tạo cảm giác về một đất nước thống nhất.
Cách gọi ở Đông Á và Việt Nam
Gần đây báo chí ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có xu hướng sử dụng tên gọi mà mỗi miền tự dùng cho mình, nghĩa là gọi Bắc Triều Tiên là Chaoxian (朝鲜 "Triều Tiên") và Nam Hàn là Hanguo (韩国 "Hàn Quốc"). Trước đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn còn dùng cách của Bắc Triều Tiên gọi Nam Triều Tiên là Nanchaoxian (南朝鲜 "Nam Triều Tiên").
Từ 1949, Quốc gia Việt Nam đã thân với chính quyền Seoul, có lập trường là chống lại phe cộng sản.
Từ 1954 đến 1976, Bắc Việt Nam gọi hai nước Triều Tiên là Bắc Triều Tiên (hay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) và Nam Triều Tiên (hay Cộng hòa Triều Tiên), trong khi Nam Việt Nam gọi hai nước Triều Tiên là Bắc Hàn và Nam Hàn (hay Đại Hàn). Sau khi 2 nước Việt Nam tái thống nhất năm 1976, một cách gọi của miền Bắc Việt Nam được áp dụng trong toàn quốc cho tới khoảng giữa những năm 1990. Sau khi Hàn Quốc lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (năm 1993), báo chí Việt Nam bắt đầu gọi họ là Cộng hòa Triều Tiên (dịch từ "Republic of Korea"). Hàn Quốc chính thức đề nghị Việt Nam dùng quốc hiệu chính xác của họ là Đại Hàn Dân Quốc, hay gọi tắt là Hàn Quốc. Từ đó tên gọi Hàn Quốc trở thành phổ biến trong tiếng Việt.
Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) thì gọi Bắc Triều Tiên là Beihan (北韓 "Bắc Hàn") và Nam Triều Tiên là Nanhan (南韓 "Nam Hàn"). Tương tự như vậy, dân chúng ở vùng lãnh thổ Hồng Kông (Trung Quốc) và vùng lãnh thổ Macau (Trung Quốc) gọi Bắc Triều Tiên là Bak Hon (北韓 "Bắc Hàn") và Nam Triều Tiên là Nam Hon (南韓 "Nam Hàn").
Ở Nhật Bản, các tên gọi được dùng theo cách mà mỗi miền Triều Tiên vẫn dùng, theo đó thì Bắc Triều Tiên được gọi là Kita-Chosen (北朝鮮; "Bắc Triều Tiên") và Nam Triều Tiên là Kankoku (韓国 "Hàn Quốc"). Tiếng Triều Tiên ở Nhật Bản thường được gọi là Kankokugo (韓国語). Tuy nhiên khi Đài truyền hình NHK phát chương trình dạy tiếng Triều Tiên thì ngôn ngữ này được gọi là Hangulgo (ハングル語), có nghĩa là ngôn ngữ của hệ chữ viết Hangul. Cách gọi này không được dùng trong tiếng Nhật Bản thông thường, mà chỉ cách gọi thỏa hiệp cốt làm vừa lòng cả hai miền Triều Tiên theo kiểu uyển ngữ có tên là kotobagari.
Tên gọi trong các ngôn ngữ châu Âu
Cả miền Bắc và miền Nam Triều Tiên đều dùng tên "Korea" (hoặc tương đương) khi gọi nước mình trong tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ châu Âu khác. Công dân Nga và Trung Á gốc Triều Tiên tự gọi mình là "người Goryeo (Cao Ly)" để tránh 1 xung đột Bắc-Nam mà hòa hợp hòa giải.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Evidence debunking Korea/Corea modification hypothesis (bài sơ thảo)
Lịch sử Triều Tiên
Văn hóa Triều Tiên
|
25097
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Linh%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Chùa Linh Phước
|
Chùa Linh Phước (chữ Hán: 靈福寺) tọa lạc tại số 120 Tự Phước, thuộc địa bàn Trại Mát, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 8 km, trên quốc lộ 20. Chùa còn được gọi là Chùa Ve Chai vì trong sân chùa có con rồng dài 49 m được làm bằng 12.000 vỏ chai lọ. Chùa Linh Phước là một công trình kiến trúc khảm sành đặc sắc của thành phố Đà Lạt.
Lịch sử
Chùa được khởi công xây dựng vào năm 1949, hoàn thành năm 1950. Năm 1990 thượng tọa Thích Tâm Vị cho trùng tu lại chùa và xây dựng thêm nhiều công trình mới.
Chùa Linh Phước trải qua 5 đời trụ trì:
Hòa thượng Thích Minh Thể (1951–1954)
Hòa thượng Thích An Hòa (1954–1956)
Hòa thượng Thích Quảng Phát (1956–1959)
Hòa thượng Thích Minh Đức (1959–1985)
Thượng tọa Thích Tâm Vị (từ 1985 đến nay)
Kiến trúc
Chánh điện dài 33 m, rộng 12 m có 2 hàng cột rồng khảm sành, bên trên là nhiều bức phù điêu khảm sành giới thiệu về lịch sử Phật Thích Ca và những điển tích trong các kinh Pháp hoa, kinh A di đà.
Sân chùa (Hoa Long Viên) có con rồng dài 49 m, vây rồng được làm bằng 12.000 vỏ chai bia, miệng rồng che phủ tượng Phật Di Lặc. Trước Hoa Long Viên là tòa Linh Tháp 7 tầng cao hơn 37 m, được coi là tháp chuông chùa cao nhất Việt Nam. Trong lòng tháp treo Đại Hồng Chung cao 4,3 m, miệng chuông rộng 2,33 m, nặng 8.500 kg, được đúc vào năm 1999, trước đây được xem là chuông nặng nhất Việt Nam, hiện nay chiếc chuông nặng nhất Việt Nam thuộc về Chuông tại Bảo Tháp của Chùa Bái Đính Ninh Bình. Trước sân chùa là đài Quán Thế Âm. Ngoài ra, nơi đây còn có nhà trưng bày đá quý, sành sứ cổ và đồ gỗ mỹ nghệ.
Ảnh
Chú thích
Tham khảo
Lược sử chùa Linh Phước (do chùa tự ấn hành)
Liên kết ngoài
Thư viện Hoa Sen
Linh Phước
|
25102
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%B1a%20v%E1%BA%B1n%20%C4%91%E1%BB%93ng%20b%E1%BA%B1ng
|
Ngựa vằn đồng bằng
|
Ngựa vằn đồng bằng (Equus quagga) là dạng ngựa vằn thông thường nhất và phân bổ rộng rãi nhất, đã từng được nhìn thấy trên các đồng bằng và đồng cỏ từ miền nam Ethiopia trải dài qua miền đông châu Phi xa về phía nam tới tận Angola và đông Nam Phi. Ngựa vằn đồng bằng hiện nay về số lượng là ít hơn so với trước đây do các hoạt động của con người như săn bắn để lấy thịt và da của chúng, cũng như sự xâm lấn khu vực sinh sống của chúng, nhưng chúng vẫn còn là phổ biến trong các khu vực cấm săn bắn.
Đặc điểm
Ngựa vằn đồng bằng có kích thước trung bình, cơ thể săn chắc và các chân tương đối ngắn. Ngựa vằn trưởng thành cao khoảng 1,4 mét tính từ vai trở xuống, dài khoảng 2,3 mét, và trọng lượng khoảng 230 kg. Giống như các loài ngựa vằn khác, chúng có các vằn màu đen và trắng đậm màu và không có bất kỳ 2 cá thể nào nhìn tương tự nhau. Hiện nay, người ta công nhận chúng có ba phân loài, cộng với hai phân loài khác đã tuyệt chủng.
Tất cả đều có các vằn theo chiều đứng ở phần phía trước của cơ thể, có xu hướng trở thành nằm ngang ở phần phía sau cơ thể. Quần thể phía bắc có các vằn rõ ràng và hẹp hơn; quần thể phía nam có số lượng vằn dao động nhưng ít hơn ở các phần dưới, chân và phần sau cơ thể. Phân loài đầu tiên được miêu tả là Quagga, hiện nay đã tuyệt chủng, có phần sau cơ thể màu nâu. (Về mặt chuyên môn thì do Quagga đã được miêu tả đầu tiên là E. quagga, nên tên gọi chuẩn xác về mặt động vật học cho dạng phổ biến nhất của ngựa vằn đồng bằng là E. quagga burchelli.)
Tập tính
Ngựa vằn đồng bằng có tính sống tập thể cao và thông thường tạo ra các nhóm gia đình nhỏ bao gồm một con đực, một, hai hay vài con cái và các con non mới sinh gần thời gian đó. Các nhóm là vĩnh cửu và kích thước nhóm có xu hướng dao động theo môi trường sống: Ở những khu vực nghèo thức ăn thì các nhóm nhỏ hơn. Theo thời gian, các gia đình ngựa vằn đồng bằng nhóm lại với nhau thành các bầy đàn lớn, có thể với các nhóm khác hay với các loài ăn cỏ khác, chủ yếu là linh dương đầu bò. Chúng là con mồi ưa thích của sư tử, báo săn, linh cẩu, chó rừng và cá sấu. Tuy nhiên, những vằn sọc trên người của ngựa vằn là cách ngụy trang giữa những trảng cỏ giúp chúng thoát khỏi những thú ăn thịt. Và nếu bị dồn vào đường cùng, ngựa vằn có thể chống trả lại. Đã không ít lần những con sư tử bị ngựa vằn đá gãy chân phải bỏ chạy.
Không giống như nhiều loài động vật móng guốc lớn khác ở châu Phi, ngựa vằn đồng bằng ưa thích (nhưng không nhất thiết cần có) cỏ ngắn để gặm. Kết quả là, phạm vi phân bổ của chúng rộng hơn so với nhiều loài khác, thậm chí cả trong các khu vực đồng rừng, và thông thường chúng là loài ăn cỏ đầu tiên xuất hiện ở các khu vực mới có cỏ mọc. Chỉ sau khi chúng đã gặm và dẫm nát các loài cỏ dài thì linh dương đầu bò và linh dương Gazelle mới đến. Tuy nhiên, để bảo vệ mình khỏi các kẻ thù thì ngựa vằn đồng bằng nghỉ ngơi qua đêm ở các khu vực trống trải có thể quan sát tốt về đêm. Chúng ăn nhiều loại cỏ khác nhau, ưa thích nhất là cỏ non và tươi khi có thể, nhưng chúng cũng ăn cả lá và cành non.
Phân loài
Equus quagga quagga †
Equus quagga boehmi
Equus quagga borensis
Equus quagga burchellii
Equus quagga chapmani
Equus quagga crawshayi
Equus quagga selousi
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Q
Động vật hoang dã châu Phi
Ngựa vằn
Động vật được mô tả năm 1785
Động vật Đông Phi
Động vật có vú châu Phi
|
25103
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20H%E1%BB%AFu
|
Vũ Hữu
|
Vũ Hữu (chữ Hán: 武有, 1437–1530) là một nhà toán học người Việt, và cũng là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông còn được coi là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.
Tiểu sử, sự nghiệp
Ông người làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Năm Quang Thuận thứ 4 đời vua Lê Thánh Tông (Quý Mùi 1463), ông đỗ Hoàng giáp.
Vũ Hữu đã kinh qua các chức vụ như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ trong triều đình nhà Hậu Lê, sau được tặng phong Thái bảo. Mặc dù về hưu năm 70 tuổi, đển năm 90 tuổi (1527), ông vẫn được vua tin dùng, sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung. Khi đó ông có tước là Tùng Dương hầu.
Công trình toán học
Công trình toán học ông để lại cho hậu thế nổi bật là Lập Thành Toán Pháp (立 成 算 法). Sách này gồm cách đo ruộng, tính diện tích ruộng; hình vẽ các thửa ruộng có hình phức tạp và cách tính diện tích loại ruộng này; cách tính bằng bàn tính, bằng phép cửu chương, cửu quy; một số bài tính đố, có cho biết đáp số. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).
Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.
Vết ố
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
Năm Quang Thuận thứ 8 (năm 1467), thi khoa Hoành từ. Điểm gọi các quan vào thi, tất cả là 30 người. Bấy giờ, Khâm hình viện lang trung Vũ Hữu, Viên ngoại lang Nguyễn Đình Khoa 5 người đều cáo ốm không vào thi. Vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết họ chỉ thích hối lộ. Nhân thế, vua dụ các quan trong triều rằng:
"Việc hình án phức tạp khó khăn, có ba điều vất vả: Một là suốt ngày cặm cụi vất vả, khổ sở. Hai là xử án không đúng, chịu tội làm sai. Ba là án tụng chất đống, khó lòng xét xử tường tận. Có ba điều vất vả ấy dẫu người không bệnh cũng đến phát ốm, huống chi là có bệnh".
Đó là nói giễu Vũ Hữu.
Chú thích
Tham khảo
Trần Tri Khách, Niên biểu Phật giáo Việt Nam . Do Vũ Hữu sinh sống vào thời kỳ giữa 1000 và 1900, xem mục tương ứng tại
Nhà toán học Việt Nam
Người Hải Dương
Quan lại nhà Lê sơ
Hoàng giáp Việt Nam
Tiến sĩ nhà Hậu Lê
|
25104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng%20Th%E1%BA%BF%20Vinh
|
Lương Thế Vinh
|
Lương Thế Vinh (chữ Hán: 梁世榮; 17 tháng 8 năm 1441 – 2 tháng 10 năm 1496, tên hiệu là Thụy Hiên) là một nhà toán học, nhà thơ và học giả người Việt Nam. Sinh ra tại huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản), tỉnh Nam Định, ông đỗ trạng nguyên và làm Sái phu trong Hội Tao Đàn dưới thời vua Lê Thánh Tông. Ông nổi tiếng là thần đồng, học rộng, tài trí khoáng đạt, được vua và dân coi trọng và được mệnh danh là "Trạng Lường". Hai tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp của ông là Đại thành Toán pháp (biên soạn về toán học) và Hý phường phả lục (khảo cứu về hát chèo).
Cuộc đời
Xuất thân và những năm đầu đời
Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (tức ngày 17 tháng 8 năm 1441) tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định);cái tên tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên. Lúc còn nhỏ, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng thông minh, nhanh trí. Ông học mau thuộc, mau hiểu mà chơi cũng rất tài tình (thích thả diều, câu cá, bẫy chim cùng các bạn trẻ chăn trâu). Lớn lên, ông học ngày càng giỏi và có phương pháp, vừa học vừa lao động, vui chơi giải trí. Ông học sâu hiểu rộng, nhưng có thời gian thì vẫn thả diều thổi sáo, xem chèo thoải mái. Lúc vui chơi, ông còn nảy ra ý tưởng đo lường các đồ vật xung quanh mình, như chiều dài-chiều cao cây diều, chiều sâu ao hồ, chiều rộng sông ngòi, đo bóng cây và chiều dài của cây.
Đỗ Trạng nguyên và sự nghiệp chính trị
Năm 1463, tức năm 23 tuổi, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông; trong khi Nguyễn Đức Trinh và Quách Đình Bảo lần lượt đỗ Thám hoa và Bảng nhãn. Ông có tổng cộng 32 năm làm quan, từng được thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự (đứng đầu Viện hàn lâm). Ngoài ra, Lương Thế Vinh còn được vua tín nhiệm giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Nhiều bài biểu do ông soạn gửi cho nhà Minh được vua Minh chấp thuận và khen ngợi.
Bên cạnh công việc làm quan, Lương Thế Vinh cũng đi dạy học tại ở Quốc tử giám, Sùng văn quán và Tú lâm cục (những trường cao cấp thời bấy giờ đào tạo nhân tài cho đất nước). Một số học trò của ông đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại (người Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm 1949), Trần Bích Hoành (người Nam Định, đỗ Thám hoa năm 1847), Trần Xuân Vinh (người Nam Định, đỗ Tiến sĩ) và Lương Đắc Bằng (người Thanh Hóa, đỗ Bảng nhãn năm 1499). Cá nhân Lương Đắc Bằng về sau trở thành thầy dạy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sự nghiệp văn chương và biên soạn
Không chỉ dạy toán ở Tú lâm cục, ông còn giữ chức Cấp sự trung khoa công (chức quan chuyên khảo sát việc tạo tác các công trình như cung điện, đền đài, thành quách, đường sá, đê điều...) Vì chuyên môn cần đến toán học, ông đã tiến hành biên soạn hai cuốn sách đề tài toán học là Đại thành Toán pháp (cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên của Việt Nam) và Khải minh Toán học. Thời bấy giờ, công cụ tính toán ở Đại Việt còn thô sơ, nghèo nàn (chủ yếu là bấm đốt ngón tay hoặc dùng sợi dây có nút thắt để đếm). Do đó Lương Thế Vinh đã chế ra bàn tính gẩy - chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Lúc đầu ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, xâu vào một cái đũi, các xâu buộc cạnh nhau thành một bàn tính. Về sau ông cải tiến dần những "viên tính" bằng đất thành những đốt trúc ngắn, rồi cho những viên tính bằng gỗ sơn màu khác nhau để dễ tính, dễ nhớ.
Ngoài ra, Lương Thế Vinh còn là người am hiểu sâu sắc về hát chèo. Ông cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận đã soạn hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc dùng trong quốc lễ và triều hội. Nhờ nghiên cứu hàng trăm vở chèo, ông đã biên soạn ra cuốn Hý phường phả lục ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa và hát. Năm 1501 (tức 5 năm sau khi ông mất), bạn ông là Quách Hữu Nghiêm đã đề tựa và đưa in tác phẩm này.
Lương Thế Vinh giữ chức Sái phu (chức danh chuyên phê bình, sửa chữa thơ) trong hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông. Trong hội, ông từng nhiều lần ngâm họa với vua Lê như bài "Tướng sĩ nhớ nhà" và "Động Lục Vân". Ông cùng Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận và Đào Cử còn biên soạn nhiều bài ký, văn bia ở Văn Miếu và Chùa Một Cột.
Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc Ngữ văn (hay Phật kinh Thập giới). Đây là áng văn Nôm cổ gồm một đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: Thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn-địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bị các bạn đồng nghiệp (nhà nho) cười chê và ông không được lập đền thờ trong văn miếu Khổng Tử.
Những năm cuối đời
Vào những năm cuối đời, Lương Thế Vinh về hưu và quay lại quê nhà, nhằm có thời gian rảnh rỗi sống yên tĩnh ở quê hương và làm những việc có ích trước khi mất. Hàng ngày, ông leo núi, thả diều, đọc sách, vui chơi với các bô lão ở nông thôn. Ông thậm chí còn đi sâu nghiên cứu về đạo Phật, viết chú giải nhiều kinh Phật và đề tựa cho in nhiều tác phẩm Phật học như Nam tông tự pháp đồ và Thiền môn giáo khoa của nhà sư Thường Chiếu thời Lý. Lương Thế Vinh mất ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (tức ngày 2 tháng 10 năm 1496) tại quê nhà, thọ 55 tuổi. Sau khi mất, Lương Thế Vinh được thờ làm phúc thần. Tên ông được khắc ghi trên thơ văn, kí, bia, giáo khoa nhà chùa, văn từ giao bang... do các tác phẩm mà ông viết nặng về tính quan phương, tôn giáo. Dân làng tại xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản (quê hương ông) cũng xây dựng đền thờ nơi đây để ghi nhớ công ơn của Lương Thế Vinh.
Đời tư
Lương Thế Vinh đã kết hôn với con gái của thầy dạy học. Trong cuốn Những mối tình nổi tiếng trong truyền thuyết và lịch sử Việt Nam (2009), tác giả Hà Phạm có ghi chép mối tình của Lương Thế Vinh với một cô đào mà ông gặp năm 20 tuổi tại một gánh chèo tổ chức ở quê ông. Sau khi cô mất, "Trạng Lường" vô cùng xót thương nên làm bài văn điếu, rồi cho lập miếu thờ cho cô tại giáp Nhất của làng Cao Hương, được dân làng gọi là miếu Ả Đào còn thôn có ngôi miếu thì gọi là Đào thôn hoặc xóm Đầu. Ngoài ra, ông cũng có một mối tình ngắn ngủi với một cô gái tên Thi Liệu ở phố Hàng Đào, trong lúc ông lên kinh dự thi. Ông có một người con trai tên là Lương Trinh Túc, từng giữ chức Hiến sát sứ ở Thanh Hóa.
Đón nhận
Đương thời
Học giả đương thời là Lê Quý Đôn khen Lương Thế Vinh là "người tài hoa danh vọng bậc nhất". Trong bài văn điếu Lương Thế Vinh, vua Lê Thánh Tông đã viết: "Khuất ngón tay than tài cái thế/Lấy ai làm Trạng nước Nam ta".
Thời hiện đại
Trong cuốn Thần đồng xưa của nước ta, tác giả Quốc Chấn khen ngợi khả năng tính toán xuất chúng của Lương Thế Vinh: "Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng". Trong cuốn Những người thầy trong sử Việt, tác giả Nguyễn Huy Thắng ví Lương Thế Vinh là "người thầy khác mọi thầy", cho rằng quan điểm giáo dục của ông không giống những người bạn đồng tráng lứa. Ông chủ trương để học trò học tập chuyên tâm, song cũng khuyến khích kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Trong cuốn sách thiếu nhi Trạng nguyên Việt Nam - đạo học của người xưa, nhóm tác giả Ban Mai cho rằng Lương Thế Vinh, Mạc Đĩnh Chi và Mạc Hiển Tích là những người đặt nền móng cho nền toán học Đại Việt: "Qua những phép tính với số 0, Trạng nguyên Lương Thế Vinh khẳng định thế gian có những vật toàn mãn thực sự... Nhiều Trạng nguyên đã phát triển và bổ sung những tư tưởng toán học này tạo nên một trường phái toán học Đại Việt."
Năm 2011, nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định tại Hội thảo khoa học "Trạng nguyên Lương Thế Vinh – Thân thế và sự nghiệp": hình ảnh trạng nguyên Lương Thế Vinh còn sống mãi trong tâm thức mọi người bằng truyền thuyết và giai thoại về cuộc đời, sự nghiệp, tài đức và lòng yêu nước, yêu dân của ông. Trong cuốn Danh nhân Hà Nội (2004), tác giả kiêm nhà sử học Vũ Khiêu đã nhận định văn thơ của Lương Thế Vinh "nhìn chung thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, thương dân, căm ghét bọn quan lại tham nhũng, thích cuộc sống thanh cao, gần gũi với dân quê". Trong Việt Nam Phật giáo sử lược, học giả và nhà nghiên cứu Phật học Nguyễn Lang ghi nhận Lương Thế Vinh là tác giả Phật giáo duy nhất ở thế kỷ 15, và ca ngợi ông là "nhà trí thức cự phách nhất của thời đại Lê Thánh Tông".
Biệt danh "Trạng Lường"
Nhờ giỏi đo lường và tính toán, Lương Thế Vinh đã được mệnh danh là Trạng Lường. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tâm, nguyên giám đốc Thư viện Viện sử học Việt Nam từng lý giải về biệt danh "Trạng Lường" của ông: "Người ta gọi Lương Thế Vinh là 'Trạng Lường' vì thứ nhất, ông giỏi tính toán và đo lường, thế nên chữ 'Lường' nghĩa là đo lường. Mặt khác, chữ "Lường" có nghĩa là họ Lương, thế nên khi nhắc đến 'Trạng Lường', ai cũng nghĩ tới Lương Thế Vinh, trạng nguyên của thời Lê Thánh Tông".
Di sản và ảnh hưởng
Ngày nay, nhiều đường phố và trường học khắp Việt Nam được đặt theo tên Lương Thế Vinh. Qua nhiều triều đại phong kiến, đền thờ Lương Thế Vinh tại Vụ Bản, Nam Định (quê hương ông) được nhiều nhà khoa bảng đến thăm viếng, đề thơ ca ngợi, làm câu đối cúng, như Đỗ Quang Dần, Phạm Đạo Phú, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Khuyến; người dân Nam Định gọi nơi đây là đền "cụ Trạng". Năm 1990, đền thờ được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.
Nhân kỷ niệm 570 năm ngày sinh Lương Thế Vinh, ngày 28 tháng 8 năm 2011, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Ban liên lạc họ Lương Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học "Trạng nguyên Lương Thế Vinh – Thân thế và sự nghiệp" tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội với sự tham gia của đông đảo thành viên họ Lương và giới sử học trên khắp Việt Nam. Cuốn Đại thành Toán pháp do ông biên soạn là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở Việt Nam, được sử dụng làm sách dạy toán cho người Việt đến tận thế kỷ 19. Ngoài ra ông còn là người chế ra chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Lịch sử Việt Nam, tập 1 (1971) đã ghi nhận Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh xuất bản năm 1501 "có thể coi là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm và nêu lên những nguyên tắc có tính chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống."
Tác phẩm
Toán học
Đại thành Toán pháp
Khải minh Toán học
Lịch sử hát chèo
Hý phường phả lục
Phật học
Thập giới Cô hồn Quốc Ngữ văn (hay Phật kinh Thập giới)
Thiền môn Khoa giáo
Ghi chú
Chú thích
Tài liệu trích dẫn
Đọc thêm
Liên kết ngoài
(bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures (Helaine Selin Editor), Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833)
(phần tiếp theo bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures (Helaine Selin Editor), Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833).
.
Trạng nguyên Việt Nam
Nhà toán học Việt Nam
Quan lại nhà Lê sơ
Người Nam Định
Thần đồng
Soạn giả chèo
Người họ Lương tại Việt Nam
|
25105
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2m%20T%C3%A2m
|
Thâm Tâm
|
Thâm Tâm (1917–1950) là một nhà thơ và nhà viết kịch Việt Nam. Ông nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành, với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất cao.
Cuộc đời và sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Hà Nội. Từ năm 1938, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báo Quân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Ngoài ra, Thâm Tâm còn có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.
Thâm Tâm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Gia đình
Thâm Tâm sinh ra trong một gia đình đông anh chị em. Cụ thân sinh Nguyễn Tuấn Thịnh, làm thầy giáo nên còn gọi là cụ giáo Thịnh. Thâm Tâm có 2 chị gái, 2 em trai và 2 em gái. Em trai út tên là Nguyễn Tuấn San, bút danh Hoài Niệm, Bắc Thôn, tác giả truyện thiếu nhi "Hai làng Tà Pình và Động Hía".
Bà Phạm Thị An (1920-2005) là vợ Thâm Tâm. Thâm Tâm có một con trai duy nhất, Nguyễn Tuấn Khoa, sinh năm 1946, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Y học Bộ Y tế, tác giả truyện ngắn "Hoa Thạch Trúc báo bình yên". Con dâu là Nguyễn Ngọc Mỹ, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại ngữ, Đại học Dược Hà Nội. Hai cháu nội là Nguyễn Tuấn Huy và Nguyễn Mỹ Trang.
Tác phẩm chính
Thơ
Tống biệt hành
Ngậm ngùi cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
Chiều mưa đường số 5 (1948)
Thơ Thâm Tâm (1988)
Kịch
Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
Nga Thiên Hương
19-8
Lối sống (1945)
Lá cờ máu
Người thợ (1946)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH
Nguyễn Cẩm Xuyên;"Đã Hơn 70 Năm, T.T.Kh. Và Chuyện Tình Thơ "Hai Sắc Hoa Ti Gôn" Vẫn Tươi Nguyên Màu Bí Ẩn."
http://thamtam.net
Thâm Tâm và Huyền thoại hoa Ti-gôn tóm lược
Đã Hơn 70 Năm, T.T.Kh. Và Chuyện Tình Thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” Vẫn Tươi Nguyên Màu Bí Ẩn
Hoàn toàn không có nguồn tham khảo
Người Hải Dương
Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà thơ tiền chiến
Nhà thơ Việt Nam
Nhà viết kịch Việt Nam
Người được truy tặng Giải thưởng Nhà nước (Việt Nam)
Sinh năm 1917
Mất năm 1950
|
25107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20Thi
|
Kinh Thi
|
Kinh Thi () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (tk 11–771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (770–476 TCN), gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ ca dao, dân ca được ghi chép lại thành văn rồi thành kinh điển, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu.
Trong thời Chiến Quốc, Kinh Thi được coi là "sách giáo khoa" toàn xã hội, luôn được các học giả truyền tụng, học tập với phương châm "Không học Thi thì không biết nói" (bất học Thi, vi dĩ ngôn - Khổng Tử). Trong sự kiện đốt sách của nhà Tần, Kinh Thi bị mất mát rất nhiều, sau đó mới được sưu tầm và khôi phục qua công sức của nhiều học giả từ đời Hán trở đi. Trong số đó, bản Kinh Thi do hai thầy trò Mao Hanh, Mao Trường biên soạn là bản thông dụng nhất cho đến ngày nay. Cũng trong thời Hán, Kinh Thi trở thành một trong Ngũ kinh của Nho giáo và luôn được nhiều thế hệ nhà Nho như Trịnh Khang Thành đời Đông Hán, Khổng Dĩnh Đạt đời Đường nghiên cứu, bình giải cả về mặt kinh học và văn học. Đến đời Tống, Chu Hy chú giải lại toàn bộ Kinh Thi với chủ trương "kinh học hóa", "huyền thoại hóa" Kinh Thi nhằm phù hợp với yêu cầu huấn hỗ, giáo huấn để rồi khi Tống Nho chiếm địa vị bá chủ học thuật thì lý giải của Chu Hy về Kinh Thi cũng trở thành bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, đến đời Thanh, Thi kinh tập truyện của Chu Hy bị phản đối mạnh mẽ bởi nhiều học giả muốn nghiên cứu Kinh Thi trên tư cách một tuyển tập văn học chứ không phải một tác phẩm kinh học. Và đó cũng là ý kiến chính thống của giới Thi học hiện nay.
Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của Trung Quốc thời Chu cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú... Do đó, Kinh Thi được coi là nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Nghệ thuật của Kinh Thi cũng rất đặc sắc, nhất là phương pháp "phú", "tỉ", "hứng" và lối trùng chương điệp ngữ rất có ảnh hưởng đến đời sau.
Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. Toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc phát triển dưới sự khơi gợi của tinh hoa Kinh Thi. Bên cạnh đó, Kinh Thi còn là tài liệu giáo dục quan trọng của Nho sĩ Trung Quốc, trở thành giáo trình chính trị - luân lý cho toàn bộ Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc suốt hai nghìn năm phong kiến. Vai trò và ảnh hưởng của Kinh Thi là vô cùng to lớn, chẳng những được truyền bá trên toàn cõi Trung Quốc mà còn đến các nước lân cận, trở thành một phần của cải tinh thần của nhân loại.
Tên gọi
Kinh Thi, còn được gọi là Thi tam bách 詩三百 (Ba trăm bài thơ) hay ngắn hơn là Thi bách 詩百 (Trăm bài thơ), thông thường gọi ngắn hơn nữa là Thi 詩 (Thơ). Trong bài Tiến học giải 進學解 của Hàn Dũ đời Đường có viết Thi chính nhi ba (Kinh Thi nghiêm chỉnh mà tươi đẹp), từ đó Kinh Thi còn được gọi là Ba kinh 經葩. Ngoài ra, Kinh Thi vốn bị nhà Tần đốt mất nguyên bản Tiên Tần, đến đời nhà Hán được bốn nhà Tề, Lỗ, Hàn, Mao phục nguyên, thành ra bốn bản Tề thi 齊詩, Lỗ thi 魯詩, Hàn thi 韓詩, Mao thi 毛詩. Về sau, chỉ có bản Kinh Thi của họ Mao được lưu truyền, vì vậy Kinh Thi còn có tên là Mao thi.
Sưu tầm, biên soạn và chỉnh lý
Chế độ "thái thi"
Kinh Thi là một bộ tổng tập văn chương gồm 305 bài thơ vốn là lời bài hát có nhạc đệm, được lưu truyền trong dân gian từ đầu thời kì Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, trong khoảng thời gian 500 năm (tuy nhiên, có 5 bài thơ được đoán định sáng tác từ đời Thương). Từ lĩnh vực dân gian chuyển sang lĩnh vực thành văn, hơn nữa lại còn được xếp vào loại sách kinh điển, Kinh Thi phải trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn... mới có được bản hiện hành.
Để lý giải quá trình sưu tầm Thi, các nhà Kinh học đời Hán đưa ra thuyết Thái thi 採詩, căn cứ theo sách Lễ ký 禮記. Thiên Vương chế 王制 sách ấy chép điển lễ nhà Chu rằng "Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần. Tháng hai năm ấy đi tuần thú đến núi Đại Tông ở phía đông, thắp hương nến tế vọng núi sông. Thăm chư hầu, hỏi về các bậc cao tuổi và đến gặp. Truyền mệnh cho quan Thái sư trình thơ để xem xét nề nếp của dân chúng. Mệnh cho quan coi chợ trình giá cả để xem xét sự thích, ghét trong dân, ghi chép nết hay nết xấu phổ biến. Mệnh cho quan Điển lễ khảo sát thời tiết, tháng để định ngày trước sau. Xem xét luật lệ, chế độ, y phục, chỉnh lại cho đồng bộ".
Việc thu thập thơ ca trong dân chúng nói ở trên gọi là thái thi (hái thơ), nó đã được nhà Chu thi hành một cách nghiêm túc, có quan đặc trách theo quy chế nhà nước: Thái sư. Vị quan này lại tổ chức một mạng lưới rộng rãi sưu tầm thi ca trong dân gian, đó là các Hành nhân hay còn gọi là quan Thái thi.
Những người được chọn làm quan Thái thi ở nơi thôn dã tương đối cao tuổi. Trong sách Xuân Thu Công Dương Truyện 春秋公洋傳, Hà Hưu chú thích rằng "Đàn ông sáu mươi tuổi, đàn bà năm mươi tuổi, không có con, quan cho mặc cho ăn, sai vào dân gian tìm thơ. Ngoài ra, họ còn phải "đạt" yêu cầu khác như mù lòa và am hiểu âm nhạc, nên đôi khi được gọi là cổ, mông, tẩu 瞽矇瞍. Các Hành nhân thường đi lại trên đường, nhất là vào đầu xuân nhiều lễ hội, tay đánh mõ để sưu tầm thi ca, trình lên cho Thái sư, so sánh với các làn điệu rồi dâng lên cho vua nghe.
Thực ra, trong giới nghiên cứu Kinh Thi cũng có người không tin từ đời Chu đã có được mạng lưới sưu tầm như vậy, theo họ, đây chỉ là phỏng đoán, tưởng tượng của học giả đời Hán chứ trước Hán không thấy tư liệu nào chép việc này, nên cách nói của họ mới không nhất trí.
Các bài thi ca được sưu tầm và biên tập bởi chế độ thái thi đời nhà Chu, chính là phần lớn tư liệu biên soạn Kinh Thi sau này. Bên cạnh đó, còn có những khúc ca tế lễ ở tông miếu, nhạc yến tiệc, nhạc đi săn, nhạc xuất binh, tán tụng công đức vua chúa là âm nhạc của triều đình; nhạc của công khanh liệt sĩ, chư hầu hiến lên Thiên tử mà một số bài vẫn còn tên tác giả. Trừ mấy thiên ở Thương tụng 商頌 đề cập đến đời nhà Thương xa xưa mà nhiều khả năng do người đời sau phóng tác, hầu hết các bài thơ sưu tầm được đều ra đời trong thực tiễn lao động của dân chúng hoặc liên quan mật thiết đến các hoạt động chính trị, quân sự, tôn giáo, giải trí vui chơi của xã hội đương thời.
Những bài trong Kinh Thi không phải ngay từ đầu đã là bài hát theo nhạc; có một số vốn là thơ, khi phổ nhạc, không tránh khỏi sự thêm bớt của nhạc quan. Nhiều bài có những câu xuất xứ từ những khu vực khác nhau, nên chưa hẳn là ngôn ngữ của nguyên tác. Có những bài có đoạn không ăn khớp, không dính liền với những đoạn khác, cũng có thể thấy dấu vết của sự thêm bớt, chắp nối. Ngoài ra, còn có những chỗ thay đổi có tính chất nhuận sắc, như sửa vần, sửa câu, cũng như thay tiếng địa phương bằng lời tao nhã.
Về không gian sưu tầm dân ca, căn cứ theo Thập ngũ Quốc phong trong Kinh Thi, thì các vùng sưu tầm được Thi ngày nay đại để tương ứng với mấy tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hồ Bắc trên diện tích 1020000 km². Điều này cho thấy sự nghiêm túc của Hành nhân trong việc sưu tầm, để tạo nên thành quả là khối lượng thơ đồ sộ trên một địa bàn rộng lớn như vậy.
Theo sử gia Tư Mã Thiên, số thơ sưu tầm được ở đời Chu vốn có 3000 bài, phần nhiều trùng điệp, sau Khổng Tử san định, chỉ lấy 305 bài.
Khổng Tử san định
Thiên Khổng Tử thế gia 孔子世家 trong Sử ký 史記 của Tư Mã Thiên chép rằng "Ngày xưa Kinh Thi có tất cả hơn ba nghìn thiên. Đến thời Khổng Tử, Khổng Tử bỏ bớt những thiên trùng điệp, chỉ lấy 305 thiên có thể có ích cho lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng".
Thiên Tử Hãn 子罕 trong sách Luận ngữ 論語 cũng ghi rằng "Khổng Tử nói: Ta từ nước Vệ trở về Lỗ, sau đó chỉnh đốn âm nhạc, rồi Nhã Tụng đâu ra đấy".
Lục Đức Minh trong Kinh điển thích văn 經典釋文 cũng viết "Khổng Tử san lục Kinh Thi, trước hết chọn lấy những bài về đời Chu, lại lấy cả những bài Thương tụng, phàm ba trăm mười một thiên."
Người ta thường dựa vào các thuyết trên để cho rằng Khổng Tử có chọn lọc, san định để tạo nên bộ Kinh Thi 305 bài ngày nay. Tuy nhiên, một số học giả như Khổng Dĩnh Đạt đời Đường; Trịnh Tiều, Chu Hy đời Tống; Thôi Thuật đời Thanh... vẫn còn hoài nghi việc đó vì Khổng Tử chưa bao giờ nói đến việc mình san định Kinh Thi. Trong Độc phong ngẫu chí 讀風偶識, Thôi Thuật đã biện bạch việc Khổng Tử san Thi như sau
Lý do nữa để chứng minh không có việc Khổng Tử san định Thi là thời gian không khớp. Sách Tả truyện 左傳 chép việc "Quý Trát quan nhạc", kể chuyện công tử nước Ngô là Quý Trát đến nước Lỗ và được nghe nhạc vào năm 544 TCN, năm đầu đời Chu Cảnh Vương. Theo đó thì tên các loại, các phần, thứ tự trước sau những bài thơ nước Lỗ hát cho Quý Trát nghe gần giống như bản Kinh Thi hiện nay, đủ cả Phong, Nhã, Tụng. Mà Khổng Tử sinh vào năm Lỗ Tương Công thứ 22 tức năm 551 TCN, khi Quý Trát nghe nhạc thì ông mới lên 8 tuổi, san định Kinh Thi sao được! Vả chăng, Khổng Tử thường nói đến Thi hoặc Thi tam bách, một số sách trước đó cũng đã nói đến Tam bách thiên...Do đó có thể đoán khi Khổng Tử ra đời, đã có một tập thơ mà số bài và cách biên soạn đại khái giống như bản Kinh Thi ngày nay. Sử ký chép Khổng Tử san định Kinh Thi, có lẽ ông chỉ sửa câu chữ cho hợp với làn điệu mà thôi.
Nhưng cũng không thể phủ nhận công sức lớn lao của Khổng Tử trong việc định hình Thi tam bách từ thơ ca dân gian thành văn bản kinh điển. Thiên Thiên vận 天運 sách Trang Tử 莊子 kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử và nói "Khâu này khảo cứu sáu kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu". Mặc dù vẫn còn tranh luận về vấn đề thời điểm tên gọi Thi kinh xuất hiện, song công lao của Khổng Tử trong truyền bá và sửa chữa Thi là cần khẳng định. "Tư vô tà", nhận xét của Khổng Tử về Thi tam bách trong thiên Vi chính 為政 sách Luận ngữ là một quan điểm được nhiều thế hệ truyền tụng.
Mao thi
Sau khi tiêu diệt sáu nước, Tần Vương Doanh Chính đặt ra danh xưng Hoàng đế, lên ngôi vua, tức Tần Thủy Hoàng, không đặt chư hầu, chia cả nước thành quận huyện, trực tiếp cai trị theo đường lối Pháp gia, thực hiện chính sách "đốt sách chôn Nho", "đốt sách cấm học", "hai người dám bàn nhau về việc Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ". Do vậy, phần lớn sách kinh điển thư tịch đời Tiên Tần đều bị nhà Tần đốt, trong đó có Thi.
Đến đời nhà Hán, Thi mới được sưu tầm và phục nguyên lại. Trong số những học giả có công sưu tầm, phục nguyên Kinh Thi đời Hán, chủ yếu có bốn nhà: Viên Cố Sinh người nước Tề, Thân Bồi người nước Lỗ, Hàn Anh người nước Yên, hai thầy trò Mao Hanh người nước Lỗ và Mao Trường (hoặc Mao Trành) người nước Triệu. Về sau, các học giả nghiên cứu Kinh Thi lấy tên nước hoặc họ của bốn nhà nói trên mà gọi tên của Kinh Thi, thành ra bản của Viên Cố Sinh sưu tầm gọi là Tề thi, của Thân Bồi thì gọi là Lỗ thi, của Hàn Anh thì gọi là Hàn thi, của hai thầy trò họ Mao thì gọi là Mao thi. Bản Mao thi xuất hiện sau cùng, phần lớn có quan hệ với Tả truyện, việc huấn hỗ cũng nhiều chỗ giống Nhĩ Nhã 爾雅, được gọi là bản Cổ văn; ba bản kia gọi là Kim văn.
Vào thời Hán Vũ Đế, triều đình cho lập Học quan nghiên cứu Thi ba nhà Tề, Lỗ, Hàn; Mao thi xuất hiện muộn hơn, chưa được lập Học quan nghiên cứu. Học giả theo Lỗ thi có Vương Giảm, Triệu Quán, Khổng An Quốc, Chu Bá, Hạ Khoan, Từ Yển, Khánh Kỵ; học giả tiếp thu Tề thi có Thương Dực, Tiêu Vọng Chi, Khuông Hành, Sư Đan. Thuyết Hàn thi thì có Tôn Thương, Thái Nghị, Vương Cát, Phiếu Phong, Trương Tựu. Đây đều là những học quan lớn của triều đình đương thời. Ba nhà cùng là Kim văn, nguồn gốc khác nhau, đều có chủ thuyết riêng nên Kinh Thi thành ra có nhiều dị bản, nghĩa lý trở nên mờ mịt.
Riêng Mao thi, ra đời từ Mao Hanh (còn gọi là Đại Mao công), rồi được Mao Trường (còn gọi là Tiểu Mao công) tiếp thu. Tiểu Mao công là quan Bác sĩ của Hà Gian Hiến Vương Lưu Đức - con trai vua Hán Cảnh Đế. Có người cho rằng Khổng Tử truyền các lời giảng về Kinh Thi cho học trò là Tử Hạ, Tử Hạ truyền cho Tăng Thân (con trai Tăng Tử), Tăng Thân truyền cho Lý Khắc, Lý Khắc truyền cho Mạnh Trọng Tử (con trai Mạnh Tử), Trọng Tử truyền cho Căn Mâu Tử, Mâu Tử truyền cho Tôn Khanh, Tôn Khanh truyền cho Mao Hanh, Hanh đem Huấn, Truyện mình làm truyền cho Mao Trường. Các ông Trịnh Chúng, Giả Quỳ đời Đông Hán đều học Mao thi, Mã Dung viết Truyện chú thích cho Mao thi. Vào cuối thời Đông Hán, nhà học giả Trịnh Huyền (hay Trịnh Khang Thành) đã chú thích kĩ cho Mao thi, chú thích của ông có ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu Kinh Thi về sau, người ta gọi là Trịnh tiên 鄭箋. Người học Mao thi ngày càng đông, ba nhà Tề, Lỗ, Hàn dần dần mai một, chỉ còn Mao thi lưu hành đến ngày nay. Học giả Bửu Cầm trong bài viết Giới thiệu Kinh Thi in mở đầu bộ sách Thi kinh tập truyện do Tạ Quang Phát dịch, tái bản năm 2003 thì Tề thi mất về đời nhà Ngụy, Lỗ thi mất về đời nhà Tấn, Hàn thi mất về đời Ngũ Đại Thập Quốc.
Truyện do Mao Hanh làm, học giả Bì Tích Thụy đời Thanh cho là còn "giản lược" trong khi Truyện do Thân Bồi làm thì để khuyết các chỗ còn tồn nghi, không giải thích tỉ mỉ từng câu từng chữ. Các học giả sau đời Hán muốn hiểu rõ nghĩa Mao thi, gặp chỗ khuyết thiếu, thường lấy ý mình suy đoán, sáng tạo giải thích mới, bổ sung thêm. Mao thi được hoàn thiện dần đến đời nhà Tống thì thực sự chiếm vị trí độc tôn trong học đường. Đó là bản Mao thi có Truyện do Chu Hy chú thích.
Kinh Thi qua bàn tay của Chu Hy đã bị "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify), nặng về huấn hỗ (chú giải nghĩa văn để giáo dục, dạy dỗ hay là tạo ra mẫu mực phép tắc) và lý tính để tuyên truyền, minh họa đạo lý Nho gia. Nhưng trào lưu "kinh học hóa","huyền thoại hóa" ấy dần dần bị phản đối, từ đời nhà Minh đã xuất hiện trào lưu nghiên cứu Kinh Thi phản truyền thống, coi trọng thi ý và tình cảm mà coi nhẹ huấn hỗ và lý tính, trào lưu này tiếp tục phát triển mạnh vào đời nhà Thanh. Phương Ngọc Nhuận người đời Thanh viết cuốn Thi kinh nguyên thủy 詩經原始 với phương châm theo chữ để xét nghĩa, tìm nguyên ý gốc của thi nhân. Phương Ngọc Nhuận cho rằng thơ trong Kinh Thi không bị câu nệ bởi Thi tự và Mao truyện, như với thiên Phù dĩ, ông gạt bỏ các thuyết "chữa ác tật" và "chữa khó đẻ"; với thiên Manh, ông cho đây không phải là sáng tác về việc ruồng bỏ vợ. Ông còn nói rằng "Đại để là các nhà nghiên cứu về Kinh Thi trước hết đều bị một cái mũ vừa to vừa rộng chụp vào đầu, rồi sau mới tự mình trình bày ý kiến riêng". Ở Nhật Bản, các học giả từ thời Edo đã kế thừa xu hướng "phản truyền thống" trong nghiên cứu Kinh Thi đời Minh ở Trung Quốc. Các học giả Nhật là hai cha con Ito Jinsai và Ito Togai, Yanagawa Seigan... thời Edo và Ono Kozan thời Meiji đều chủ trương đọc Kinh Thi với tư cách là một tác phẩm văn học. Đó cũng là quan điểm chính thống của giới Thi học khi nghiên cứu về Kinh Thi hiện nay.
Bố cục hiện hành
Bản Kinh Thi hiện hành gồm có 311 bài (xưa gọi là thiên 篇 hay thập 什). Kì thực, không phải tất cả các bài đều mất tên họ tác giả, thậm chí tên họ của họ vẫn còn có thể khảo chứng được. Chẳng hạn, bài Tiệt Nam Sơn trong Tiểu nhã nói rõ "Gia Phủ làm lời thơ này". Hay như trường hợp bài Hạng bá trong Tiểu nhã ghi "Hoạn quan tên là Mạnh Tử làm ra bài thơ này". Bài Tung cao và Chưng dân trong Đại nhã thì nói "Cát Phủ làm bài thơ này" thì Cát Phủ ở đây là Doãn Cát Phủ, Thái sư thời Chu Tuyên Vương. Tả truyện còn chép rằng, bài Tái trì thuộc Dung phong là do bà phu nhân của Hứa Mục Công làm còn Kinh Thư nói bài Si hiêu của Mân phong là do Chu Công Đán làm ra. Tất nhiên, phương pháp dùng thư tịch để khảo cứu thư tịch cũng chưa hoàn toàn đáng tin cậy. Nhìn chung, phần lớn họ tên tác giả các bài thơ trong Kinh Thi đều đã bị rơi rụng trong quá trình lưu truyền, tập hợp, chỉnh lý từ dân gian lên vương thất, trong dòng chảy bất tận của thời gian. Kinh Thi là tổng tập thơ ca vô danh thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Trong số 311 bài thơ, có 6 bài chỉ có đề mục chứ không có lời, gọi là "dật thi" (thơ đã mất). Sáu bài đó là Nam cai南陔(thuộc Lộc minh chi thập 鹿鳴之什); Bạch hoa 白華, Hoa thử華黍, Do canh 由庚, Sùng khâu 崇丘, Do nghi 由儀 (thuộc Bạch hoa chi thập 白華之什). Các nhà nghiên cứu cho rằng, 6 bài này là nhạc ca, tên bài thì còn, nhưng điệu nhạc đã mất, vì vậy không chép vào Kinh Thi được. Chu Hy làm Truyện, gọi những bài ấy là "sênh thi" (cũng đọc "sinh thi"). Chu chú rằng, "Sênh, nhạc được dùng trong yến lễ", "có nhạc nhưng không có lời". Sênh thi tựa như các tác phẩm nhạc không lời ngày nay, mỗi bài thơ là lời của một bản nhạc nhất định, nhạc ngày nay không còn. Chu Hy phỏng đoán thứ tự 6 bài sênh thi này là tuần tự tấu nhạc trong một buổi lễ và Mao Hanh đưa chúng vào Mao thi, dù "hữu mục vô từ" (có đề mục, không có lời) là có dụng ý: trong phần Nhã, mỗi cụm thơ đều đủ 10 bài, đưa sênh thi vào chỉ với mục đích cho đủ số 10 bài.
Với 305 bài thơ còn lại, trong lịch sử học thuật Trung Hoa đã từng có 3 cách phân loại chủ yếu. Một là chia ba phần "Phong, Nhã, Tụng", thấy sớm nhất trong thiên Nho hiệu 儒效 sách Tuân Tử 荀子 và Nhạc ký 樂記. Hai là chia bốn phần "Nam, Phong, Nhã, Tụng", là cách phân loại của học giả đời Tống như Vương Chất trong sách Thi tổng văn 詩總文 và Trình Đại Xương trong sách Thi luận 詩論. Ba là cách chia sáu phần "Phong, Phú, Tỉ, Hứng, Nhã, Tụng" do Trịnh Huyền đời Hán chủ trương. Trong ba cách đó, cách đầu có lịch sử lâu đời nhất và ảnh hưởng rộng nhất.
Phong
Phong 風 là "Thập ngũ quốc phong", tức ca dao của 15 nước chư hầu hoặc khu vực, gồm Chu Nam 周南, Thiệu Nam 召南, Bội phong 邶風, Dung phong 鄘風, Vệ phong 衛風, Vương phong 王風, Trịnh phong 鄭風, Tề phong 齊風, Ngụy phong 魏風, Đường phong 唐風, Tần phong 秦風, Trần phong 陳風, Cối phong 檜風, Tào phong 曹風, Mân phong 豳風 (hoặc Bân phong), cộng 160 bài.
Phong là nhạc điệu, các bài Quốc phong phần nhiều là "thơ ca dân gian" ("dân tục ca dao", chữ dùng của Chu Hy), phần nhạc kèm theo có sắc thái âm nhạc dân gian địa phương, gọi là "thổ nhạc". Chu Hy chú thích rằng "Gọi thơ ấy là Phong, bởi họ nhờ đức hóa ở trên mà phát ra lời, lời lại rất rung động lòng người. Giống như vật vì gió lay động mà phát ra tiếng, rồi tiếng đó lại làm vật hết sức rung động vậy. Bởi thế các chư hầu sưu tầm để dâng lên Thiên tử, Thiên tử nhận và giao cho Nhạc quan, lấy đó để khảo sát cái tốt cái xấu trong phong tục mà dân ưa chuộng, từ đó biết được chỗ được mất trong chính sự. Theo thuyết cũ, Nhị Nam là Chính phong, thơ này được dùng cho gia đình, làng xóm, đất nước và giáo hóa cả thiên hạ vậy. Thơ 13 nước là Biến phong, giao cho Nhạc quan lĩnh lấy, dùng để thời thường học tập". Sách Thi đại tự 詩大序 cho rằng Phong dùng vào giáo hóa, phúng thích, "nói việc của một nước, là gốc của một người". Học giả đời Tống là Trịnh Tiều coi Phong là "do thổ phong mà ra, đại để là lời của những kẻ hèn mọn, tôi tớ, đàn bà, con gái; ý thơ tuy xa song lời thơ thì thiển cận trùng lặp". Học giả Lương Khải Siêu thì cho Phong là lời thơ có thể ngâm đọc chứ không hát được. Riêng Trình Đại Xương và Cố Viêm Vũ thì ngờ rằng ngày xưa không có danh từ "Quốc phong", hai chữ này do người sau hiếu sự đặt ra.
Nhã
Nhã 雅 chia ra Tiểu nhã 小雅 và Đại nhã 大雅, cộng 105 bài. Trong mỗi Đại nhã và Tiểu nhã lại phân làm "chính" và "biến". Theo Chu Hy, Chính Đại nhã là nhạc dùng ở triều hội, Chính Tiểu nhã là nhạc dùng ở yến tiệc, phần nhiều do Chu Công Đán chế tác. Còn Biến nhã thì không biết chức năng ra sao.
Nhã có nghĩa như "chính" 正, nghĩa là "đúng đắn", được hiểu là "vương kỳ chính thanh", là âm nhạc vùng kinh ấp của nhà Chu thời Tây Chu, khu vực này người Chu gọi là Hạ, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay. "Nhã" cũng vốn là tên nhạc khúc, thiên Cổ chung trong Tiểu nhã có câu "Dĩ nhã dĩ nam" có thể chứng minh điều đó. Thời cổ, "Nhã" và "Hạ" có thể dùng thay cho nhau, sách Mặc Tử 墨子 dẫn thơ Đại nhã từng gọi là Đại hạ. Sách Thi đại tự cho Nhã là "nói việc phế hưng chính sự nhà vua là do đâu" còn Trịnh Tiều viết "Nhã thì từ sĩ đại phu ở triều đình làm ra, lời thơ thuần hậu mẫu mực, thể thơ lên bổng xuống trầm có lớp lang, không phải là điều mà hạng hèn mọn, tôi tớ, đàn bà con gái có thể nói lên được". Lương Khải Siêu cho Nhã là những bài thơ rất phổ thông ở đời Chu.
Tụng
Tụng 頌 gồm Chu tụng 周頌, Lỗ tụng 魯頌 và Thương tụng 商頌, cộng 40 bài. Phần Chu tụng ra đời sớm nhất, là tác phẩm đời Tây Chu. Phần Thương tụng là tác phẩm nước Tống, con cháu nhà Thương, sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 - 8 TCN. Còn Lỗ tụng là tác phẩm nước Lỗ vào thế kỉ 7 TCN.
Tụng, theo Chu Hy, là "khúc ca tế lễ ở tông miếu", phần nhiều tán tụng đề cao, ca ngợi công đức của tiên vương, là những sử thi tưởng niệm công đức và cơ nghiệp của tiên tổ, hát kèm theo múa. Sách Thi đại tự cho Tụng là cơ ngợi thịnh đức của nhà vua, "thông qua việc tế tự mà đem sự thành công của mình cáo với thần linh". Học giả đời Tống là Trịnh Tiều giải thích Tụng "thì thoạt đầu không có ý phúng tụng, chỉ nhằm phô trương công đức to lớn mà thôi, lời thơ nghiêm trang, âm thanh có chừng mực, không dám kể lể rườm rà dông dài, cốt tỏ sự tôn kính". Còn Lương Khải Siêu cho Tụng vốn nghĩa là dung (dung mạo) cho nên có thể đem ra hát và múa theo âm điệu, gần như một kịch bản diễn xướng.
Mục lục 311 bài thơ trong Kinh Thi
Danh sách các bài thơ trong Kinh Thi ở đây lấy từ bản Kinh Thi do Chu Hy làm Truyện chú thích và viết tựa vào năm 1177. Bộ Kinh Thi này gồm 8 quyển, quyển 1 - 3 là Quốc phong, quyển 4 - 5 là Nhã và quyển 6 - 8 là Tụng. Nội dung các bài thơ ở đây trong giới Thi học vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn nhiều bất đồng sâu sắc.
Tổng cộng có 311 bài thơ với 1142 chương và 7076 câu thơ được ghi lại trong bản Kinh Thi này
Phát hiện mới về bố cục Kinh Thi
Theo thông tin trên Văn hội báo 文汇报, số ra ngày 16 tháng 8 năm 2000, tại Bảo tàng Thượng Hải có giữ bản Khổng tử thi luận 孔子诗论 bằng thanh trúc thời Chiến Quốc, bản sách đó có ghi lại các bài thơ trong Kinh Thi. Qua so sánh, thấy khác so với thứ tự các phần Phong, Tiểu Nhã, Đại Nhã và Tụng trong bản Thi hiện hành. Chữ dùng cũng không giống nhau, đó là Tụng (phồn thể: 訟, giản thể: 讼), Đại Hạ 大夏, Tiểu Hạ 小夏, và Bang Phong (phồn thể: 邦風, giản thể: 邦风). Điều này đã khơi dậy nhiều suy nghĩ mới về diện mạo ban đầu của Kinh Thi.
Nội dung
Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, giáo dục, sinh hoạt xã hội... cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú...phong phú muôn hình muôn vẻ. Khổng Tử từng nói "Thi, có thể giúp hưng phấn, có thể giúp xem xét, có thể giúp hợp quần, có thể giúp biết oán giận. Gần có thể thờ cha, xa thờ vua, giúp biết được nhiều tên của chim muông, cây cỏ". Dưới đây chỉ là một số nội dung chính của bức tranh rộng lớn Kinh Thi.
Phản ánh lịch sử nhà Chu
Các bài thơ trong Kinh Thi ra đời vào khoảng đầu đời Tây Chu đến cuối thời Xuân Thu, trong bối cảnh nhà Chu chuyển biến từ thịnh sang suy. Do vậy, dù ít dù nhiều, chúng đều chịu ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử đó và có nội dung phản ánh bộ mặt lịch sử từng thời kì.
Tổ tiên nhà Chu khởi nghiệp từ đất Thai, trong lưu vực sông Vị (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), tương truyền có tên là Hậu Tắc hay còn gọi là Khí. Cuộc đời của Hậu Tắc được ghi lại trong bài Sinh dân (Đại Nhã), kể rằng mẹ ông là nàng Khương Nguyên dẫm phải dấu chân thần mà có thai, sinh ra Hậu Tắc; nàng không dám nuôi, đem vứt đi, nhưng vứt đi đâu Hậu Tắc cũng được cứu sống không chết, khi thì được bò dê cho bú, chim muông che chở, khi thì được người tiều phu cứu về, Khương Nguyên đành phải giữ lại nuôi. Khi lớn lên, Hậu Tắc tức thì biết cách trồng lúa làm ruộng, lúa lên vàng ươm, đẹp đẽ, tươi tốt. Bài Sinh dân dài đến 72 câu, có thể coi là lịch sử bằng văn vần hoặc sử thi ca ngợi thủy tổ nhà Chu vậy.
Sau Hậu Tắc ba đời thì đến ông Công Lưu. Công Lưu dẫn bộ tộc Chu từ đất Thai (nay là huyện Vũ Công, địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây) dời đến đất Mân (nay thuộc huyện Tuần Ấp, địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), khai đất hoang, làm nhà và định cư ở đấy. Chuyện này được kể trong bài Công Lưu (Đại Nhã), qua đó hết lời ca ngợi tính trung hậu và tư chất lãnh đạo của Công Lưu. Bài Miên (Đại nhã) lại nói về cuộc thiên cư lần thứ hai của bộ tộc Chu từ đất Mân đến đất Kỳ (nay thuộc huyện Kỳ Sơn, địa cấp thị Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây) dưới sự dẫn dắt của Cổ Công Đản Phủ; lần lượt kể từ khi nhà Chu ở lưu vực sông Thư, sông Thất, chưa có nhà phải ở hang; đến thời Cổ Công Đản Phủ dời đến Kỳ đã biết bói rùa, xây dựng nhà cửa, đặt một số quan chức, lập miếu xã, tổ chức quân đội đánh bại kẻ thù; đến thời Chu Văn Vương thì các nước khác đã phải nể sợ nước Chu. Bài Hoàng hĩ (Đại nhã) kể chuyện Cổ Công Đản Phủ, Ngô Thái Bá, Quý Lịch đến Chu Văn Vương đánh Mật, đánh Sùng. Bài Đại minh (Đại nhã) là một bản ghi chép lịch sử từ khi Chu Văn Vương ra đời đến Chu Vũ Vương đánh Trụ. Cuộc đông chinh dập tắt cuộc nổi loạn Vũ Canh của Chu Công Đán là chủ đề cho hai bài thơ Phá phủ và Đông sơn trong Mân phong. Một số bài khác như Thời mại, Hoàn, Vũ (Chu tụng)... cũng tham gia phản ánh lịch sử đầu Tây Chu.
Vào cuối thời Tây Chu, nền chính trị nhà Chu ngày càng hủ bại, nguy cơ xã hội bộc lộ rõ rệt, nhất là dưới hai triều vua Chu Di Vương và Chu Lệ Vương. Bài Tang nhu (Đại nhã) nói lên cảnh dân chúng chết chóc, nhà cửa tan nát trong cơn loạn lạc, người sống sót lưa thưa như tàn lửa sau vụ cháy. Bài Ức (Đại nhã) công kích triều đình hủ bại, trăm việc bê trễ, chỉ biết hưởng lạc, đó đều là những bài thơ quý tộc đời Lệ Vương oán trách nhà vua. Bài Thập nguyệt chi giao (Tiểu nhã) kể tên bảy kẻ nịnh thần của Chu U Vương như bọn Hoàng Phụ, nói rằng bọn họ với Bao Tự cấu kết với nhau, quyền thế rất ghê gớm. Bài Đại đông phản ánh các cuộc chiến tranh chinh phục dưới đời Chu Tuyên Vương, Chu U Vương, quân nhà Chu đánh bại các chư hầu phía đông, cướp sạch của cải của họ, bắt dân họ làm nô lệ khiến họ oán giận mãi không thôi. Bài Thường vũ (Đại nhã) ca tụng chiến công chinh phạt Từ Di của Tuyên Vương, bài Lục nguyệt (Tiểu nhã) kể chuyện Doãn Cát Phủ giúp Tuyên Vương bắc phạt Hiểm Doãn, bài Thái dĩ tả Phương Thúc nam chinh Kinh Man, phần nhiều do sử quan làm, có tính chất sử ký và ca tụng công đức khá cao.
Sang thời Đông Chu, Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp, nhà Chu suy yếu dần, các chư hầu lớn lấn át thiên tử, gây chiến tranh tiêu diệt lẫn nhau để giành đất đai, của cải trong suốt hai thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Thơ Quốc phong có nhiều bài phản ánh một số sự kiện lịch sử hoặc nhân vật lịch sử của chư hầu, như bài Tải trì (Dung phong) nói về việc nước Vệ bị diệt vong, Vệ Đái công phải bỏ chạy đến ấp Tào, bài Vô y (Tần phong) nói về cuộc kháng chiến của nước Tần chống lại người Khương Nhung hoặc bài Thạc nhân (Vệ phong) tả nàng Trang Khương, vợ Vệ Trang công, bài Tái khu (Tề phong) kể về nàng Văn Khương, vợ Lỗ Hoàn công... Kinh Thi cũng còn có nhiều bài cho ta biết tâm sự của giới quý tộc đời Chu khi gặp cảnh nước nhà suy yếu "ngày nay nước thu hẹp hàng trăm dặm" (Đại nhã, Thiệu mân), "dân bị nạn binh đao, tai họa trùm lên sắp chết hết" (Đại nhã, Tang nhu); qua đó chỉ trích gay gắt chính trị đương thời; khuyên vua "đừng tin lời sàm tấu" (Tiểu nhã Tiểu mân) vì chúng chỉ là bọn gây loạn bốn phương (Tiểu nhã, Thanh nhăng); có bài mạnh dạn lên án nhà vua và triều đình hủ bại. Điều đó cho thấy, việc các học giả thời xưa, nhất là đời Hán, khi chú thích cho nội dung các bài trong Kinh Thi thường thiên về phản ánh sự thực lịch sử không phải là không có cơ sở.
Phản ánh tình yêu và hôn nhân
Thơ nói về tình yêu và hôn nhân chiếm một tỉ trọng rất lớn trong thơ Phong, là một nội dung quan trọng của Kinh Thi. Những bài thơ này phần nhiều có tình cảm thành thật, sôi nổi, chất phác, thẳng thắn; tuy là đề tài tình yêu nhưng nội dung rất ít khi lặp, phàm những nỗi vui sướng, buồn lo, tan hợp về tình yêu đều được thể hiện rõ.
Bài Quan thư (Chu Nam) mở đầu cho Quốc phong và cũng là bài mở đầu cho cả bộ Kinh Thi, chính đã mang nội dung về tình yêu. Đó là bản tình ca đơn phương của chàng trai với một cô gái, gợi hứng từ tiếng kêu hòa hợp của đôi chim thư cưu ngoài xa, lời lẽ mộc mạc tự nhiên, qua đó bộc lộ ước muốn muốn kết thành vợ thành chồng với cô. Thơ tình đơn phương còn có bài Hán quảng (Chu Nam), Đông môn chi thiện (Trịnh phong), Trạch bi (Trần phong), Thấp tang (Tiểu nhã)...tình cảm triền miên, chan chứa, cảm động:
Yêu ai yêu tận đáy lòng
Vì sao e ngại mà không tỏ bày ?
Yêu ai thầm kín ai hay,
Tấm lòng thương nhớ biết ngày nào nguôi ?
(Thấp tang, Tiểu nhã)
Nỗi nhớ nhung trong tình cảm lứa đôi được thể hiện qua một số bài Tử khâm (Trịnh phong), Thái cát (Vương phong), Nguyệt xuất (Trần phong)...Đặc biệt ở bài Thái cát, có câu cho đến bây giờ trở thành quen thuộc, được nhiều thế hệ truyền tụng "Một ngày không thấy/Như ba năm trọn"
Chuyện nam nữ hẹn hò, thề thốt cũng được nhiều bài đề cập, ý thơ thường rất trong sáng, đuôi khi nhuốm tình điệu nguyên thủy, cho thấy tình yêu nam nữ thuộc tầng lớp dưới thời đó tương đối tự do. Như bài Dã hữu tử huân (Thiệu Nam) kể chuyện "chàng trai tốt đẹp" vào rừng săn hươu nai và hái củi, gặp một người con gái mà chàng khen là "đẹp sao như ngọc" rồi yêu cô, ngơ ngẩn lơ lững đi theo cô, khiến cho chó trong nhà cô "cắn ran". Tình điệu chất phác thật thà, rất ăn khớp với cảnh núi rừng ngày xuân. Lại như bài Tĩnh nữ (Bội phong) kể chuyện cặp tình nhân hẹn hò ở góc thành, khi chàng trai đến thì người cô gái chưa đến, khiến anh ta chờ mãi không thấy, sốt ruột quá cứ vò đầu băn khoăn. Khi cô gái đến như hẹn ước và thân mật tặng một nhánh cỏ non thì anh ta mừng quá. Anh cảm thấy nhánh cỏ ấy "xinh đẹp lạ lùng" vì đó là của người đẹp tặng. Tình cảm nam nữ dạt dào, thắm thiết, trong sáng, thật là thú vị! Các bài Thác hề, Trăn Vĩ, Sơn hữu phù tô, Phong vũ, Dã hữu man thảo (Trịnh phong), Tang Trung (Vệ phong), Đông phương chi nhật (Tề phong)... đều nói về tình yêu nam nữ tự do; nhiều bài trong Trịnh phong, người con gái còn ở tư thế chủ động để tỏ bày tình cảm, khiến Khổng Tử phải chê nhạc nước Trịnh là "dâm loạn", Chu Hy cũng thường chỉ trích.
Nhưng bài Tương Trọng Tử trong Trịnh phong phàn nàn về sự gò bó tình yêu, ở đó cô gái dặn dò người yêu là Trọng Tử không nên đến nhà tìm, tuy cô rất yêu chàng, nhưng cũng sợ bố mẹ, anh em, người đời quở trách. Bài Đại xa (Vương phong) lại nói về đôi nam nữ sợ pháp luật và người có quyền thế ngăn cấm mà không dám đến với nhau. Bài Bách chu (Dung phong) cũng nói chuyện bà mẹ can thiệp vào hôn nhân của con gái, nhưng cô gái nhất quyết phản kháng lại, "dù chết cũng không đổi ý". Yêu mà bị ngăm cấm thì rất đau khổ, nên cuối cùng cô gái phải kêu khóc thương tâm rằng
Mẹ ơi mẹ thật như trời
Sao mà chẳng lượng cho người thế ru
Ngoài nỗi đau khổ vì yêu đương bị ngăn trở, Kinh Thi còn tả nỗi đau khổ khi thất tình (như bài Giảo đồng trong Trịnh phong), nỗi đau khổ khi yêu mà không được yêu (như bài Trạch bi trong Trần phong), nỗi đau khổ chia lìa kẻ sống người chết (như bài Cát sinh trong Đường phong)...
Thơ về hôn nhân trong Kinh Thi có những bài tả vợ chồng xứng đôi, gia đình vui vẻ hòa thuận như bài Đào yêu (Chu Nam), Thước sào, Hà bỉ nùng hĩ (Thiệu Nam), Quân tử dương dương (Vương phong), Nữ viết kê minh (Trịnh phong)...Nhưng phần nhiều thơ thể hiện nỗi đau khổ nhớ thương vì li biệt xa cách. Nguyên nhân chính làm cho vợ chồng hoặc đôi tình nhân phải xa cách thời ấy là phu phen và chiến tranh. "Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa" (Mạnh Tử) nên chiến sự liên miên, trai tráng đều bị bắt đi lính, ngoài thì có những người đàn ông không vợ, trong thì có những người đàn bà chất chứa oán hờn, cho nên thơ Kinh Thi nói về việc phu phen khổ sở và mong nhớ người thân tương đối nhiều
Ví dụ như bài Đệ Đỗ (Tiểu Nhã) với tả người chinh phu đi thú lâu ngày, hết hạn vẫn không được về quê vừa tả người vợ ở nhà nhớ chồng bấm đốt tay tính ngày tháng, tưởng tượng người chồng vẫn gần đâu đây, là một bài thơ tình rất hay được người ta truyền tụng. Bài Hà thảo bất hoàng (Tiểu nhã) tả binh sĩ oán trách phải đi khắp đó đây, không được nghỉ ngơi, lại oán trách vợ chồng xa cách, rồi hỏi phẫn nộ "Bọn binh sĩ chúng ta thật tội nghiệp, há không phải là người hay sao ?". Các bài Quyển nhĩ, Nhữ phần (Chu Nam), Ẩn kỳ lôi (Thiệu Nam), Kích cổ, Hùng trĩ (Bội phong), Bá hề (Vệ phong), Cát sinh (Đường phong), Quân tử vu dịch, Thố viên (Vương phong)... cũng có nội dung tương tự.
Lại có những bài tả cuộc hôn nhân bất hạnh, như bài Cốc phong trong Bội phong và Manh trong Vệ phong. Trong hai bài này, người phụ nữ đều bị chồng ruồng rẫy phụ bỏ, họ kể lại cảnh ngộ không may của mình, lên tiếng oán trách anh chồng bạc bẽo, quyến luyến tình xưa nghĩa cũ hoặc hối hận đau khổ, quyết liệt cự tuyệt. Các bài Lục y, Yến yến, Nhật nguyệt (Bội phong), Trung cốc hữu thôi (Vương phong), Tuân đại lộ (Trịnh phong)... đều thuộc chủ đề này. Hoặc là thơ chê trách việc cưới gả ép uổng, không hợp đôi hoặc lỡ thì, gây đau khổ cho người phụ nữ, như bài Tân đài (Bội phong), Phiếu hữu mai (Thiệu Nam). Đây là những bài người phụ nữ oán thán về số phận, sự bất bình đẳng giới tính trong tình yêu và hôn nhân, đồng thời có thể hiện tinh thần muốn được giải phóng, đòi tự do trong yêu đương
Phản ánh đời sống dân chúng
Đời sống dân chúng được phản ánh bằng rất nhiều bài thơ trong Kinh Thi chủ yếu ở hai phần Quốc phong và Tiểu nhã, được giới Thi học chú ý nghiên cứu khoảng từ giữa thế kỷ 20. Điều không khó thấy là các bài thơ đều nói về hiện tượng như người xưa từng tổng kết "Người đói hát về chuyện ăn, người lao động hát về công việc".
Thơ về lao động
Lao động ở đây chủ yếu là công việc nhà nông với những bài thơ có thể coi là tài liệu lịch sử quan trọng để nghiên cứu xã hội đời Chu. Như bài Tải sam (Chu tụng) tả cảnh dân chúng lao động tập thể, đủ cả già trẻ trai gái cùng nhau làm cỏ, be bờ. Bài Lương trĩ (Chu tụng) tả cảnh được mùa, lúa chất "cao như vách tường, liền như răng lược". Bài Phù dĩ (Chu Nam) là bài ca các cô gái hát khi hái hạt phầu, lời ca đơn giản, tiết tấu nhẹ nhàng nhưng có thể khêu gợi trí tưởng tượng rất nhiều. Học giả Phương Ngọc Nhuận đời Thanh trong sách Thi kinh nguyên thủy, bình rằng, đọc bài này "như nghe rõ từng tốp phụ nữ nông thôn, nơi ba người, nơi năm người, hát đối đáp nhau, giữa cảnh gió lộng nắng ấm; tiếng hát véo von, như gần như xa, khi đứt khi đứt". Bài Thập mẫu chi gian (Ngụy phong) cũng nói lên niềm vui nhẹ nhàng của các cô gái sau khi hái dâu gọi nhau trở về, vừa đi vừa hát. Đặc biệt là bài Thất nguyệt trong Mân phong, được Văn Nhất Đa coi là "một bài Hạ tiểu chính hoặc Nguyệt lệnh bằng văn vần". Quả vậy, bài thơ miêu tả tương đối toàn diện cuộc sống của người nông dân trong một năm, giống như bài ca dao về lịch nhà nông. Có thể bài này truyền lại từ một thời xa xôi lắm, và trong khi lưu truyền, được thêm thắt vào mãi. Hình tượng lao động cũng trở thành đối tượng để khởi hứng hoặc làm tỉ dụ trong nhiều bài thơ khác của Kinh Thi.
Thơ oán thán
Kinh Thi có nhiều bài thơ thể hiện sự oán thán, bất bình của dân chúng với tầng lớp trên và những bất công trong xã hội. Bài Chính nguyệt (Tiểu nhã) nói về bọn "tiểu nhân" có tiền sống hoa xa còn dân chúng trong cơn tai biến thì lâm vào cảnh ngộ bi thảm. Bài Bắc sơn (Tiểu nhã) so sánh cuộc sống thư thả, nhàn hạ của tầng lớp quý tộc với sự vất vả, đầu tắt mặt tối của người dân, bày tỏ sự bất mãn cá nhân, cũng nói lên được sự bất bình chung của nhiều người. Bài Hồng nhạn (Tiểu nhã) thì nói về nạn phu dịch nặng nề, đến người quan quả khố rách áo ôm cũng bị bắt làm việc cặm cụi ngoài đồng, bàn tay họ xây nên hàng trăm bức tường thành cao nhưng bản thân thì không có chỗ nương thân
Đắng cay nếm đã đủ phần
Mà đâu đã thấy yên thân chốn nào ?
Sự oán thán của dân chúng trong thơ Quốc phong còn sâu sắc và gay gắt hơn so với thơ Nhã. Tiêu biểu như bài Phạt đàn (Ngụy phong) nói người đẵn gỗ suốt ngày bên sông nhưng không có một tí gì, còn kẻ "quân tử" không cày cấy, không săn bắn mà vẫn thóc lúa đầy kho, thú treo đầy nhà, cuối cùng mỉa mai họ là kẻ "ngồi không ăn dầy". Bài Thạc thử ví tầng lớp trên như loài chuột sù đục khoét, đồng thời bộc lộ khát vọng thoát khỏi quyền lực của những kẻ ăn trên ngồi trốc, sống tự do thanh bình
Ta thề bỏ mày
Đến nơi đất lành
Đất lành đất lành
Chỗ ta đã giành
Bài Bắc phong (Bội phong) phản ánh tình trạng dân chúng chịu nền chính trị bạo ngược, hà khắc, rủ nhau bỏ trốn. Bài thơ ví quạ đen và hồ ly với người cầm quyền và sự thống trị tàn khốc, cả bài là không khí buồn thảm, căng thẳng. Bài Mộ môn đả kích kẻ chấp chính bất lương, lại mượn hình ảnh rìu phạt gai góc trước cửa mộ để nói nguyện vọng muốn trừ bỏ kẻ đó. Các bài Thuần chi bôn bôn, Tướng thử (Dung phong)... đều có ý tương tự.
Trong Quốc phong có rất nhiều bài thơ oán trách việc phu phen và chiến tranh nặng nề gây nên thảm cảnh cho dân chúng. Bài Bảo vũ (Đường phong) tố cáo đau xót tình cảnh người dân phải đi phu đi lính, bỏ cả cày bừa, cha mẹ không nuôi, cũng không biết đến bao giờ mới được sống yên ổn, phải kêu trời kêu đất than ngắn thở dài. Bài Trắc hộ (Ngụy phong) là lời đứa con có hiếu, phải đi quân dịch, ở xa nhớ cha mẹ, tưởng tượng mẹ cha ngóng trông mình trở về, ý oán thán cũng ngầm trong đó. Mấy bài thơ tả tâm tình người vợ nhớ chồng đi lính bên cạnh sự nhớ thương cũng mang giọng điệu oán thán. Các bài Cát lũy, Dương chi thủy (Vương phong)... đều có ý như vậy.
Phản ánh đời sống quý tộc và văn hóa lễ nhạc đời Chu
Thơ phản ánh văn hóa lễ nhạc đời Chu chủ yếu do tầng lớp quý tộc làm ra, chiếm đa số trong Tụng và một phần Nhã. Đây hoặc là thơ dùng trong tế lễ tông miếu hoặc là thơ yến ẩm, biểu thị sâu sắc và dào dạt tinh thần lễ nhạc của con người thời Chu, cũng như phương diện văn hóa của xã hội đương thời. Như bài Thanh miếu (Chu tụng) cho ta hình dung về ngôi miếu thờ tổ tiên nhà Chu, bài Phán thủy (Lỗ tụng) giúp hình dung về nhà học lớn và việc giáo dục đương thời. Bài Na (Thương tụng) lại miêu tả về một buổi đại lễ lớn. Thấp thoáng sau mỗi bài thơ là nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội đời Chu như săn bắn, xây dựng nhà cửa, yến ẩm, lễ hội...của mọi tầng lớp trong xã hội.
Nghệ thuật
• Nói đến Kinh Thi không thể không nói đến phương pháp "phú", "tỉ", "hứng", có hiệu quả nghệ thuật ảnh hưởng rõ rệt đến văn học đời sau.
"Phú", "tỉ", "hứng" được chép sớm nhất ở sách Chu lễ, hợp với "Phong", "Nhã", "Tụng" gọi là "lục nghĩa". Lời chú viết "Phong Nhã Tụng là thể khác nhau của các thiên Kinh Thi, Phú Tỉ Hứng là lời khác nhau về văn của Kinh Thi, lớn nhỏ không như nhau, song gọi chung là Lục nghĩa. Phú Tỉ Hứng là sở dụng của Kinh Thi, Phong Nhã Tụng là sự thành hình của Kinh Thi, dùng ba cái kia để hình thành nên ba cái này, bởi vậy được gọi chung là nghĩa". Trong Thi tập truyện 詩集傳, Chu Hy giải thích về "phú", "tỉ", "hứng" như sau "Phú là trình bày sự việc rồi viết thẳng ra. Tỉ là lấy vật kia so sánh với vật này. Hứng là trước nói một vật khác để dẫn đến lời của thơ". Nói một cách dễ hiểu thì "phú" là thể trần thuật, "tỉ" là ví dụ so sánh, "hứng" là qua một vật, một việc để gợi hứng cho bài thơ.
Trong Kinh Thi, phần Nhã, Tụng phần nhiều dùng phương pháp "phú" để diễn tả; phần Quốc phong thì có một số bài như Thất nguyệt, Trăn Vĩ, Giảo đồng, Kiển thường mà thôi còn đa phần dùng "tỉ", như bài Chung tư (Chu Nam) lấy hình ảnh con dế chọi đẻ nhiều để chúc mừng việc đông con, bài Chung phong (Bội phong) lấy gió lớn để ví với người chồng bạo tàn, bài Thạc nhân (Vệ phong) dùng hình tượng mầm cỏ, mỡ đông, hạt dưa để ví với hình thể người đẹp Trang Khương, bài Thạc thử (Ngụy phong) lại dùng hình tượng con chuột kễnh để ví von với kẻ thống trị. "Hứng" thì được sử dụng thường xuyên trong Quốc phong, có khi liên quan đến ý chính bài thơ nhưng cũng có khi không, có khi gắn liền với tình điệu nhưng cũng có khi chỉ là lấy vần cuối cùng để dẫn đến những câu dưới. Chẳng hạn như bài Quan thư (Chu Nam) lấy hứng từ tiếng chim nước gù nhau rồi dẫn đến chủ đề chính là nỗi mơ tưởng đến người yêu của chàng trai. Bài Thần phong (Tần phong) mở đầu bằng hình tượng chim lớn bay vào rừng rồi chuyển sang chủ đề chính là việc người vợ nhớ chồng. Bài Đào yêu (Chu Nam) tả mùa xuân hoa đào nở mơn mởn, gắn liền với tình điệu chuyện cưới xin ở dưới. Bài Hoàng điểu (Tần phong) khởi hứng từ hình ảnh con chim sẻ vàng kêu chích chích ở bụi cây gai, rồi cây dâu, câu sở mà dẫn đến chuyện tuẫn táng "tam lương" thì có vẻ không liên quan. Thế nhưng âm cức 棘 (cây gai) và âm tích 瘠 (gầy) gần giống nhau, âm tang 桑 (cây dâu) và âm tang 塟 (chết) đồng âm, chữ sở 楚 (cây sở) liên tưởng đến từ "thống sở" 痛楚 (đau xót), ba chữ đó làm ta cho người ta liên tưởng đến những điều buồn bã đau thương. Do đó, tình hình khởi hứng trong Kinh Thi được đánh giá là tương đối phức tạp, có khi nó kiêm cả "tỉ" nữa, như bài Quan thư hay Đào yêu nói trên, hình tượng khởi hứng phần nào gắn liền với chủ đề lứa đôi, cưới xin mà bài thơ diễn tả. Khổng Tử nhận xét về bài Quan thư trong Kinh Thi: "Bài thơ Quan thư trong Kinh Thi đưa đến niềm vui mà không quá buông tuồng, mang lại nỗi buồn mà không đến mức đau thương.".
• Đặc điểm kết cấu dân ca trong Kinh Thi nổi bật nhất là cách "trùng chương điệp cú" (lặp đoạn lặp câu). Trùng chương có lúc để tỏ rõ trình độ và thứ tự tiến triển của sự việc, như bài Thái cát (Vương phong), chương đầu rằng
Dây sắn kia nàng hái đâu xa
Một ngày chẳng thấy bằng ba tháng ròng
Rồi chương hai, chương ba, hái sắn đổi là hái cỏ thơm, hái rau ngải; ba tháng đổi thành ba mùa, ba năm, mức độ phóng đại càng to dần, tỏ mức độ thương nhớ ngày càng sâu sắc, dần dẫn từng bước, rất tự nhiên. Cũng có lúc trùng điệp để mà trùng điệp, chứ không thể hiện mực độ và thứ tự, như bài Tang Trung (Dung phong), chương đầu kể chuyện chàng trai hái rau đường rồi nhớ đến nàng Mạnh Khương, các chương sau đổi thành hái lúa mạch, hái rau phong, tên người con gái cũng thay đổi nhưng cốt chỉ đổi vần để tiện hát đi hát lại, làm phần trữ tình tăng thêm. Kiểu trùng điệp như vậy trong Kinh Thi rất nhiều, nhưng không phải bài nào cũng hoàn chỉnh như nêu trên mà có bài chỉ trùng điệp một vài đoạn trong nhiều đoạn, có bài chỉ trùng điệp mấy câu trong một đoạn, có bài thì vừa trùng chương và điệp cú.
Ngoài trùng điệp, trong Kinh Thi còn có cách "xướng họa", như hai chương trong bài Thập mẫu chi gian (Ngụy phong) có thể là một chương xướng, một chương họa, như lời đối đáp của các cô gái hái dâu. Kết cấu "hòa thanh" (người ngoài hát hòa theo) như bốn chương bài Đông sơn (Bân phong), mỗi chương đều có bốn câu mở đầu như nhau
Từ ngày ta trẩy núi Đông
Năm qua tháng lại vẫn không được về
Hôm nay ta bước ra về
Trời mờ mịt, khắp tứ bề mưa bay
hay bốn câu cuối mỗi chương trong bài Hán quảng (Chu Nam), là một hình thức kết cấu đặc biệt của ca dao.
• Kinh Thi là tập đại thành dân ca cổ xưa của Trung Quốc, mà đã là dân ca thì phải nhất thiết có tiết tấu, vần điệu để hát được. Thơ Kinh Thi có nhạc tính rất đậm, bằng cách sử dụng nhiều điệp từ, phức từ như "quan quan" (quan quan thư cưu - Quan thư, Chu Nam); "thương thương" "thê thê" (kiêm hà thương thương, kiêm hà thê thê - Kiêm hà (gia) - Tần phong)... hoặc điệp cú "phong vũ thê thê, kê minh giê giê" "phong vũ tiêu tiêu, kê minh diêu diêu" (Phong vũ, Trịnh phong); "tích ngã vãng hĩ, dương liễu y y" "kim ngã lai ti, vũ tuyết phi phi" (Thái vi, Tiểu nhã)... tính tượng hình, tượng thanh rất cao. Những bài trong Kinh Thi có cả cước vận và yêu vận, cách gieo vần rất rộng rãi tự do, không bị gò bó trong một khuôn khổ hẹp hòi, theo một định luật nghiêm khắc. Nhờ thế nên văn chương Kinh Thi đã giữ được cái âm điệu uyển chuyển tự nhiên, diễn tả dễ dàng ấn tượng của tác giả và có sức truyền cảm rất mạnh.
Ngôn ngữ trong Kinh Thi cũng hết sức tinh tế, phong phú, một thứ ngôn ngữ phân tích tính (analytic language) cao độ. Tả hình tượng, các động tác của tay có "chuyết", "thái", "tương", "ấp", "đề", "chiết", "đầu"...; tả ánh sáng mặt trời thường là "hạo", ánh sáng Mặt Trăng thường là "hoàng", chớp là "diệp", ánh sáng đèn nến là "tích"... Tả âm thanh, tiếng gà gáy là "giao giao", tiếng côn trùng là "yêu yêu", tiếng hươu là "u u", tiếng xe lớn là "thôn thôn", tiếng xe nhỏ là "lân lân", tiếng chặt gỗ là "khảm khảm", tiếng chim nước kêu là "quan quan".... Tuy vậy, vì đây là văn pháp và từ ngữ đời Chu nên từ trước đến nay, giữa các nhà chú giải Kinh Thi thường có sự bất đồng ý kiến.
Giá trị và ảnh hưởng
Ngay từ thời Tiền Tần, Thi và Thư đã được đặt sánh đôi với nhau, là hai điển tích được kết tập sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Quý tộc đời Chu rất coi trọng việc học Thi, vì ngoài mục đích dùng cho điển lễ, phúng gián, thơ còn được dùng trong quan hệ ngoại giao giữa các nước đời Xuân Thu, dùng để tỏ ý chí, làm cho lời nói thêm hoa mỹ. Khổng Tử nhấn mạnh việc học Thi tam bách, cho rằng "Không học thơ thì không biết nói". Ông ca tụng Thi là "tư vô tà", "có thể giúp hưng phấn, có thể giúp xem xét, có thể giúp hợp quần, có thể giúp biết oán giận. Gần có thể thờ cha, xa thờ vua, giúp biết được nhiều tên của chim muông, cây cỏ". Thiên Thái Bá sách Luận ngữ dẫn lời Khổng Tử "Thơ có thể gây hứng khởi tấm lòng ham điều thiện, ghét điều ác. Lễ có thể khiến cho ta lập thân ở xã hội. Âm nhạc có thể giúp ta hoàn thành việc tu dưỡng nhân cách.". Học giả các học phái đời Tiên Tần, không chỉ Nho gia, đều dùng Thi để ngâm nga, ca hát; dẫn Thi làm dẫn chứng cho đạo lý, khiến việc học Thi nối nhau không đứt đoạn, sang đời Chiến Quốc thì Thi trở thành sách giáo khoa của toàn xã hội. Sau đời Tần, Thi chẳng những không bị mai một qua cuộc "đốt sách chôn Nho" mà còn được suy tôn làm "kinh", được thu thập, biên tập, giải thích lại rất nhiều. Từ chỗ là điển tịch văn hóa xa xưa, là văn bản nghiên cứu của học giả, Kinh Thi trở thành nhận thức chung của toàn xã hội, chỗ dựa cơ bản của văn hóa và triết học Trung Quốc suốt hơn hai nghìn năm nay. Vai trò và ảnh hưởng của Kinh Thi là vô cùng to lớn, chẳng những được truyền bá trên toàn cõi Trung Quốc mà còn đến nhiều nơi trên thế giới, trở thành một phần của cải tinh thần của nhân loại.
• Về phương diện văn học, Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. Toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc phát triển dưới sự khơi gợi của tinh hoa Kinh Thi.
Thứ nhất, Kinh Thi đã khai phá một tầm nhìn rộng lớn bao la về đề tài cho văn học Trung Quốc. Các loại hình thường thấy trong thơ ca các dân tộc văn minh cổ đại thì có sử thi, tình ca, nhạc ca tế lễ, thơ kể việc lao động nông nghiệp, riêng Kinh Thi thì có đủ tất cả. Ngoài ra, Kinh Thi còn có thơ yến ẩm, điều này can hệ đến nền văn hóa lễ nhạc rực rỡ nổi lên đời nhà Chu. Thơ tế tự, thơ yến ẩm, thơ nông sự, thơ chiến tranh, thơ oán thán, thơ tình lưu hành đời sau ở Trung Quốc đều lấy Kinh Thi làm nguồn gốc.
Thứ hai, Kinh Thi đã đặt nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Những bài trong Kinh Thi tả cuộc sống hiện thực về nhiều mặt, thể hiện tình ý của những con người thuộc các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong cuộc sống hiện thực, phản ảnh hiện thực một cách trung thành. Không ít bài trong Phong và Nhã đã nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời thảm đạm và đau khổ của dân chúng, chĩa mũi nhọn phê phán sắc bén vào xã hội bất công, châm biếm xã hội, phê phán chính trị hủ bại. Tinh thần hiện thực đó rất được người đời sau tán thưởng. Tinh thần ưu quốc ưu dân trong các tác phẩm của Khuất Nguyên chính là kế thừa tinh thần đó của Kinh Thi. Tuân Khanh cũng nói trong bài thơ Quỷ thi "Thiên hạ loạn lạc, xin trình bài thơ trái lạ này", điều đó chứng tỏ ông cố ý dùng thơ để nói chuyện thời sự, ảnh hưởng của Kinh Thi rất rõ. Nhạc phủ đời Hán, thơ Kiến An, thơ Đường, từ Tống cho đến tạp kịch Nguyên và tiểu thuyết Minh - Thanh đều bắt nguồn hiện thực từ Kinh Thi.
Các nhà văn đời sau mỗi khi phản đối khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ đều lấy Kinh Thi làm dẫn chứng, như phong trào phản đối thơ phù hoa diễm lệ từ Đông Tấn đến đầu đời Đường, Trần Tử Ngang và Lý Bạch đã đưa Phong Nhã ra làm gương mẫu<ref>Xem bài tựa Túc tru thiên của Trần Tử Ngang và Cổ phong của Lý Bạch</ref>. Bạch Cư Dị cũng suy tôn "phong nhã tỉ hứng", cho rằng thơ ca phải "quan sát thời chính mà bổ khuyết", "nói lên tình cảnh của dân" (Thư gửi Nguyên Chẩn), tức là tiếp thu tinh thần hiện thực của Kinh Thi và đã thu được kết quả tốt đẹp qua phong trào Tân Nhạc phủ nổi tiếng.
Thứ ba, Kinh Thi có công khai phá mở đường cho phong cách nghệ thuật văn học Trung Quốc. Ba phép "phú", "tỉ", "hứng" được sử dụng thường xuyên trong Kinh Thi đã trở thành mẫu mực mà các nhà thơ nói riêng và các nhà văn nói chung phải học tập và phát huy. Ly tao dùng thể tỉ rất nhiều như Vương Dật đã nói trong sách Sở từ chương cú "Chim lành, cỏ thơm ví với kẻ trung trinh; chim ác vật thối ví với kẻ sàm nịnh, người đẹp Linh Tu ví với quân vương, gái đẹp Bật Phi ví với hiền thần, long ly loan phượng ví với quân tử, gió mây ví với tiểu nhân". Những tác phẩm sau này như bài Tặng Phổ đô Tào biệt của Bão Chiếu kể nỗi nhớ biệt ly, bài Minh nhạn của Hàn Dũ kể nỗi bần hàn, từ đầu đến cuối đều dùng chim nhạn để ví, những bài đó dường như chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Kinh Thi. Mười chín bài thơ trong Cổ thi đời Tấn, có mấy bài học phương pháp "hứng" như bài Thanh thanh lăng thượng bách (cây bách xanh trên gò) và Nhiêm nhiêm cô sinh trúc (cây trúc đứng một mình)...Kết cấu trùng điệp, hòa thanh trong thơ Kinh Thi còn được thấy trong các tác phẩm dân ca từ Nhạc phủ trở về sau, một số văn nhân cũng học tập như bài Tứ sầu của Trương Hành đời Đông Hán. Không chỉ văn học tiếp thu kĩ xảo nghệ thuật của Kinh Thi như tô đậm, so sánh, khoa trương, đối ngẫu, bài tỉ... mà đến cả nghệ thuật hí kịch, hội họa, âm nhạc... đều in hằn dấu vết của nghệ thuật Kinh Thi.
Thứ tư, về thể tài, Kinh Thi cũng có ảnh hưởng nhất định đến văn học đời sau. Ví dụ như quan hệ giữa phú và Kinh Thi đã được Ban Cố khẳng định "phú là dòng thơ cổ", Lưu Hiệp cũng nói phú là "lấy sinh mệnh ở thi nhân, khai thác ở Sở từ". Đại khái Kinh Thi ảnh hưởng đến phú về hai mặt, một là phúng dụ, hai là miêu tả, khắc họa. Ngoài phú ra, các loại văn vần như tụng, tán, bi, lũy, châm, minh... nói chung đều dùng câu bốn chữ, không thể nói là không chịu ảnh hưởng của Kinh Thi được
• Ngoài phương diện văn học quan trọng, xét trên các phương diện lịch sử xã hội, lịch sử chính trị, lịch sử kinh tế, lịch sử tư tưởng, lịch sử khoa học kĩ thuật..., ta đều đều có thể tìm thấy ở Kinh Thi một kho báu vô giá. Qua Kinh Thi, ta có thể biết được phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của các nước chư hầu ở Trung Quốc thời Chu. Vì thế nên Tưởng Tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nông nghệ thời cổ, Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung Quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là "thời kỳ thai nghén triết học".
• Về mặt kinh học, từ sau đời Hán, Kinh Thi được đưa vào Ngũ kinh, trở thành kinh điển của Nho gia, là tài liệu giáo dục quan trọng của Nho sĩ Trung Quốc. Mặc dù Kinh Thi vốn là tuyển tập văn học, nhưng do có thuyết cho rằng nó được Khổng Tử san định nên hậu nho đã "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify) thi tuyển ấy. Trào lưu này vốn xuất hiện ngay từ thời nhà Hán với các bản chú giải Kinh Thi như Mao truyện, Trịnh tiên, và tiêu biểu là bản Thi kinh tập truyện của Chu Hy đời Tống. Vì vậy, Kinh Thi còn mang tư cách của một tác phẩm kinh học Nho gia. Kinh Thi chỉ được dạy cho học trò khi họ hoàn thành xong việc học sách Tiểu học 小學 của Chu Hy và Tứ thư của Khổng, Tăng,Tư, Mạnh; khi đã tiếp thu một trình độ nhất định về ứng đối, tiến thoái, hiểu biết được căn bản "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số) mới được học Ngũ kinh và bộ Kinh đầu tiên phải học là Kinh Thi. Do vậy, Kinh Thi trở thành giáo trình chính trị - luân lý cho toàn bộ Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc suốt hai nghìn năm phong kiến, đã gánh vác nhiệm vụ giáo hóa muôn dân mà Khổng Tử gọi là Thi giáo. Kinh Thi cũng trở thành chuẩn mực trong các văn bản hành chính như chiếu lệnh của triều đình, tấu nghị của quần thần đến hoành phi câu đối trong cung điện hoặc ở các chùa quán, tư gia... đều lấy chữ và ý tứ trong Kinh Thi.
Ảnh hưởng của Kinh Thi còn lan đến các quốc gia đồng văn lân cận Trung Quốc như Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản và để lại nhiều dấu ấn trong các trước tác thư tịch, văn chương của các quốc gia này. Kinh Thi vẫn tiếp tục được nghiên cứu sâu rộng bởi giới "Thi học", không chỉ ở Trung Quốc, Việt Nam mà là trên toàn thế giới.
Trong văn hóa Việt Nam
Kinh điển Trung Hoa, trong đó có Kinh Thi, thâm nhập vào Việt Nam có thể kể từ khi bắt đầu thời Bắc thuộc khoảng đầu Công nguyên thông qua con đường giáo dục, mở trường học, truyền bá giáo lý Nho gia. Cho dù sự cai trị của người Hán không còn áp đặt lên Việt Nam từ sau năm 938, nhưng Nho giáo vẫn được coi trọng và truyền bá mạnh mẽ, dần dần trở thành ý thức hệ chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam. Kinh Thi bởi vậy cũng có ảnh hưởng to lớn đến văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng.
• Ảnh hưởng của Kinh Thi với văn hóa Việt Nam sâu rộng nhất là ở lĩnh vực nghệ thuật. Kinh Thi được coi là khuôn vàng thước ngọc cho sáng tác văn chương của nhà nho như Lê Quý Đôn từng ca ngợi "Thơ khởi phát từ trong lòng ta. Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, mà cũng có những bài các văn sĩ đời sau không theo kịp được, như thế là vì nó chân thực". Các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của văn học Việt Nam thời trung đại đều ít nhiều có điển cố, điển tích của Kinh Thi. Khi thì mượn ý tứ để sáng tác, khi thì mượn nguyên vần, có câu lấy hai đến ba hình ảnh trong Kinh Thi, thậm chí có bài phú lấy hầu hết ý trong Kinh Thi để thể hiện ý đồ sáng tác. Như bài thơ Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ tương truyền do vua Trần Trùng Quang sáng tác, đã dùng chữ "hoàng hoa" để chỉ việc đi sứ của Nguyễn Biểu, đó là lấy ý từ bài Hoàng hoàng giả hoa trong Tiểu nhã. Bài Cỗ đầu người của Nguyễn Biểu có câu "Ca lối lộc minh so cũng một", chính là điển tích trong bài Lộc minh của Kinh Thi. Câu thơ ở Chinh phụ ngâmNương song luống ngẩn ngơ lòngVắng chàng điểm phấn trang hồng với aikhá gần gũi với bài Bá hề (Vệ phong). Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là ví dụ tiêu biểu cho sự học tập ngôn ngữ Kinh Thi. Câu "Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì" lấy ý từ bài Đào yêu, lại có câuSầu đong càng lắc càng đầyBa thu dọn lại một ngày dài ghêcó thể coi là sự phiên dịch câu "Một ngày chẳng gặp, dài tựa ba thu" ở bài Thái cát (Vương phong). Thống kê cho thấy, các điển cố Kinh Thi xuất hiện thường xuyên trong văn học Việt Nam là "đào yêu", "lân chỉ", "thuyền bách"....
Trong diễn xướng, vở chèo Quan Âm Thị Kính mở đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi học bài, Thị Kính ngồi khâu. Thiện Sĩ học rất to tiếng và bài học của chàng chính là Quan thư (Chu Nam). Trong chèo Việt Nam còn có điệu Quân tử vu dịch với những câu như "Những khi tựa cửa, ngao ngán cảnh xa chồng. Rày ngóng mai trông...", Quân tử vu dịch chính là tên một bài thơ trong Vương phong.
• Về giáo dục và kinh học, Kinh Thi là tài liệu học tập thường xuyên của mọi Nho sĩ Việt Nam thời phong kiến mà bản Kinh Thi thông dụng nhất thời ấy là bản Mao thi có Chu Hy làm Truyện. Cùng với các bộ sách kinh điển khác của Nho giáo, Kinh Thi từng được dùng làm đề tài trong khoa cử của Việt Nam mà niên đại xưa nhất chúng ta còn biết là từ thời nhà Trần. Hai bộ sách Thi kinh sách lược 詩經策略 ký hiệu VHv.385 và VHv.433 hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam còn ghi chép được hơn 530 bài văn sách có đề tài trong Kinh Thi; sách Ngũ kinh tiết yếu 五經節要 của Bùi Huy Bích, Ngũ kinh loại thuyết 五經類說, Ngũ kinh xuyến châu tự 五經串珠序, đều tóm tắt nội dung và chú giải của năm kinh, trong đó có Kinh Thi, nhằm phục vụ cho học trò trong các kì khoa cử. Các loại sách tham khảo, "luyện thi" như vậy rất nhiều trong khi các trước tác khảo cứu bình giảng kinh văn ở Việt Nam rất ít ỏi. Bởi vì theo quy định từ đời Tống trở về sau, phàm học trò đi thi, khi giải nghĩa sách kinh điển thì phải theo đúng giải nghĩa của tiên nho (cụ thể là Tống Nho), nếu không dù sáng tạo sắc sảo vẫn bị đánh hỏng, khoa cử Việt Nam cũng vậy.
Tuy nhiên, trong giới học thuật Việt Nam vẫn luôn có ý thức bài bác, đưa ra ý kiến trái ngược với chú thích của Tống Nho. Như Hồ Quý Ly đã dịch Kinh Thi và viết sách Quốc ngữ Thi nghĩa 國語詩義 bằng chữ Nôm để giải thích lại Kinh Thi. Bài tựa do ông viết không theo ý của Chu Hy. Đặc biệt là vào khoảng thời Nguyễn, trào lưu "giải kinh học" (declassicize) "giải huyền thoại" (demythify) ở Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tiếp nhận Kinh Thi của nho giả Việt Nam. Tiêu biểu là Nguyễn Văn Siêu khi ông cho rằng lời khảo chứng của Chu Hy "vẫn còn nhiều điều đáng ngờ".
• Phong trào phiên dịch Kinh Thi sang chữ Nôm nở rộ với phát súng mở đầu Quốc ngữ Thi nghĩa của Hồ Quý Ly. Sau đó có Nguyễn Quý Cảnh thích nghĩa Tứ Thư Ngũ Kinh, Nguyễn Thiếp dịch Ngũ Kinh sang chữ Nôm theo yêu cầu của vua Quang Trung, Tùng Thiện Vương Miên Thẩm viết cuốn Thi kinh quốc âm ca 詩經國音歌, nhưng các tư liệu này đều chưa/không tìm được. Thư tịch dịch thuật Kinh Thi cổ xưa nhất của Việt Nam còn lại đến ngày nay là sách Thi kinh giải âm 詩經解音, chưa rõ dịch giả, khắc in năm 1714, rồi được viện Sùng Chính đời Tây Sơn cho tái bản theo chiếu chỉ giục gấp của Quang Trung. Sau đó là tác phẩm Thi kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa 詩經大全節要演義 khắc in các năm 1836 và 1837. Đó là các tác phẩm dịch Kinh Thi sang văn xuôi.
Các tác phẩm dịch Kinh Thi sang thơ gồm có Thập ngũ Quốc phong diễn âm 十五國風演音, Thi Kinh quốc ngữ ca 詩經國語歌 và một số bản dịch lẻ tẻ các thiên Thất nguyệt, Tiểu nhung của Phạm Đình Toái. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam còn lưu giữ được 8 tác phẩm, 19 văn bản, 31 ký hiệu sách với tổng số 5368 trang văn bản dịch.
Vào thế kỉ 20, Kinh Thi lại được dịch sang chữ Quốc ngữ, tập trung nhất là bốn bản dịch.
Đầu tiên là bản tuyển dịch của Tản Đà, Nghiêm Thượng Văn, Đặng Đức Tô do Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản ở Hà Nội năm 1924. Bản này chọn dịch 63 bài, nhưng mỗi bài không nhất thiết chọn hết, gồm các phần: Hán văn, phiên âm Hán Việt, chú thích, dịch thơ, giảng nghĩa. Năm 1992, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh cho in lại, có sửa chữa, in thêm 27 trang Dẫn nhập ở đầu do Trần Văn Chánh viết.
Hai là bản dịch Thi kinh tập truyện của Chu Hy do Tạ Quang Phát dịch, in lần đầu tiên năm 1968 ở Sài Gòn do Trung tâm Học liệu bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa phát hành nhưng mới được tập đầu. Sau đó, Nhà xuất bản Văn học tái bản trọn bộ ba tập vào năm 1991 và 1992, Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản vào năm 2003, Nhà xuất bản Văn học lại tái bản vào năm 2004. Bản này dịch hết 311 bài thơ, gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, bình giảng.
Ba là bản tuyển dịch Kinh Thi tinh tuyển của Phạm Thị Hảo do Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành với 100 bài thơ được dịch, mỗi bài gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, chú thích.
Cuối cùng là bản Kinh Thi in trong bộ sách Ngữ văn Hán Nôm: Ngũ kinh do Trần Lê Sáng giới thiệu và dịch chú, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2002 với 53 thiên được dịch, gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, chú thích. Ngoài ra, Trần Văn Chánh còn cho biết Nam Trân có một bản dịch nhưng chưa công bố.
• Từ nửa cuối thế kỉ 18, khi sưu tầm thơ ca dân gian Việt Nam, các nhà nho Việt Nam cũng có xu hướng học tập kết cấu của Kinh Thi. Trần Danh Án sưu tập và biên soạn Quốc phong giải trào 國風解嘲, Ngô Đình Thái tiếp tục sưu tập và biên soạn Nam phong giải trào 南風解嘲 và Nam phong nữ ngạn thi 南風女諺詩 . Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển soạn Quốc phong thi tập hợp thái 國風詩集合採, Nguyễn Văn Mại thì đặt là Việt Nam phong sử 越南封史.
Họ đều ghi chép tục ngữ ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích theo cách chú giải của Chu Hy vì có ý đem ca dao Việt Nam so sánh với thơ Quốc phong của Kinh Thi. Với hai câu "Thương chồng nên phải gắng công/ Nào ai xương sắt da đồng chi đây", Nguyễn Mại làm truyện rằng "Trưng Vương là đàn bà, báo thù cho chồng mà đánh đuổi Tô Định, thực là gan vàng dạ sắt". Hay như câu "Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng/ Thơm cành thơm rễ, người trồng cũng thơm" thì được ông cho là ám chỉ việc Lý Huệ Tông lấy bà Trần Thị Dung mà họ Trần được vinh hiển. Việc mô phỏng Truyện của Chu Hy để chú thích ca dao như vậy đôi khi là khiên cưỡng, gán ghép, làm sai lạc đi ý nghĩa của mỗi câu ca dao.
Xem thêm
Ngũ kinh
Thập tam kinh
Khổng Tử
Chu Hy
Sở từ''
Văn học Trung Quốc
Chú giải và thư mục
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
《诗经》荣获2010年"世界最美的书"称号 2010年02月22日09:36 来源:人民网-《人民日报》- Kinh Thi giành giải Sách đẹp nhất thế giới năm 2010 tại Leipzig, Đức
"Shi Jing" awarded title of "Most Beautiful Book in the World" People's Daily Online 15:57, ngày 22 tháng 2 năm 2010
Văn học Trung Quốc
Tác phẩm Nho giáo
Văn bản cổ điển Trung Quốc
|
25118
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9%20T%C3%A2m
|
Mỹ Tâm
|
Phan Thị Mỹ Tâm (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh Mỹ Tâm, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên kiêm nhà làm phim người Việt Nam. Được mệnh danh là "Nữ hoàng V-pop", nhiều tác giả và nhà báo trong nước lẫn quốc tế từng nhìn nhận cô là một trong những nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam. Sinh ra tại Đà Nẵng, Mỹ Tâm sớm bộc lộ năng khiếu về âm nhạc và liên tiếp giành chiến thắng tại nhiều cuộc thi ca hát lớn nhỏ lúc còn ở độ tuổi thiếu niên. Cô khởi nghiệp ca hát bằng album đầu tay Mãi yêu (2001) và album kế tiếp Đâu chỉ riêng em (2002) không lâu sau khi tốt nghiệp thủ khoa tại trường Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Album phòng thu thứ ba, Yesterday & Now (2003) giúp cô lập kỷ lục về doanh số bán ra tại thị trường trong nước.
Trong những năm còn lại của thập niên 2000, Mỹ Tâm phát hành một chuỗi các sản phẩm âm nhạc thành công về mặt chuyên môn và thương mại, bao gồm các album đề cử cho giải Cống hiến Hoàng hôn thức giấc (2005), Vút bay (2006), Trở lại (2008). Năm 2004, Mỹ Tâm tổ chức chương trình biểu diễn "Liveshow Ngày ấy & bây giờ", có mức kinh phí đầu tư lớn nhất tại Việt Nam lúc đó. Trong thập niên 2010, cô thực hiện chuyến lưu diễn Heartbeat và phát hành Tâm (2013), Tâm 9 (2017), liên tiếp gặt hái thành công thương mại. Bên cạnh việc tự sáng tác, cô còn hát các ca khúc của tác giả khác như "Tóc nâu môi trầm", "Họa mi tóc nâu", "Ước gì", "Hát với dòng sông", "Xích lô" hay "Cây đàn sinh viên".
Mỹ Tâm nằm trong danh sách những nghệ sĩ thu âm bán đĩa nhạc chạy nhất tại Việt Nam, với doanh thu khoảng 2 triệu bản. Trong suốt sự nghiệp âm nhạc của mình, Mỹ Tâm giành được 6 giải Cống hiến, 1 giải Âm nhạc châu Âu của MTV, 11 lần liên tiếp nhận giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và 3 năm liên tiếp nhận giải "Gương mặt của năm" của Giải thưởng Làn Sóng Xanh. Tại sự kiện Top Asia Corporate Ball 2014 ở Kuala Lumpur, cô thắng giải "Huyền thoại Âm nhạc châu Á" và là "Nghệ sĩ có album bán chạy nhất lãnh thổ" do Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) công nhận trong năm 2014. Cô xuất hiện trong danh sách "Top 50 Phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam" (2017) do tạp chí Forbes Vietnam công bố. Cô còn là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có một album lọt vào top 10 Billboard World Album vào tháng 1 năm 2018. Mỹ Tâm còn làm giám khảo cho các cuộc thi như Vietnam Idol: Thần tượng Âm nhạc Việt Nam (2012–13, 2023), Sao Mai điểm hẹn (2010), Giọng hát Việt (2015), góp mặt trong phim truyền hình Cho một tình yêu (2010). Năm 2019, cô lần đầu đạo diễn và cũng đóng chính trong bộ phim điện ảnh đầu tay Chị trợ lý của anh. Năm 2023, Mỹ Tâm làm đạo diễn cho bộ phim tài liệu Tri âm The Movie: Người giữ thời gian.
Cuộc đời và sự nghiệp
1981–2000: Thuở niên thiếu và khởi đầu sự nghiệp
Phan Thị Mỹ Tâm sinh ngày 16 tháng 1 năm 1981 tại Đà Nẵng, quê gốc tại xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cô là con út trong một gia đình gồm có tám anh chị em. Sinh ra trong gia đình không có truyền thống về âm nhạc, cô từng có 3 năm theo học ba lê từ lúc sáu tuổi, trước khi chuyển sang học chơi guitar và organ. Cho dù thường xuyên tham gia các hoạt động văn nghệ và Đoàn đội lúc ở trường, cô lại không xem ca hát là sự nghiệp tương lai của mình.
Trong lúc học cấp 2, cô giành giải nhất cuộc thi ca hát toàn trường, đoạt giải A "Liên hoan tiếng hát Miền Trung và Tây Nguyên" và tiếp tục giành Huy chương vàng Giọng hát hay "Xuân 1997" toàn thành phố Đà Nẵng khi mới 15 tuổi. Mỹ Tâm từng được chọn vào Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội tại Hà Nội, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên vào năm 1997, cô đến Thành phố Hồ Chí Minh để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Cùng năm đó, cô bắt đầu theo học Hệ trung cấp chính quy Khoa thanh nhạc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1997 đến năm 1998, cô liên tiếp tham gia những hội diễn văn nghệ và các cuộc thi giọng hát hay của Quận và Thành phố. Tháng 4 năm 1998, cô đoạt giải nhất ở hai hội thi đơn ca tại quận Tân Bình và Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào tháng 11 cùng năm, cô đến tham dự cuộc thi "Giọng ca vàng" do báo Mực Tím tổ chức. Cô giành chiến thắng chung cuộc trong buổi thi chung kết với bài hát "Nhớ mùa thu Hà Nội".
Vào đầu năm 1999, Mỹ Tâm trở thành ca sĩ độc quyền cho trung tâm Vafaco. Bản thu âm đầu tiên của cô thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhạc sĩ Nguyễn Hà, với ca khúc "Nhé anh". Cùng năm Mỹ Tâm cũng giành giải nhất "Hội diễn văn nghệ ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh 1999 - 2000". Đến giữa năm 2000, khi vừa kết thúc hợp đồng cùng công ty Vafaco, cô đồng sáng tác bài hát đầu tay mang tên "Mãi yêu" cùng nhạc sĩ Nguyễn Quang, "Mãi yêu" cùng phần trình bày lại nhạc phẩm "I Love You" của Céline Dion đã giúp cô đạt Huy chương Đồng tại Liên hoan Giọng ca vàng châu Á tại Thượng Hải, Trung Quốc.
2001–2002: Nổi tiếng với Tóc nâu môi trầm; album Mãi yêu và Đâu chỉ riêng em
Ngày 15 tháng 2 năm 2001, Mỹ Tâm cùng với ca sĩ như Thanh Lam, Trần Thu Hà và Thu Phương cho ra mắt CD Tóc nâu môi trầm do hãng phim Phương Nam thực hiện. "Tóc nâu môi trầm" cũng trở thành ca khúc gắn liền với tên tuổi của Mỹ Tâm kể từ đó. Được Mỹ Tâm lăng xê quá tích cực, tuy nhiên, ít ai biết rằng, ca khúc này lại vốn được nhạc sĩ Quốc Bảo sáng tác để dành riêng cho Hiền Thục. Trong buổi giao lưu với bạn đọc nhân dịp ra mắt sách 50 - Hồi ký không định xuất bản, nhạc sĩ Quốc Bảo lần đầu chia sẻ: "Tóc nâu môi trầm" được hãng phim Trẻ đặt hàng cho Thục; sau khi đã hòa âm và thực hiện xong bản thu, Hiền Thục cuối cùng lại từ chối không hát. Lý do được Hiền Thục đưa ra là lúc đó cô mới 20 tuổi nên không hiểu ý nghĩa bài hát. Bị Hiền Thục từ chối, nhạc sĩ Quốc Bảo đã nghĩ ngay đến Mỹ Tâm bởi anh không muốn bỏ phí sáng tác của mình. "Tôi rất tiếc nếu ca khúc không được phát hành, vì thế tôi nói với hãng phim Trẻ là sẽ phối lại và đưa cho người khác hát. Cuối cùng, tôi đưa cho Mỹ Tâm nghe bản demo ngay tại nhà. Chúng tôi quyết định phối lại bài này ở tông cao hơn và tiết tấu nhanh hơn" - Quốc Bảo nhớ lại. Anh hài hước cho biết thêm: "Mỹ Tâm có lẽ cũng không hiểu gì nhưng được cái Mỹ Tâm giống ca sĩ Khánh Ly là "em không hiểu nhưng em thích bài hát này. Rồi đến một lúc nào đó em sẽ hiểu".
Và đúng như dự đoán của nhạc sĩ Quốc Bảo, ca khúc này đã giúp hình ảnh của Mỹ Tâm đến gần hơn với đông đảo khán giả và trở thành một trong những ca khúc thành công nhất của Mỹ Tâm thời điểm đầu năm 2000.
Vào tháng 6 năm 2001, Mỹ Tâm tốt nghiệp thủ khoa hệ trung cấp Nhạc viện Thành phố với số điểm 9,5. Để có kết quả này, cô phải hạn chế đi diễn để tập trung vào việc học tập và luyện thanh. Cô phát hành album phòng thu đầu tay mang tựa đề Mãi yêu do hãng phim Phương Nam sản xuất năm 2001. Album có sự hợp tác cùng các nhạc sĩ Bảo Chấn ("Bài ca đêm"), Võ Thiện Thanh ("Sóng") hay Bảo Phúc ("Tình mãi xanh"). Mỹ Tâm đóng góp 2 bài hát tự sáng tác là "Mãi Yêu" và "Tình mơ", nhạc sĩ Quốc Bảo tham gia với 3 nhạc phẩm "Tóc nâu môi trầm", "Hai muơi" và "Em của tôi". Mãi yêu vượt doanh số 54.000 bản. Cùng năm 2001, Mỹ Tâm được Đài Truyền hình Việt Nam bình chọn là "Nhân vật tiêu biểu trong năm 2001" và lọt vào "Top 5 ca sĩ triển vọng" tại Giải thưởng âm nhạc Hoa Học Trò lần I do bạn đọc báo Hoa Học Trò bình chọn. Mỹ Tâm còn thực hiện video âm nhạc cho "Nhé anh" và "Tình mãi xanh" trong khuôn khổ cuộc thi VTV - Bài hát tôi yêu năm đầu tiên. Trong đêm trao giải diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2002 tại Nhà hát Hòa Bình, cô giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Bài hát được yêu thích nhất" cùng video "Nhé anh".
Năm 2002, Mỹ Tâm tổ chức chuyến lưu diễn xuyên Việt đầu tiên cùng nhãn hàng Sunsilk, mang tên "Sunsilk cùng Mỹ Tâm tỏa sáng ước mơ". Chương trình diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng, với dàn dựng đơn giản dành cho đối tượng học sinh, sinh viên. Cũng trong năm này, cô phát hành "Cây đàn sinh viên", đĩa đơn đầu tiên do Bến Thành Audio-Video sản xuất. Do nhạc sĩ Quốc An sáng tác, bài hát nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới trẻ và sinh viên, đồng thời mang về cho Mỹ Tâm giải "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải thưởng Mai Vàng lần VII. Vào tháng 5, cô cho phát hành CD "Ban mai tình yêu" do hãng phim Trẻ & Mỹ Tâm Production với hình thức của một album rút ngắn và đem về thành công với bài hát "Tình lỡ cách xa" phát hành kèm. Đây được xem là đĩa đơn đầu tiên do một ca sĩ tự sản xuất tại Việt Nam. Cô tiếp tục cho ra mắt đĩa đơn "Hát với dòng sông", một ca khúc sáng tác bởi nhạc sĩ Quốc An và Nhất Huy. Tuy không xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc chính thức nào và chỉ trình diễn trong một số chương trình ca nhạc, "Hát với dòng sông" trở thành một trong những bài hát trứ danh cho Mỹ Tâm. Bài hát giúp cho Quốc An giành giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích" tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2002.
Album phòng thu thứ hai của Mỹ Tâm, Đâu chỉ riêng em do hãng phim Phương Nam và Mỹ Tâm Production sản xuất giới thiệu lần đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tối 17 tháng 12 năm 2002. Trong album, Mỹ Tâm thể hiện lại các nhạc phẩm nước ngoài nổi tiếng: "Poupée de cire, poupée de son" và "Bang Bang (My Baby Shot Me Down)" phổ lời Việt. Video âm nhạc "Giấc mơ tình yêu" mà Mỹ Tâm thực hiện cùng đạo diễn Huỳnh Phúc Điền tại mùa giải VTV - Bài hát tôi yêu thứ 2 đã thắng giải "Video được khán giả yêu thích nhất" và "Video do Hội đồng Nghệ thuật bình chọn" trong buổi lễ diễn ra vào ngày 23 tháng 12. Lần đầu tiên Mỹ Tâm giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh 2002. Một liveshow nhỏ mang tên "Cho trái tim trẻ thơ tỏa sáng" được tổ chức tại Nhà văn hóa Thanh Niên TP.HCM và thực hiện bởi hãng phim Phương Nam hồi tháng 6.
2003–2005: Yesterday & Now và Hoàng hôn thức giấc
Vào tháng 6 năm 2003, Mỹ Tâm tiếp tục cho phát hành album Yesterday & Now (tựa tiếng Việt: Ngày ấy & Bây giờ) do Bến Thành Audio-Video thực hiện, gồm nhiều sáng tác mới của Trần Huân ("Họa mi tóc nâu"), Võ Thiện Thanh ("Ước gì") và Lê Quang ("Niềm tin chiến thắng"). Được xem là "album được yêu thích rộng rãi nhất" của cô, Yesterday & Now vượt 68.000 đĩa vào đầu tháng 3 năm 2005, mà đến nay đã đạt trên 100.000 bản — con số kỷ lục tại thị trường âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Tháng 7 năm 2003, album VCD Mãi yêu của cô được hãng phim Phương Nam phối hợp cùng Mỹ Tâm Production thực hiện. Trong album có 2 MV được quay ở Hàn Quốc gồm Mãi yêu và Giấc mơ tình yêu; 2 MV còn lại là Một lần và mãi mãi (với diễn viên Kiều Anh phụ hoạ) & Chiếc nhẫn cỏ (phụ hoạ bởi diễn viên Công Dũng) được quay ở Ninh Bình, Việt Nam. Album này phá vỡ kỷ lục đĩa VCD bán ra tại thị trường Việt Nam, với hơn 80.000 bản tính đến tháng 3 năm 2005. Bài hát "Ước gì" trích từ album Yesterday & Now mang về giải "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải Mai Vàng lần IX và giải Làn Sóng Xanh cho "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" thuộc về tác giả Võ Thiện Thanh; "Niềm tin chiến thắng" là một trong các sáng tác ca khúc cổ vũ thể thao xuất hiện trong Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, sau đó được hãng Pepsi chuyển nhượng lại làm nhạc hiệu quảng cáo cổ vũ cho đội tuyển Việt Nam; và "Họa mi tóc nâu" đem về cho tác giả Trần Huân giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2003. Trong cùng một hạng mục giải thưởng, Mỹ Tâm còn đem về cho nhạc sĩ Võ Thiện Thanh giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" với nhạc phẩm "Xích lô"; và một giải nữa cho "Ca sĩ được yêu thích nhất". Kết thúc năm 2003, Mỹ Tâm còn mang về giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" do Vietnamnet bình chọn.
Chiều ngày 20 tháng 1 năm 2004, hãng nước giải khát PepsiCo Việt Nam công bố Mỹ Tâm trở thành ca sĩ độc quyền trong 1 năm và lên đường sang thủ đô Luân Đôn để gặp gỡ những ngôi sao ca nhạc thế giới như Britney Spears, Enrique Iglesias, P!nk và Beyoncé. Vào cuối tháng 3 năm 2004, Mỹ Tâm trình diễn trong "Liveshow Ngày ấy & bây giờ" do Mỹ Tâm Production và hãng phim Phương Nam tổ chức, diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đêm nhạc tạo sự thu hút lớn từ dư luận, khi được đầu tư đến 3 tỷ đồng, mức kinh phí đầu tư lớn nhất trong lịch sử làm đêm nhạc của Việt Nam lúc đó. Đêm diễn đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh thu về 13.000 vé, trong luồng đánh giá trái chiều của các nhà phê bình. Buổi diễn tại Hà Nội ước tính có xấp xỉ một vạn khán giả đến sân Mỹ Đình để xem cô biểu diễn. Sau sự thành công của liveshow, VCD và DVD của chương trình cũng được Mỹ Tâm Production và hãng phim Phương Nam biên tập trong vòng 6 tháng và chính thức phát hành vào tháng 8 năm 2004. Chương trình giúp Mỹ Tâm tham gia mùa giải tiền Cống hiến năm 2004 bằng hai đề cử cho "Chương trình của năm" và "Ca sĩ của năm". Vào tháng 9, cô tiếp tục trình diễn tại đêm nhạc "Quê hương tuổi thơ tôi" nằm trong chương trình "Âm nhạc và những người bạn" do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng. Mỹ Tâm khởi động một chuỗi các liveshow khác mang tên "Sống hết mình", với đêm diễn đầu tiên vào ngày 20 tháng 10 năm 2004 ở Sân khấu Lan Anh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2004, cô cũng giành giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất" và giải "Lá phong" do Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh trao tặng.
Vào tháng 4 năm 2005, album phòng thu thứ 4 Hoàng hôn thức giấc (tựa tiếng Anh: The Color of my Life) ra mắt. Album thực hiện trong suốt 1 năm, với 14 bài hát được chọn xuất hiện chính thức, trong đó có 4 bài hát Mỹ Tâm tự sáng tác ("Vì đâu", "Nụ hôn bất ngờ", "Nhịp đập dại khờ" và "Nhớ"). Đồng thời, có hai bài hát mua bản quyền quốc tế ("Người yêu dấu ơi", nhạc Nhật; "Không còn yêu", nhạc Pháp), cùng các sáng tác mới của Lê Quang, Võ Thiện Thanh và Trần Huân. Album đạt 20.000 bản ngay trong tuần đầu phát hành và đem về cho Mỹ Tâm đề cử cho "Album của năm" và "Ca sĩ của năm" trong khuôn khổ giải Cống hiến năm 2005. Tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2005, Mỹ Tâm đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Tường Văn giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" với nhạc phẩm "Rồi mai thức giấc". Một chuyến lưu diễn xuyên Việt miễn phí dành cho sinh viên đầu tư hơn 3 tỷ đồng mang tên "Sức mạnh của những ước mơ" được Mỹ Tâm triển khai từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 22 tháng 10 năm 2005. Ước tính đã có hơn 12.000 khán giả đến dự đêm diễn đầu tiên tại khu ký túc xá Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (Thủ Đức). Một VCD/DVD thu trực tiếp từ chuyến lưu diễn mang tên "Liveshow Sức mạnh của những ước mơ" cùng CD Album Vol. 4, 5 - "Dường như ta đã" phát hành tháng 2 năm 2006.
2006–2009: Vút bay, Trở lại và Nhịp đập
Sau gần 3 tháng rời Việt Nam để thực hiện album, Mỹ Tâm công bố về album Vút bay (tựa Anh: Fly) trong một đêm nhạc vào ngày 21 tháng 12 năm 2006. Vút bay đánh dấu lần thực hiện album hoàn toàn tại nước ngoài đầu tiên của một ca sĩ Việt Nam. Ở Vút bay, Mỹ Tâm hợp tác cùng công ty Hàn Quốc Nurimaru Pictures, khi hãng tài trợ kinh phí và kết hợp cùng Bến Thành Audio - Video để phát hành album tại Việt Nam. Thực hiện từ ngày 7 tháng 10, Mỹ Tâm trải qua thời gian hai tháng để chuẩn bị cho album này tại Hàn Quốc và mô tả đây là sự đột phá mới của cô về phong cách biểu diễn. Album gồm 11 nhạc phẩm, trong đó có 4 ca khúc được Mỹ Tâm thể hiện bằng tiếng Hàn gồm "Dường như ta đã" (chuyển lời Hàn), "Hãy đến với em", "Giọt sương" và "Ngày hôm nay"; còn lại là các ca khúc nhạc Hàn lời Việt như "Bí mật", "Khóc một mình", "Ô cửa sổ" và "Em chờ anh". Trung Nghĩa từ Tuổi Trẻ nhận thấy album này giúp Mỹ Tâm có "cơ hội bước vào guồng máy công nghệ giải trí phát triển mạnh ở một nước châu Á" như Hàn Quốc. Bán ra 15.000 bản ở tuần đầu phát hành, doanh số của Vút bay kém khởi sắc tại cả hai thị trường Hàn Quốc và Việt Nam. Dù vậy, album vẫn giành được đề cử cho "Album của năm" và "Ca sĩ của năm" tại giải Cống hiến năm 2006, lần đầu giúp Mỹ Tâm giành giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" ở cương vị tác giả cho bài hát "Dường như ta đã" và "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải Làn Sóng Xanh 2006. Đến hết năm 2006, cô còn đem về giải Ngôi sao bạch kim cho "Nữ ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất".
Sau khi tạm vắng bóng trong năm 2007, Mỹ Tâm thực hiện dự án "Thời gian và tôi" kéo dài hơn 1 năm, kể từ ngày 25 tháng 2 năm 2008. Dự án này là sự hợp tác giữa công ty của cô và nhà sản xuất Cho Sung Jin của Hàn Quốc để thực hiện một số hoạt động, trong đó có việc thực hiện album mới, bắt đầu bằng chuyến đi sang Hàn Quốc từ ngày 29 tháng 2 đến đầu tháng 4. Vào đầu năm 2008, cô lên tiếng về album phòng thu thứ 6 Trở lại (tựa Anh: The Return), phát hành vào ngày 4 tháng 4 cùng năm. Album có tổng cộng 12 ca khúc pop ballad, gồm 2 sáng tác gốc của cô và các nhạc sĩ Trần Lê Quỳnh, Dương Thụ, Hồ Hoài Anh và Phương Uyên. Phần guitar xuất hiện trong album được nghệ sĩ Hàn Quốc Sam Lee thực hiện; trong khi nhạc sĩ Lee Han Boem, người từng hợp tác trong nhạc phẩm "Bí mật", lại tiếp tục tham gia trong ca khúc "Và em có anh" cùng nhạc sĩ Quốc Bảo. Bài hát "Hơi ấm ngày xưa" trích từ album này giúp Mỹ Tâm nhận được giải Mai Vàng 2008 cho "Nữ ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất". Vào ngày 1 tháng 9, cô phát hành album thứ 7 Nhịp đập (tựa Anh: To the beat). Cũng vào thời gian này, Mỹ Tâm tổ chức chuyến lưu diễn xuyên Việt mang chủ đề "Sóng đa tần", là lần đầu tiên có một ca sĩ người Việt thực hiện chuyến lưu diễn xuyên quốc gia tại năm thành phố trên cả nước. Một DVD "Live Concert Tour Sóng Đa Tần" phát hành ngày vào ngày 17 tháng 4 năm 2009. Từ năm 2007 đến năm 2008, Mỹ Tâm đã giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại lễ trao giải 10 năm Làn Sóng Xanh vào ngày 20 tháng 12 năm 2007, giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất" năm 2007, giải Mai Vàng năm 2008 cho "Nữ ca sĩ nhạc nhẹ", 2 lần liên tiếp giành giải HTV Awards cho "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất", đề cử "Album của năm" cho Trở lại và lần đầu tiên đoạt giải "Ca sĩ của năm" tại giải thưởng âm nhạc Cống hiến năm 2008.
2010–2012: Những giai điệu của thời gian và Cho một tình yêu
Ngày 13 tháng 4 năm 2010, Mỹ Tâm phát hành tập sách ảnh mang tựa đề Những giai điệu của thời gian, mở đầu cho dự án năm 2010 và 2011 với tên gọi "Melodies of Time". Một album đặc biệt có tên đầy đủ Những giai điệu của thời gian: Special Edition cũng đồng thời ra mắt, gồm một số bài hát của Ngô Thụy Miên, Quốc Dũng, Tâm Anh và Y Vân. Cuối năm 2010, Mỹ Tâm nhận lời làm giám khảo của cuộc thi âm nhạc Sao Mai điểm hẹn cùng nhạc sĩ Tuấn Khanh và Hồ Hoài Anh. Chương trình phát sóng từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 1 năm 2011. Sự xuất hiện của cô tại cuộc thi được đánh giá là thành công về mặt hình ảnh. Trong năm 2010, cô đoạt giải HTV Awards cho "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất", đem về 3 giải Làn Sóng Xanh cho "Nhạc sĩ được yêu thích nhất", "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Gương mặt của năm".
Năm 2010, Mỹ Tâm tham gia loạt phim truyền hình Cho một tình yêu do Nguyễn Tranh và Lê Hoá đạo diễn. Trong phim, cô lần đầu tham gia vai chính và làm đạo diễn âm nhạc. Với nội dung phỏng tác theo bộ phim "Corner with Love" của Đài Loan, Mỹ Tâm vào vai Linh Đan, một cô gái nuôi ước mơ về âm nhạc, cùng chuyện tình giữa cô, Hải Đông (Quang Dũng) và Trần Vũ (Tuấn Hưng). Cho một tình yêu nhận nhiều đánh giá tiêu cực, chủ yếu là ở phần diễn xuất của dàn diễn viên. Vào ngày 8 tháng 3 năm 2011, cô ra mắt bài hát "Xin lỗi", trước khi phát hành CD/DVD nhạc phim Cho một tình yêu vào tháng 9 năm 2011.
Đêm 14 tháng 1 năm 2011, Mỹ Tâm tổ chức "Liveshow Những giai điệu của thời gian - Kỉ niệm 10 năm ca hát" tại Thành phố Hồ Chí Minh với mục đích tri ân sự nghiệp âm nhạc. Đêm diễn nhận những phản hồi tích cực, trước khi đưa ra Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội vào ngày 16 tháng 3 cùng năm, với 1.000 vé đặt trước đã bán hết. Một DVD lưu lại đêm diễn mang tên "Liveshow Kỷ niệm 10 năm ca hát" cũng do Mỹ Tâm phát hành trong năm 2011. Ngày 8 tháng 9, cô mở thêm một chương trình ca nhạc kịch khác mang tên "Cho một tình yêu" tại Nhà hát Thành phố. Lấy bối cảnh ở bộ phim cùng tên mà cô thủ vai chính trong năm 2010, đêm diễn kể về câu chuyện tình tay ba của các nhân vật bằng 25 ca khúc cũ và mới cùng nhiều phong cách khác nhau. Đêm diễn nhận nhiều phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình, đề cao khả năng biên tập nội dung và đạo diễn của cô.
Vào ngày 22 tháng 10 năm 2011, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc "Đánh thức bình minh", nằm trong khuôn khổ Giải thưởng Video Âm nhạc Việt. Sau 11 tuần tranh giải, video giành chiến thắng chung cuộc với giải thưởng 300 triệu đồng và giải "Nữ ca sĩ xuất sắc nhất" trong đêm trao giải vào ngày 15 tháng 1 năm 2012, đồng thời được chọn trình chiếu trên kênh MTV châu Á. Mỹ Tâm tham gia ban giám khảo của cuộc thi truyền hình SV 2012 trong các trận đấu vòng loại khu vực miền Trung. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2012, cô cho ra mắt video âm nhạc "Sai" và phát hành đĩa đơn "Chuyện như chưa bắt đầu" vào ngày 2 tháng 6. Video âm nhạc của "Chuyện như chưa bắt đầu" đạt 1 triệu lượt xem chỉ trong vòng 1 tháng phát hành, đồng thời nhận một đề cử cho hạng mục "Bài hát của năm" trong giải Cống hiến lần thứ 8. Trong đêm trao giải, Mỹ Tâm lần thứ hai đem về giải "Ca sĩ của năm".
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2012, Mỹ Tâm tham gia trình diễn trong đêm nhạc MTV Exit bên cạnh nhóm nhạc Mỹ Simple Plan với mục đích tuyên truyền chống lại nạn buôn người trái phép, thu hút 40.000 khán giả tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, cô thông báo thay thế Siu Black làm giám khảo cho cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam mùa thứ 4, lên sóng từ ngày 17 tháng 8 năm 2012 đến 1 tháng 2 năm 2013. Ngày 1 tháng 8 năm 2012, Mỹ Tâm là nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên chính thức trở thành đối tác với hệ thống YouTube. Sau khi phát hành một trích đoạn ngắn vào tháng 11, video âm nhạc chính thức cho "Trắng đen" phát hành vào ngày 8 tháng 11, lọt vào danh sách video âm nhạc được bình luận và yêu thích nhiều nhất trong tuần đầu phát hành trên trang mạng xã hội YouTube. Năm 2012, Mỹ Tâm trở thành nghệ sĩ Việt đầu tiên đoạt giải thưởng Mnet Asian Music Awards (MAMA) cho "Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất" ("Best Asian Artist"). Tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2012, Mỹ Tâm giành chiến thắng tại hạng mục quan trọng "Gương mặt của năm" và giải "Ca sĩ được yêu thích nhất".
2013–2015: Tâm và Giọng hát Việt
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2013, Mỹ Tâm cho ra mắt album phòng thu thứ 8 mang tên Tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Là một sản phẩm mang giai điệu pop soul, album gồm 10 sáng tác gốc của chính cô với sự hợp tác của Cho Sung Jin và các nhà sản xuất âm nhạc Hàn Quốc khác. Album nhận những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình và giành thành công thương mại, đạt 5.000 bản chỉ trong ngày đầu tiên xuất bản và vươn lên vị trí đầu bảng nhiều tuần liền về số lượng tải trên hệ thống iTunes. Nhằm quảng bá cho album, nhiều video âm nhạc đã được đăng tải trên tài khoản YouTube chính thức của cô, với lượng tương tác cao trong thời gian phát hành.
Vào tháng 4 năm 2013, có thông tin Mỹ Tâm bị cắt suất diễn ở hai đêm nhạc trong khuôn khổ các hoạt động của cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế (DIFC) 2013 tại Đà Nẵng do đưa ra cát-xê quá cao. Cô sau đó đã lên tiếng phủ nhận sự việc và số tiền được cho là do quản lý của cô đưa ra. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2013, Mỹ Tâm tổ chức đêm nhạc theo phong cách acoustic mang tên "Gởi tình yêu của em" tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cô tiếp tục đem chương trình này đến biểu diễn tại Hà Nội vào ngày 26 tháng 10, trước khi tổ chức đêm diễn với mục đích từ thiện tại Đà Nẵng vào ngày 16 tháng 1 năm 2014. Một DVD ghi lại chương trình phát hành trong một buổi ký tặng diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 2014. Vào ngày 22 tháng 10, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc cho bài hát "Em phải làm sao", đạt mốc 200.000 lượt người xem trong ngày xuất bản và lọt vào 14 video âm nhạc được yêu thích nhất trong ngày. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2013, Mỹ Tâm xác nhận lần quay trở lại ngôi vị giám khảo trong mùa thứ 5 của cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam. Đêm công bố kết quả chung kết của cuộc thi diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 2014. Mỹ Tâm xuất hiện trong vai trò giám khảo chương trình số 11 của Gương mặt thân quen mùa thứ 2 phát sóng vào ngày 7 tháng 6. Vào ngày 21 tháng 7, Mỹ Tâm hợp tác trong ca khúc "Về bên anh" và "Nụ cười còn mãi", nằm trong album kỷ niệm 1 năm ngày mất của nam ca sĩ Wanbi Tuấn Anh, Khúc ca cho em.
Ngày 1 tháng 3 năm 2014, Mỹ Tâm với tư cách là khách mời trong liveshow Dấu ấn của ca sĩ Hiền Thục. Cùng là hai giọng ca đã có chỗ đứng trong lòng khán giả, lại là lần đầu tiên kết hợp cùng nhau, Hiền Thục và Mỹ Tâm dành khá nhiều thời gian để chỉnh sửa, tập luyện nhằm mang đến tiết mục ưng ý nhất. Không thường xuyên nói về nhau trên truyền thông nên ít ai biết Mỹ Tâm và Hiền Thục là đôi bạn thân cùng học khoa Thanh nhạc, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh khóa học năm 2000. Sau khi tốt nghiệp, cả hai chọn cho mình hướng đi riêng. Nhiều năm phấn đấu, họ đều là những ca sĩ có tên tuổi trong làng giải trí. Sự xuất hiện của cô trong liveshow của Hiền Thục chính là món quà lớn nhất mà "họa mi tóc nâu" dành tặng cô bạn thân. Sau gần 5 năm, bản song ca Tóc nâu môi trầm vẫn khiến người hâm mộ phát cuồng mỗi khi xem lại. Khi chia sẻ về việc từng có chung ca khúc này nhưng mức độ phủ sóng khác nhau, cả Mỹ Tâm và Hiền Thục đều khẳng định đây là kỉ niệm vui chứ không ai so đo, tính toán hơn thua.
Ngày 28 tháng 9 năm 2014, Mỹ Tâm công bố về chuyến lưu diễn miễn phí tại sân vận động đầu tiên của cô sau 10 năm—"Heartbeat", diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Chương trình thu hút 40.000 khán giả đến dự đêm diễn tại Sân vận động Quân khu 7 và khoảng 25.000 người tại Sân vận động Hàng Đẫy. Chương trình được giới phê bình đón nhận một cách tích cực, đồng thời mang về cho cô đề cử giải Cống hiến 2015 ở hạng mục "Chương trình của năm". Trong khi đó, video âm nhạc "Vì mình còn yêu" ra mắt trước thời điểm diễn ra đêm diễn "Heartbeat" lại nhận nhiều phản hồi tiêu cực áp đảo. Một DVD ghi lại chương trình giới thiệu tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 20 tháng 4 năm 2015, trước khi phát hành tại 2 đêm nhạc ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, lần lượt vào ngày 22 và 26 tháng 4 năm 2015, nhằm tái hiện lại không khí của "Heartbeat" với những tiết mục được yêu thích trong chương trình. DVD bán được 3.600 bản chỉ trong 4 tiếng ra mắt, thu về lợi nhuận hơn 1 tỷ 80 triệu đồng và tiếp tục chạm mốc 10.000 bản trong một tháng.
Ngày 12 tháng 4 năm 2015, Mỹ Tâm là người cuối cùng lên tiếng xác nhận tham gia dàn giám khảo trong mùa thi thứ 3 của chương trình Giọng hát Việt. Một ngày sau đó, cô cùng với Đàm Vĩnh Hưng, Thu Phương và Tuấn Hưng đã có buổi ghi hình đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đêm chung kết, thí sinh Đức Phúc từ đội của cô đã giành giải cao nhất. Cô phát hành video âm nhạc "Khi cô đơn anh gọi tên em", một sáng tác tiếng Nhật của Mayumi Itsuwa, vào ngày 17 tháng 10 năm 2015. Mỹ Tâm trình bày bài hát "Thứ tha" tại chương trình Thử thách cùng bước nhảy vào ngày 19 tháng 12 và ra mắt video âm nhạc phong cách thập niên 1960 vào ngày 22 tháng 12.
Trong lễ kỷ niệm hai năm thành lập kênh MTV Việt Nam vào ngày 27 tháng 9 năm 2013, Mỹ Tâm trở thành đại diện đầu tiên của Việt Nam tranh giải "Nghệ sĩ xuất sắc thế giới" ("Best Worldwide Act") tại giải thưởng Âm nhạc châu Âu của MTV, tổ chức vào ngày 10 tháng 11 tại Amsterdam, Hà Lan. Sau khi dừng bước trước đối thủ Lý Vũ Xuân đến từ Trung Quốc, Mỹ Tâm nhận cúp "Nghệ sĩ xuất sắc Đông Nam Á" từ đại diện của kênh MTV Việt Nam trên sân khấu Thần tượng âm nhạc Việt Nam đêm 23 tháng 3 năm 2014 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đêm trao giải diễn ra vào tháng 12 năm 2013, Mỹ Tâm giành giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất", trước khi cô công bố rút tên khỏi giải thưởng âm nhạc này kể từ năm 2014. Đài Truyền hình Việt Nam cũng xướng tên Mỹ Tâm khi trao giải "Ấn tượng VTV" cho "Nghệ sĩ ấn tượng nhất VTV 2014". Tối ngày 6 tháng 4 năm 2015, Mỹ Tâm lần thứ 3 giành giải Cống hiến cho "Ca sĩ của năm" trong lễ trao giải lần thứ 10, diễn ra tại Nhà hát Thành phố. Ngày 10 tháng 7, Mỹ Tâm được thông báo chiến thắng hạng mục "Nghệ sĩ châu Á có lượng tiêu thụ sản phẩm tốt nhất" ("Best selling artist of Asia") tại Big Apple Music Awards, giải thưởng tôn vinh nghệ sĩ thuộc lĩnh vực âm nhạc khu vực châu Á, vùng Kavkaz và Trung Đông; với lễ trao giải diễn ra vào ngày 12 tháng 9 tại Hamburg, Đức. Vào ngày 6 tháng 9, Mỹ Tâm lần thứ 2 giành Giải thưởng VTV 2015 cho "Ca sĩ ấn tượng".
2016–2018: Tâm 9 và liveshow "First love"
Vào ngày 16 tháng 1 năm 2016, Mỹ Tâm tổ chức đêm nhạc "Ô cửa màu xanh" tại Nhà hát Hòa Bình để tạo nguồn quỹ từ thiện tại một số tỉnh miền Nam và miền Trung. Các ca khúc trong chương trình được trình bày theo phong cách nhạc kịch và bolero, với sự xuất hiện của khách mời như Trọng Tấn và Quang Dũng. Buổi ký tặng DVD ghi hình của chương trình tổ chức vào tháng 1 năm 2017. Cô ra mắt video âm nhạc cho "Đôi mắt màu xanh" vào ngày 17 tháng 1, "Hãy về với nhau" vào đầu tháng 4 và "Cuộc tình không may" vào tháng 7 năm 2016.
Mỹ Tâm tham gia đêm nhạc miễn phí mừng ngày Quốc tế Phụ Nữ năm 2016 mang tên iConcert - Say it sing it share it do nhạc sĩ Nguyễn Hà cùng ê-kíp Nguyễn Production thực hiện tại sân vận động Quân khu 7. Chương trình này xác lập kỷ lục Guinness Việt Nam mới về số người tặng hoa cho nhau nhiều nhất trong một đêm nhạc. Ngày 26 tháng 1 năm 2017, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc cho ca khúc "Anh thì không". Sau khi ông Vũ Xuân Hùng, tác giả phổ lời của bài hát, lên tiếng vi phạm tác quyền, Mỹ Tâm đã công bố lời xin lỗi, khóa video để tôn trọng bản quyền và công bố một phiên bản khác do Châu Đăng Khoa viết lời ngày 21 tháng 2. Ngày 28 tháng 2 năm 2017, Mỹ Tâm công bố tham gia làm giám khảo chương trình Phiên bản hoàn hảo, bên cạnh Nguyễn Quang Dũng. Chương trình lên sóng trong 15 tập, bắt đầu từ ngày 8 tháng 3 năm 2017. Ngày 4 tháng 8 năm 2017, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc "Điều tuyệt vời".
Ngày 19 tháng 11 năm 2017, Mỹ Tâm công bố về album Tâm 9, được thực hiện trong vòng 1 năm, với các sáng tác "ẩn chứa những góc sâu thẳm, chín muồi nhất trong đời sống tình cảm" của cô. Album phát hành ngày 3 tháng 12, gồm 13 ca khúc pop soul do Mỹ Tâm, Đức Trí, Khắc Hưng, Vũ Cát Tường và Phan Mạnh Quỳnh sáng tác. Hai ca khúc trong album, "Đâu chỉ riêng em" và "Đừng hỏi em", được cô phát hành video âm nhạc lần lượt vào tháng 7 và tháng 10 năm 2017. Album tiêu thụ 20.000 bản, trong đó 5.000 bản bán ra chỉ trong ngày phát hành, phá vỡ kỷ lục của album Tâm năm 2014. Đây là album đầu tiên của một ca sĩ Việt Nam lọt vào top 10 Billboard World Albums và nằm trong danh sách album nhạc soul thịnh hành nhất trên kênh mua sắm trực tuyến Amazon. Để quảng bá, Mỹ Tâm thực hiện nhiều buổi ký tặng đĩa ở phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm, phố đi bộ Nguyễn Huệ và công viên Phạm Văn Đồng (Đà Nẵng) vào đầu tháng 12.
Tháng 3 năm 2018, Mỹ Tâm tái bản lại album đầu tay Mãi yêu sau 17 năm phát hành, cũng như góp giọng vào ca khúc "Rực rỡ tháng năm", trích từ bộ phim Tháng năm rực rỡ của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng. Tại lễ trao giải Cống hiến lần thứ 13, Mỹ Tâm trở lại danh sách bình chọn sau ba năm vắng bóng bằng ba đề cử, giành chiến thắng tại các hạng mục "Ca sĩ của năm" và "Album của năm" cho Tâm 9 vào ngày 22 tháng 3 năm 2018. Vào ngày 20 tháng 10 năm 2018, Mỹ Tâm tổ chức liveshow "First Love" tại sân vận động Jangchung, Hàn Quốc.
2019–nay: Chị trợ lý của anh, liveshow Tri âm và My Soul 1981
Cuối năm 2018, Mỹ Tâm ra mắt dự án phim điện ảnh đầu tay mang tên Chị trợ lý của anh (với vai trò là đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất, diễn viên) hợp tác cùng nam diễn viên Mai Tài Phến. Phim mang đến cho khán giả nhiều tình tiết bất ngờ và thú vị. Mỹ Tâm lấy tên Mira Dương (Mira có nghĩa là tình yêu, bình yên còn Dương là họ mẹ cô).
Ngày 24 tháng 9 năm 2019, Mỹ Tâm đã chính thức tung ra bản ballad mới mang tên "Anh đợi em được không?". Chỉ sau 12 giờ lên sóng, video âm nhạc đã đạt 1,2 triệu lượt xem. Ngày 29 tháng 9 năm 2020, Mỹ Tâm chính thức ra mắt video âm nhạc "Đúng cũng thành sai" do nhạc sĩ Khắc Hưng sáng tác. Ngày 30 tháng 12 năm 2020, Mỹ Tâm chính thức ra mắt video âm nhạc "Anh chưa biết đâu". Ca khúc do nhạc sĩ Khắc Hưng sáng tác, mang thể loại latin với tiết tấu nhanh rộn ràng cùng phần giai điệu mới lạ nhưng bắt tai và dễ nhớ.
Sau hơn 1 tháng tạm hoãn để chung tay cùng cộng đồng chống dịch COVID-19, Mỹ Tâm công bố trở lại với đêm hoà nhạc có tựa đề Tri âm, dành để tri ân những người đã theo dõi và ủng hộ cô trong suốt sự nghiệp của mình. Sự kiện sẽ diễn ra tại Sân vận động Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25 tháng 4 năm 2021 và Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội vào ngày 1 tháng 5 năm 2021. Nhưng sau đó, trên trang Facebook của mình, ekip của nữ ca sĩ Mỹ Tâm đã có thông báo về việc thay đổi địa điểm tổ chức đêm hoà nhạc tại Thành phố Hồ Chí Minh từ sân vận động Quân khu 7 sang Sân vận động Phú Thọ do nhiều lí do chủ quan lẫn khách quan. Để quảng bá cho đêm hoà nhạc, cô đã phát hành đĩa đơn "Hào quang" cùng một video âm nhạc trên YouTube, tái hiện lại toàn bộ sự nghiệp của cô trong vòng 20 năm. Riêng với việc tổ chức liveshow Tri âm tại Hà Nội, Mỹ Tâm cùng ekip tổ chức phải dời lịch diễn do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Mãi đến ngày 15 tháng 9 năm 2022, Mỹ Tâm chính thức công bố thông tin tổ chức liveshow Tri âm tại Hà Nội ngày 5 tháng 11 cùng năm tại Sân vận động Mỹ Đình sau 2 lần bị hoãn do dịch COVID-19. Ngày 17 tháng 10 năm 2021, Mỹ Tâm phát hành album tuyển tập Bolero Edition, bao gồm 11 ca khúc quen thuộc của dòng nhạc bolero như: "Sầu tím thiệp hồng", "Sầu lẻ bóng", "Hoa trinh nữ", "Đôi mắt người xưa", "Chỉ hai đứa mình thôi nhé", "Xin thời gian qua mau", "Chuyện tình không suy tư",...
Ngày 17 tháng 12 năm 2021, Mỹ Tâm đã chính thức công bố thông tin sẽ tổ chức một chuỗi đêm nhạc trực tuyến mang tên My Soul 1981. Ba đêm nhạc đầu tiên của My Soul 1981 sẽ được phát sóng trực tuyến độc quyền trên ứng dụng NETHub vào các ngày 7 tháng 1, 16 tháng 1 và 14 tháng 2 năm 2022. Sau khi chuỗi đêm nhạc trực tuyến đã tạo nên cơn sốt trên diện rộng, Mỹ Tâm quyết định thực hiện đêm nhạc Gala My Soul 1981 dưới hình thức offline ở Đà Lạt vào hai ngày 26 tháng 3 và 27 tháng 3. Mỹ Tâm trở lại làm giám khảo trong Thần tượng âm nhạc Việt Nam – Vietnam Idol 2023 sau 7 năm chương trình vắng bóng. Theo nguồn tin từ Netflix, bộ phim tài liệu âm nhạc Tri âm The Movie: Người giữ thời gian của Mỹ Tâm sẽ phát hành toàn cầu tại hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ vào ngày 29 tháng 7 năm 2023, sau khi ra rạp vào tháng 4 cùng năm và thu về hơn 12 tỷ đồng sau 9 ngày phát hành. Tháng 11, Mỹ Tâm thông báo về sự trở lại của đêm nhạc My Soul 1981 mùa 2 sẽ được tổ chức tại Hạ Long, Quảng Ninh vào ngày 9 tháng 12. Ngày 10 cùng tháng, Mỹ Tâm phát hành ca khúc tự sáng tác mang tên "Vì em tất cả".
Phong cách nghệ thuật
Từ khi khởi nghiệp bằng album đầu tay vào năm 2001, phong cách âm nhạc của Mỹ Tâm thường được ghi nhận bởi những ảnh hưởng mạnh mẽ của dòng nhạc trẻ. Dù vậy, cô cũng từng tham gia thể nghiệm với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Nếu như ở Hoàng hôn thức giấc (2005), các sáng tác mang yếu tố của dòng nhạc Trung Đông nổi bật hơn cả, thì âm điệu R&B, dance và hip-hop lại được thể hiện rõ rệt với Vút bay (2006) và Nhịp đập (2008). Ngoài ra, cô cũng từng thử sức với dòng nhạc trữ tình, nhạc Latin, ballad hay pop soul. Phong cách trình diễn của cô được so sánh với Britney Spears và Jennifer Lopez. Về ca từ, các nhạc phẩm mà Mỹ Tâm thể hiện thường mang các chủ đề liên quan đến tình cảm lứa đôi, tình bạn và cuộc sống đời thường. Trang Vietnamplus khẳng định Mỹ Tâm "đã mở rộng thế giới pop 'mộc mạc' của mình bằng sự kết hợp và pha trộn nhiều thể loại âm nhạc trẻ trung, thời thượng, hấp dẫn giới trẻ".
Mỹ Tâm sở hữu chất giọng nữ trung, với âm vực rộng 3 quãng tám, quãng giọng cô trải dài từ B2 đến C6. Nhà báo Tùng Lâm đánh giá "Giọng hát điêu luyện, mạnh mẽ và đầy xúc cảm của Mỹ Tâm không chỉ giúp cô có chỗ đứng vững chắc trong làng nhạc Việt, mà còn là cơ sở để người hâm mộ đặt trọn vẹn niềm tin khi cô đại diện cho Việt Nam 'đem chuông đi đánh xứ người'."
Mỹ Tâm còn được công chúng nhìn nhận ở cương vị của một nhạc sĩ. Cô bắt đầu viết nhạc từ khi còn ngồi ở ghế nhà trường tại Đà Nẵng và tiếp tục theo đuổi lối sáng tác chuyên nghiệp từ khi theo học thanh nhạc. Trong khi các nhạc phẩm trước đây của cô như "Tình mơ", "Mãi yêu" hoặc các bài hát nhạc nước ngoài phổ lời Việt ít nhận được sự chú ý của khán giả, thì sự nghiệp sáng tác của cô chỉ bắt đầu nở rộ kể từ khi Hoàng hôn thức giấc (2005) được ra mắt. Trong bài nhận xét album Tâm (2013) trên tờ Tuổi Trẻ, nhà báo Quỳnh Nguyễn từng nhận định "Có lẽ Tâm là ngôi sao nhạc pop duy nhất của Việt Nam thể hiện thành công ca khúc của nhiều nhạc sĩ khác nhau nhưng cũng thành công với những sáng tác của chính mình." Vân An của VnExpress cho rằng "Mỹ Tâm có tài dẫn chuyện vừa chân thật, 'tưng tửng' nhưng lại cuốn hút đến kỳ lạ" khi "dẫn dắt khán giả hòa nhịp cùng dòng cảm xúc của mình để họ cảm được bài hát ấy một cách nhẹ nhàng và tự nhiên nhất".
Các hoạt động khác
Thương hiệu riêng
Vào năm 2007, Mỹ Tâm cho ra mắt công ty giải trí MT Entertainment do chính cô làm giám đốc, đồng thời công bố về nhãn hiệu sữa tắm và nước hoa mang tên "My Time", phối hợp sản xuất với Công ty Mỹ phẩm Sài Gòn. Đây được xem là nhãn hiệu nước hoa đầu tiên do một ca sĩ Việt Nam sở hữu, với 4 mùi hương khác nhau và thực hiện trong vòng 8 tháng.
Vào năm 2012, Mỹ Tâm lên tiếng về thương hiệu thời trang "Nightingale" mà cô tự thiết kế, với thời gian hơn 2 năm chuẩn bị. Cô làm mẫu và công bố dòng thời trang này trên chương trình "Thời trang & Đam mê" vào tháng 8 năm 2013. Trong khi "Nightingale" nhận được những phản hồi trái chiều, cô vẫn tiếp tục cho ra mắt bộ sưu tập dành cho mùa hè vào tháng 4 năm 2014.
Hoạt động từ thiện
Trong chuyến lưu diễn phục vụ miễn phí cho sinh viên xuyên Việt "Sức mạnh của những ước mơ" vào năm 2005, cô hợp tác cùng Honda Việt Nam trong việc trao 50 suất học bổng trị giá 50 triệu đồng cho sinh viên nghèo vượt khó tại mỗi thành phố diễn ra chương trình. Nhân đợt phân phối 7.000 sản phẩm nước hoa "My Time" đầu tiên ra thị trường, Mỹ Tâm trích 10.000 đồng trên doanh thu mỗi chai nước hoa và 70 triệu đồng để làm từ thiện. Đêm diễn "Gởi tình yêu của em" tại Đà Nẵng vào năm 2014 cũng được cô tổ chức nhằm mục đích từ thiện, khi dùng lợi nhuận của việc bán vé để thực hiện chương trình trao quà cho bà con miền Trung chịu nhiều khó khăn và thiệt hại sau những trận bão lũ vào dịp Tết Nguyên Đán.
Ngày 4 tháng 4 năm 2008, Mỹ Tâm thành lập quỹ từ thiện "MT Foundation", nhắm tới đối tượng là những trẻ em mồ côi, khuyết tật và các trẻ em nghèo hiếu học. Bằng việc trích một phần lợi nhuận từ các sản phẩm âm nhạc và kinh doanh riêng, mỗi tháng Mỹ Tâm đều mang những phần quà và tiền từ MT Foundation đến với những mảnh đời cơ cực, cần giúp đỡ và chia sẻ. Bên cạnh đó, cô còn tổ chức chương trình "Nâng bước ngày mai", một hoạt động thường niên của quỹ "MT Foundation", với ước tính trung bình 700 suất học bổng, tương đương 1.4 tỷ đồng được trao cho học sinh nghèo hiếu học ở các tỉnh, bên cạnh các hoạt động từ thiện khác dành cho bà con nghèo diễn ra vào mỗi năm.
Thành tựu và di sản
Được mệnh danh là "nữ hoàng V-pop", nhiều tác giả và nhà báo trong nước lẫn quốc tế từng nhìn nhận Mỹ Tâm là một trong những nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam. Trong danh sách 12 nghệ sĩ "Hiện tượng Pop toàn cầu mà bạn chưa biết" của ABC News, Mỹ Tâm được đánh giá "là một trong những giọng hát được công nhận của khu vực Đông Nam Á". Tờ Tuổi trẻ khẳng định: "Dù yêu thích giọng hát Mỹ Tâm hay không thì cũng rất khó phủ nhận vị trí 'đầu bảng' của cô trong thị trường nhạc trẻ suốt 15 năm qua. Mỹ Tâm cũng là nữ ca sĩ thuộc thế hệ 8X hiếm hoi được cả giới chuyên môn lẫn công chúng yêu mến". Trong quyển Popular Music in Vietnam: The Politics of Remembering, the Economics of Forgetting, nhà phân tích Dale A. Olsen có gọi Mỹ Tâm là "ca sĩ nhạc pop nổi tiếng nhất tại Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21".
Nhiều đồng nghiệp và nghệ sĩ khác từng đề cập đến Mỹ Tâm như là nhân tố có ảnh hưởng hoặc là ca sĩ mà họ yêu mến, bao gồm Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Hiền Thục, Hồng Đăng, Nguyễn Hà, Phú Quang, Xuân Lan, Nam Cường, Nguyễn Ngọc Ngạn và Đặng Thu Thảo. Trong cuốn tản văn Thị Dân (2010), nhạc sĩ Quốc Bảo có chia sẻ: "Tâm đã, đang và sẽ mãi mãi là 1 ngôi sao. Nhưng với tôi, Tâm là cô bé... chẳng sai chút nào. Em nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, hồn nhiên nhưng sâu lắng, giản dị nhưng nhiều khát vọng..." Nữ nghệ sĩ Hàn Quốc Park Jeong-Ah từng chia sẻ mình yêu mến Mỹ Tâm nhờ phong cách ấn tượng trong một lần sang Việt Nam biểu diễn. Là một cộng tác viên lâu năm của Mỹ Tâm, nhà sản xuất âm nhạc Hàn Quốc Cho Sung Jin chia sẻ: "Tôi luôn nhìn thấy sự đam mê, những kỹ năng âm nhạc của cô phát triển hơn sau mỗi ngày" và khẳng định "Mỹ Tâm chính là nghệ sĩ hoàn hảo nhất trong cả cuộc đời âm nhạc của tôi". Sau đêm lưu diễn MTV Exit diễn ra vào tháng 5 năm 2012, nhóm nhạc Simple Plan cho rằng Mỹ Tâm là "siêu sao ca nhạc" và "là một tài năng lớn, có phong cách làm việc chuyên nghiệp". Theo Olsen, việc tham gia của Mỹ Tâm trong việc chuyển ngữ, trình bày và thu âm các bài hát nước ngoài phần nào giúp cô được nhìn nhận là người đi đầu trong các vấn đề về tác quyền tại Việt Nam. Từ khi là đối tác của hệ thống YouTube vào năm 2012, Mỹ Tâm đã rút tên khỏi các trang nhạc số tại Việt Nam nhằm chuẩn hóa các vấn đề bản quyền ở phạm vi trong nước và quốc tế, đồng thời đưa âm nhạc của cô vào khuôn khổ các hệ thống nhạc trả phí.
Trong xuyên suốt sự nghiệp, Mỹ Tâm giành được nhiều giải thưởng, đề cử và vinh danh trong nước và quốc tế. Cho đến nay, cô đã giành được 5 giải Cống hiến, 3 giải HTV Awards, 3 giải Mai Vàng, 1 giải Mnet Asian Music Awards, 1 giải Âm nhạc châu Âu của MTV, 11 lần liên tiếp nhận giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và 3 năm liên tiếp nhận giải "Gương mặt của năm" của Giải thưởng Làn Sóng Xanh. Vào ngày 27 tháng 5, Mỹ Tâm đến dự lễ trao giải diễn ra tại Monaco và trở thành một trong 25 nghệ sĩ khắp thế giới nhận giải "Nghệ sĩ có album bán chạy nhất lãnh thổ" ("Best-selling artists from each major territory") do Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) chứng nhận. Trong sự kiện "Top Asia Corporate Ball 2014" được bảo trợ bởi Bộ Văn hoá Du lịch Malaysia và Bộ Công Thương Malaysia diễn ra vào ngày 21 tháng 11, Mỹ Tâm được vinh danh với giải "Huyền thoại Âm nhạc châu Á" ("Asia's Music Legend") dành cho những nghệ sĩ xuất sắc và biểu tượng trong lĩnh vực âm nhạc. Tháng 3 năm 2017, Mỹ Tâm là một trong 7 nhân vật giải trí xuất hiện trong "Top 50 Phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam năm 2017" do tạp chí Forbes công bố.
Mỹ Tâm còn là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có một album lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Billboard World Albums vào tháng 1 năm 2018. Cô là nữ nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên có 4 MV đạt 100 triệu lượt xem trên YouTube bao gồm "Đâu chỉ riêng em", "Người hãy quên em đi", "Đừng hỏi em" và "Đúng cũng thành sai".
Danh sách đĩa nhạc
Album phòng thu
Mãi yêu (2001)
Đâu chỉ riêng em (2002)
Yesterday & Now (2003)
Hoàng hôn thức giấc (2005)
Vút bay (2006)
Trở lại (2008)
To the Beat (2008)
Tâm (2013)
Tâm 9 (2017)
Danh sách phim
Cho một tình yêu (2010–2011) – vai Linh Đan
Chị trợ lý của anh (2019) – vai Khả Doanh
Tri âm The Movie: Người giữ thời gian (2023) – chính cô
Biểu diễn trực tiếp
Liveshow: Cùng Sunsilk tỏa sáng ước mơ (2002)
Liveshow: Yesterday & Now (Ngày ấy & Bây giờ) (2004)
Liveshow: Âm nhạc và những người bạn - Quê hương tuối thơ tôi (2004)
Liveshow: Sống hết mình (2004)
Live Tour: The Power of Dreams (Sức mạnh của những ước mơ) (2006)
Live Concert Tour: To The Beat (Sóng đa tần) (2008)
Liveshow: Melodies of Times (Những giai điệu của thời gian) (2011)
Live Concert: Cho một tình yêu (2011)
Live Concert: Letter To My Love (Gởi tình yêu của em) (2013)
Live Concert Tour: Heartbeat (2014)
Live Concert: Dreaming Together In Osaka (2015)
Liveshow: Ô Cửa Màu Xanh (2016)
Showcase: Tâm 9 Showcase (2017)
Live Concert: First Love (2018)
Liveshow: Tri âm (2021–2022)
My Soul 1981 (2022, 2023)
Tham khảo
Chú giải
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Người giành giải Mai vàng
Ca sĩ Đà Nẵng
Người Quảng Nam
Nữ ca sĩ thế kỷ 20
Người đoạt giải World Music Awards
Nữ diễn viên truyền hình Việt Nam
Ca sĩ pop Việt Nam
Nữ doanh nhân Việt Nam
Ca sĩ tiếng Việt
Người giành giải Âm nhạc Cống hiến
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
Nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam
Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 20
Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 21
Nhà viết kịch Việt Nam
Nhà soạn kịch thế kỷ 20
Nhà soạn kịch thế kỷ 21
Nữ ca sĩ thế kỷ 21
Nữ nhạc sĩ thế kỷ 21
Nhạc sĩ Việt Nam
Người họ Phan
|
25136
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre%20de%20Fermat
|
Pierre de Fermat
|
Pierre de Fermat (phiên âm: "Pi-e Đờ Phéc-ma", 17 tháng 8 năm 1607 tại Pháp – 12 tháng 1 năm 1665) là một học giả nghiệp dư vĩ đại, một nhà toán học nổi tiếng và cha đẻ của lý thuyết số hiện đại. Xuất thân từ một gia đình khá giả, ông học ở Toulouse và lấy bằng cử nhân luật dân sự rồi làm chánh án. Chỉ trừ gia đình và bạn bè tâm giao, chẳng ai biết ông vô cùng say mê toán. Mãi sau khi Pierre de Fermat mất, người con trai mới in dần các công trình của cha kể từ năm 1670. Năm 1896, hầu hết các tác phẩm của Fermat được ấn hành thành 4 tập dày. Qua đó, người đời vô cùng ngạc nhiên và khâm phục trước sức đóng góp dồi dào của ông. Chính ông là người sáng lập lý thuyết số hiện đại, trong đó có 2 định lý nổi bật: định lý nhỏ Fermat và định lý lớn Fermat (định lý cuối cùng của Fermat).
Trong hình học, ông phát triển phương pháp tọa độ, lập phương trình đường thẳng và các đường cong bậc hai rồi chứng minh rằng các đường cong nọ chính là các thiết diện cônic. Trong giải tích, ông nêu các quy tắc lấy đạo hàm của hàm mũ với số mũ hữu tỷ bất kỳ, tìm cực trị, tính tích phân những hàm mũ với số mũ phân số và số mũ âm. Nguyên lý Fermat về truyền sáng lại là một định luật quan trọng của quang học.
Dù hoạt động khoa học kiên trì và giàu nhiệt huyết, đem lại nhiều thành quả to lớn như vậy, trong suốt cuộc đời Pierre de Fermat vẫn không coi việc nghiên cứu toán làm nghề chính thức.
Tiểu sử
Pierre de Fermat sinh ngày 17/8/1601 tại xã Beaumont-de-Lomagne, tỉnh Tarn-et-Garonne vùng Occitanie nước Pháp trong một gia đình khá giả. Cha ông, Dominique Fermat là một thương gia buôn bán da. Cha ông có 2 vợ, Françoise Cazeneuve và Claire de Long.
Ông theo học tại Đại học Orléanstừ năm 1623 và nhận bằng cử nhân luật năm 1626 trước khi đến Bordeaux. Ở Bordeaux, ông bắt đầu nghiên cứu nghiêm túc về toán học.
Năm 1630, ông mua văn phòng của một ủy viên hội đồng nghị viện Parlement of Toulouse, một trong những Tòa án Tối cao Pháp viện, và đã được tuyên thệ bởi Grand Chambre vào tháng 5 năm 1631. Ông làm việc trong văn phòng này từ đó cho đến cuối đời. Bằng cách đó, ông đã được đổi tên từ Pierre Fermat thành Pierre de Fermat. Ông thông thạo 6 ngôn ngữ: Tiếng Pháp, Latin, Occitan, tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
Ông để lại phần lớn các công trình của mình dưới dạng thư viết cho những người bạn của ông, thường có khá ít hoặc không có nhiều bằng chứng về các định lí của ông. Ở một vài bức thư, ông đã khám phá rất nhiều ý tưởng cơ bản của Vi tích phân trước Newton hoặc Leibniz. Fermat làm toán theo sở thích nhiều hơn là trở thành một nhà toán học chuyên nghiệp. Dù vậy, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Hình học giải tích, Xác suất, Vi tích phân và Lý thuyết số.
Anders Hald đã từng viết: "Nền tảng toán học Fermat là các luận văn Hy Lạp cổ điển kết hợp với các phương pháp mới của đại số Vieta"
Công việc
Công trình tiên phong của Fermat trong Hình học giải tích (Methodus ad disquirendam maximam et minimam et de tangentibus linearum curvarum) được lưu hành dưới dạng bản thảo vào năm 1636 (dựa trên những kết quả đã đạt được vào năm 1629), trước khi La Géométrie của Descartes xuất bản năm 1637. Bản thảo được xuất bản sau khi ông đã qua đời (1679).
Trong Methodus ad disquirendam maximam et minimam và De tangentibus linearum curvarum, Fermat đã phát triển một phương pháp (bất bình đẳng) cho việc xác định cực đại, cực tiểu và tiếp tuyến với các đường cong khác nhau tương đương với Vi phân.
Cái chết
Pierre de Fermat mất vào ngày 12 tháng 1 năm 1665 tại Castres. Trường trung học cổ nhất và uy tín nhất ở Toulouse được đặt theo tên của ông: Lycée Pierre-de-Fermat. Nhà điêu khắc người Pháp Théophile Barrau đã tạo một bức tượng cẩm thạch và đặt tên là Hommage à Pierre Fermat để tưởng nhớ tới ông, nay bức tượng nằm ở Capitole de Toulouse.
Định lý nhỏ Fermat
Với p là một số nguyên tố và a,p là 2 số nguyên tố cùng nhau thì chia một số a lũy thừa p cho p sẽ có số dư chính bằng a:
Định lý lớn Fermat
Câu chuyện về định lý cuối cùng của Fermat là câu chuyện độc nhất vô nhị trong lịch sử toán học thế giới, khởi nguồn từ cổ đại với nhà toán học Pythagore. Bài toán cuối cùng (sau này giới toán học gọi là Định lý cuối cùng của Fermat, hay Định lý lớn Fermat) có gốc từ định lý Pythagore: "Trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông". Fermat thay đổi phương trình Pythagore và tạo ra một bài toán khó bất hủ.
Xét phương trình Pythagore:
Người ta có thể hỏi những nghiệm số nguyên của phương trình này là gì, và có thể thấy rằng:
và
Nếu tiếp tục tìm kiếm thì sẽ tìm thấy rất nhiều nghiệm như vậy. Fermat khi đó xét dạng bậc ba của phương trình này:
Ông đặt câu hỏi: có thể tìm được nghiệm (nguyên) cho phương trình bậc ba này hay không? Ông khẳng định là không. Thực ra, ông khẳng định điều đó cho họ phương trình tổng quát:
trong đó n lớn hơn 2 không thể tìm được nghiệm (nguyên) nào. Đó là Định lý Fermat cuối cùng.
Điều lý thú ở đây là phỏng đoán này được Fermat ghi bên lề một cuốn sách mà không chứng minh, nhưng có kèm theo dòng chữ: "Tôi có một phương pháp rất hay để chứng minh cho trường hợp tổng quát, nhưng không thể viết ra đây vì lề sách quá hẹp."!!;z^n=(x^2+y^2).z^(n-2)>x^n+y^n
Các nhà toán học đã cố gắng giải bài toán này trong suốt 300 năm. Trong lịch sử đi tìm lời giải cho định lý cuối cùng của Fermat có người phải tự tử và có cả sự lường gạt... Và cuối cùng nhà toán học Andrew Wiles (một người Anh, định cư ở Mỹ, sinh 1953) sau 7 năm làm việc trong cô độc và 1 năm giày vò trong cô đơn đã công bố lời giải độc nhất vô nhị vào mùa hè năm 1993 và sửa lại năm 1995, với lời giải dài 200 trang.
Xem thêm
Số Fermat
Điểm Fermat
Định lý Fermat về số đa giác đều
Kiểm tra Fermat
Thương số Fermat
Định lý Fermat về tổng của hai số chính phương
Đọc thêm
Simon Singh, Định Lý Cuối Cùng Của Fermat, Phạm Văn Thiều và Phạm Việt Hưng dịch, Thành phố Hồ Chí Minh:Nhà xuất bản Trẻ
Amir D. Aczel, Câu chuyện hấp dẫn về bài toán Phécma, Trần Văn Nhung, Đỗ Trung Hậu, Nguyễn Kim Chi dịch, Hà Nội:Nhà xuất bản Giáo dục, 2000
Tiếng Anh
Amir D. Aczel, Fermat's Last Theorem, New York/London:Four Walls Eight Windows
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin thêm về Những công trình của Fermat
Thông tin tham khảo thêm về Wiles và quá trình giải bài toán
Nội dung lời giải của Wiles bằng tiếng Anh
Lời giải của Andrew Wiles
Pierre de Fermat trên Encyclopædia Universalis
Fermat, Pierre de
Fermat, Pierre de
Luật sư Pháp
Mất năm 1665
Tín hữu Công giáo Pháp
Nhà lý thuyết số
Sinh thập niên 1600
|
25137
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%BA%20M%C6%B0%E1%BB%A3u
|
Rú Mượu
|
Rú Mượu là một ngọn núi thuộc dãy núi Đại Huệ, ranh giới của huyện Nam Đàn đi từ thành phố Vinh lên. Rú là tiếng địa phương xứ nghệ nghĩa là núi. Trên núi từng có đền Độc Lôi Sơn được nhiều người coi là linh thiêng.
Núi có độ cao trung bình khoảng 90 m-100 m, đỉnh cao nhất khoảng 230 m. Nhìn từ xa trông giống như một cái yên ngựa.
Phần núi tiếp giáp với quốc lộ 46 từ Vinh đi Nam Đàn hiện là một mỏ đá cung cấp vật liệu cho cả vùng Vinh.
Tham khảo
Núi tại Nghệ An
Xứ nghệ
|
25139
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Windows%20Media%20Player
|
Windows Media Player
|
Windows Media Player (WMP) là ứng dụng thư viện và trình phát đa phương tiện đầu tiên được Microsoft phát triển để phát âm thanh và video trên máy tính cá nhân. Nó là một thành phần của hệ điều hành Windows, bao gồm Windows 9x, Windows NT, Pocket PC và Windows Mobile. Microsoft cũng đã phát hành các phiên bản Windows Media Player cho Mac OS cổ điển, Mac OS X và Solaris, nhưng sau đó đã ngừng cung cấp chúng. Kể từ năm 2022, nó đã được gắn nhãn hậu tố Legacy để phân biệt với Media Player dựa trên UWP mới được giới thiệu trong Windows 10 và Windows 11.
Ngoài vai trò là một trình phát đa phương tiện, phần mềm còn có khả năng trích xuất tệp âm thanh từ và sao chép sang đĩa CD, ghi đĩa ghi ở định dạng Audio CD hoặc dưới dạng đĩa dữ liệu với danh sách phát như MP3 CD, đồng bộ hóa nội dung với trình phát âm thanh kỹ thuật số (máy nghe nhạc MP3) hoặc các thiết bị di động khác, phát và truyền phát phương tiện qua mạng cục bộ, đồng thời cho phép người dùng mua hoặc thuê nhạc từ một số cửa hàng âm nhạc trực tuyến. Các định dạng tệp mặc định là Windows Media Video (WMV), Windows Media Audio (WMA) và Advanced Systems Format (ASF), và định dạng danh sách phát dựa trên XML của riêng nó được gọi là Windows Playlist (WPL). Trình phát cũng có thể sử dụng dịch vụ quản lý quyền kỹ thuật số dưới dạng Windows Media DRM .
Windows Media Player là một thành phần độc đáo, trong đó kể từ năm 1999, mỗi phiên bản Windows đều có hai hoặc nhiều phiên bản song song. Ví dụ: Media Player phiên bản 5.1, 6.4 và 8 đều có trong Windows XP. Các phiên bản Windows này cũng bao gồm một số ứng dụng phát lại phương tiện khác, cụ thể là ActiveMovie Control, CD Player, DVD Player, Windows Media Center và Microsoft Movies & TV.
Lịch sử
Phiên bản đầu tiên của Windows Media Player được phát hành vào năm 1991, khi Windows 3.0 với Multimedia Extensions được phát hành. Ban đầu được gọi là Media Player, thành phần này được bao gồm trong các thiết bị tương thích với "Multimedia PC" nhưng không có sẵn để bán lẻ. Nó có khả năng phát tập tin có định dạng .mmm, và có thể được mở rộng để hỗ trợ các định dạng khác, sử dụng MCI để xử lý tập tin phương tiện. Là một thành phần của Windows, Media Player hiển thị cùng phiên bản với số phiên bản của phiên bản Windows.
Microsoft liên tục sản xuất các chương trình mới để phát các tập tin phương tiện. Vào tháng 11 năm sau, Video cho Windows được giới thiệu với khả năng phát các tập tin video kỹ thuật số ở định dạng AVI, với hỗ trợ codec cho RLE và Video1 và hỗ trợ phát các tập tin chưa nén. Indeo 3.2 đã được thêm vào trong một bản phát hành sau đó. Video cho Windows lần đầu tiên có sẵn dưới dạng phần mở rộng bổ sung cho Windows 3.1 và sau đó được tích hợp vào Windows 95 và Windows NT 4.0. Năm 1995, Microsoft phát hành ActiveMovie với DirectX Media SDK. ActiveMovie kết hợp một cách mới để xử lý các tập tin phương tiện và thêm hỗ trợ cho phương tiện trực tuyến (mà Media Player ban đầu không thể xử lý). Năm 1996, ActiveMovie được đổi tên thành DirectShow. Tuy vậy, tên gọi Media Player tiếp tục được sử dụng cho đến khi Windows XP được phát hành, và được đổi tên thành Windows Media Player v5.1.
Vào năm 1999, phiên bản của Windows Media Player đã tách ra khỏi phiên bản của Windows. Windows Media Player 6.4 xuất hiện dưới dạng bản cập nhật không giới hạn cho Windows 95-98 và Windows NT 4.0 cùng tồn tại với Media Player và trở thành một thành phần tích hợp sẵn của Windows 2000, Windows ME và Windows XP với mplayer2.exe thay vì các phiên bản mới hơn. Windows Media Player 7.0 và các phiên bản kế nhiệm của nó cũng xuất hiện theo cùng một kiểu, thay thế nhau nhưng giữ nguyên Media Player và Windows Media Player 6.4. Windows XP là hệ điều hành duy nhất có ba phiên bản Windows Media Player khác nhau (phiên bản 5.1, 6.4 và 8). Tất cả các phiên bản có thương hiệu Windows Media Player (thay vì chỉ là Media Player) đều hỗ trợ codec DirectShow. Windows Media Player 7 là một bản cải tiến lớn, với giao diện người dùng mới, hình ảnh hóa và chức năng được cải tiến. Tuy nhiên, Windows Vista đã loại bỏ các phiên bản Windows Media Player cũ hơn để thay thế cho phiên bản 11, bao gồm việc loại bỏ Windows Media Source Filter (DirectShow codec).
Năm 2004, Microsoft phát hành kho nhạc kỹ thuật số MSN Music cho Windows Media Player 10 mới để cạnh tranh với Apple iTunes. Tuy nhiên, MSN Music đã ngừng phát triển vào năm 2006 với sự ra mắt của máy nghe nhạc Zune.
Kể từ Windows Vista, Windows Media Player hỗ trợ Media Foundation framework bên cạnh DirectShow; phát một số loại phương tiện nhất định bằng Media Foundation cũng như một số loại phương tiện sử dụng DirectShow. Windows Media Player 12 được phát hành cùng với Windows 7. Nó bao gồm hỗ trợ cho nhiều định dạng phương tiện và thêm các tính năng mới. Tuy nhiên, trên Windows 8, phần mềm không còn nhận được bản nâng cấp.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2012, Microsoft thông báo rằng Windows Media Player sẽ không được đưa vào Windows RT, dòng Windows được thiết kế để chạy trên các thiết bị có bộ xử lý ARM.
Từ ngày 15 tháng 2 năm 2022, Microsoft đã phát hành ứng dụng mới có tên là Media Player để kế thừa ứng dụng Groove Music (trước đây là Xbox Music) và Windows Media Player trên Windows 11, sau đó trên Windows 10 vào tháng 1 năm 2023.
Các tính năng chính
Phát âm thanh, video, hình ảnh với khả năng nhảy tới, lui chọn thời điểm, xem nhanh hay chậm.
Hỗ trợ chơi các tập tin trên máy, trực tuyến cũng như tải về.
Có thể chuyển qua Mini mode. Mini mode được đặt ở taskbar của máy và có những nút cần thiết nhất để dùng WMP
Hỗ trợ bất cứ phương tiện codec nào và nội dung định dạng sử dụng những bộ lọc đặc biệt DirctX.
Có các tính năng quản lý phương tiện với thư viện phương tiện được tích hợp, lập danh mục, sắp xếp theo album, nghệ sĩ, thể loại, ngày phát hành,...
Video Smoothing sử dụng phép nội suy, tự động thêm các khung hình tạo hiệu ứng khiến việc chơi video trở nên mượt mà hơn đối với những tập tin có tỷ lệ cũng như tốc độ khung hình thấp.
Kết hợp bộ cân bằng âm thanh đồ họa 10 dải băng và SRS WOW. Windows Media Player cũng có thể gắn các plug-in hỗ trợ quá trình phát âm thanh và hình ảnh.1
Windows Media Player 11
Windows Media Player 11 được phát hành trên Windows XP và Windows Vista. Phiên bản này đã có rất nhiều sự thay đổi so với phiên bản cũ. Media Library không còn được xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới (tree-based listing). Những thể loại hay những playlist không còn để ở bên trái mà ở bên phải. Những icons rất sinh động và thumbnails có hình của album hay là hình khác do người sử dụng tự chọn. Nếu như mà bài hát không có tên album, ca sĩ, nhạc sĩ, năm phát hành, hoặc là hình của album thì Windows Media Player có thể tự động thêm vào nếu có sẵn trong máy hay là nó có thể tự tìm. Windows Media Player 11 có thêm Windows Media Format 11.
Những chức năng khác:
Stacking - stacking có những sự miêu tả sống động về tổng số album ở trong một thể loại hoặc folder. Càng nhiều files thì cái stack sẽ lớn hơn.
Word Wheel - khi đi tìm bất cứ thứ gì trong WMP, bạn không cần đợi để nhấn Enter key để thấy được kế quả. Kết quả sẽ tự động hiện ra phía dưới khi bạn nhấn bất cứ chữ gì.
CD Burning - khi burn, số lượng MB sẽ tự động hiện ra.
URGE - là cửa hàng bán nhạc mới của Microsoft và MTV được đi cùng với Windows Media Player.
Có thể rip audio CDs qua WAV.
Có thể nối kết với lạ những cửa hàng bán nhạc online.
Dics Spanning sẽ cắt burn list ra làm hai nếu đĩa không còn chỗ để chứa.
Microsoft phát hành beta của Windows Media Player 11 cho Windows XP vào ngày 17/5/2006 và bản beta thứ hai ngày 31/8/2006. Bản chính thức của Windows Media Player 11 ra ngày 30/10/2006 và Windows Vista mới sẽ có sẵn WMP 11. Microsoft phải phát hành riêng một phiên bản của Windows Vista mà không có Windows Media Player cho châu Âu vì luật không tin vào Microsoft của họ.
Phiên bản này tên là "Windows Vista N".
Windows Media Player 12
Phát hành tháng 10 năm 2008 Trong Hội nghị phát triển chuyên môn (Professional Developers Conference) là một phần đi kèm trong Windows 7. Không được tải về và sử dụng trong các phiên bản trước.Windows Media Player 12 hỗ trợ thêm cho H.264 và định dạng video MPEG 4 Part-2, audio AAC và 3GP, định dạng container MP4 và MOV.
Microsoft đã công nhận AVCHD là một trong những triển khai phổ biến các chương trình mã hóa H.264, có phần đuôi là m2ts và mts trước khi đăng ký trong hệ thống. Windows Media Player 12 có thể chỉ mục nội dung của tập tin này, trong khi Windows Explorer có khả năng tạo hình thu nhỏ cho mỗi clip.Giao diện của Windows Media Player 12 được thiết kế lại đáng kể.
Tính năng đã bị hủy
Advanced Tag Editor cho phép người dùng siêu chỉnh sửa các thông tin của tập tin.Khả năng hiển thị lời bài hát tĩnh.Menu ngữ cảnh Tìm trong thư viện đã loại bỏ. Thay vào đó, nó được tích hợp vào thư viện nhạc trong Windows 7.
Các phiên bản khác
Windows Mobile
Windows Media Player cho Pocket PC được công bố lần đầu tiên vào ngày 6 tháng 1 năm 2000 và đã được sửa đổi theo lịch trình gần giống với lịch trình của phiên bản Windows. Hiện được gọi là "Media Player 10 Mobile", phiên bản này (phát hành vào tháng 10 năm 2004) gần giống với các chức năng của phiên bản Windows của WMP 10, bao gồm khả năng danh sách phát, thư viện phương tiện, ảnh bìa album, phát lại WMA Lossless, hỗ trợ DRM, phát lại video ở độ phân giải 640×480 với âm thanh nổi và tính thẩm mỹ của giao diện Energy Blue tương tự như trong Windows XP Media Center Edition 2005. Nó cũng hỗ trợ đồng bộ hóa với phiên bản máy tính để bàn của WMP 10 và hỗ trợ thêm đồng bộ hóa và chuyển mã của các chương trình truyền hình được ghi lại từ Media Center. Media Player 10 Mobile không có sẵn dưới dạng bản tải xuống từ Microsoft, việc phân phối chỉ được thực hiện thông qua các đối tác OEM và thường được đưa vào các thiết bị dựa trên Windows Mobile.
Windows Mobile 6 bao gồm một bản sao của Windows Media Player 10 Mobile nhưng có chủ đề tương tự (nhưng không hoàn toàn giống) như Windows Media Player 11.
Mac OS X
Windows Media Player 9 là phiên bản cuối cùng của media player mà Microsoft phát hành cho Mac OS X vì có rất nhiều người sử dụng của Mac OS X nói là phiên bản cho Mac OS X không có hỗ trợ nhiều định dạng (format), thiếu ổn định và thiếu tính năng. Phiên bản cũng không có những tính năng căn bản mà Windows Media Player 9 cho Windows có. Microsoft đã tuyên bố ngưng phát triển kể từ ngày ngày 12 tháng 1 năm 2006. Thay vào đó, Microsoft sẽ cung cấp một plugin (gọi là WMV Player) cho phép trình QuickTime của Apple có thể chơi được một số định dạng của Windows Media. Những người sử dụng Mac cũng có thể dùng VLC Media Player. VLC Media Player hỗ trợ WMV-3 / WMV-9 / VC-1 Windows Media files.
Lịch sử phát hành
1998
25 tháng 6 Windows Media Player 6.1
2000
17 tháng 7 Windows Media Player 6.3 cho Mac OS
17 tháng 7 Windows Media Player 6.3 cho Solaris
17 tháng 7 Windows Media Player 7 cho Windows 98 và Windows 2000
14 tháng 9 Windows Media Player 7.0 cho Windows Me gói sẵn với hệ điều hành
12 tháng 12 Windows Media Player 7 cho Pocket PC
2001
24 tháng 7 Windows Media Player 7.0.1 cho Mac OS
25 tháng 10 Windows Media Player 8 cho Windows XP gói sẵn với hệ điều hành khi phát hành
2002
8 tháng 1 Windows Media Player 7.1 cho Mac OS
2003
27 tháng 1 Windows Media Player 9 cho Windows 98 Second Edition, Windows Me, và Windows 2000 và bản riêng lẻ cho Windows XP
23 tháng 6 Windows Media Player 9 cho Pocket PC
7 tháng 11 Windows Media Player 9 cho Mac OS X
2004
10 tháng 8 Windows Media Player 9 cho Windows XP Service Pack 2 gói sẵn với hệ điều hành khi phát hành
Tháng 10 Windows Media Player 10 cho Windows XP gói sẵn với Windows XP Media Center Edition 2005, khi phát hành vào 10/12/2004. Windows Media Player 10 Mobile cho Pocket PC và SmartPhone. Bao gồm trong Windows Mobile 5.0
2006
17 tháng 5 Windows Media Player 11 công bố bản thử nghiệm cho Windows XP
Windows Media Player version 7.0 (và cũ hơn) cho Windows bao gồm phiên bản 6.4 như một ứng dụng riêng lẻ, có thể truy xuất bằng cách gọi tập tin mplayer2.exe trong thư mục cài đặt.
2009
29 tháng 10 Windows Media Player 12 đã ra mắt trong Windows 7. Được coi như là một tính năng có trong Windows 7 và không được tải về cho các phiên bản Windows trước.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Microsoft Windows Media
Công nghệ đa phương tiện Microsoft Windows
Phần mềm Pocket PC
Trình đa phương tiện
Phần mềm cho Windows
Phần mềm cho macOS
Phần mềm của Microsoft
Thành phần Windows
|
25152
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20Tr%C3%BAc%20%28th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%29
|
Tân Trúc (thành phố)
|
Tân Trúc (chữ Hán: 新竹, bính âm: Xīnzhú, POJ: Sin-tek, Wade–Giles: Hsin¹-chu² , tiếng Anh viết là Hsinchu) là một thành phố lớn nằm tại phía bắc của Đài Loan, cách Đài Bắc khoảng 100 kilômét, nơi đây tập trung rất nhiều công ty chế tạo vi mạch và thiết bị điện tử. Thành phố Tân Trúc bao bọc bởi huyện Tân Trúc về phía bắc và phía đông, huyện Miêu Lật về phía nam, và eo biển Đài Loan về phía tây. Công viên Khoa học Tân Trúc nằm về phía đông của thành phố Tân Trúc, là một phần của huyện Tân Trúc.
Thành phố Tân Trúc gồm 3 quận: quận Bắc, quận Đông và quận Hương Sơn.
Tân Trúc là nơi có Đại học Quốc lập Thanh Hoa, Đại học Quốc lập Giao thông, Đại học Trung Hoa, Đại học Huyền Trang, Viện Khoa học và Công nghệ Bắc Vân và Viện Khoa học Quốc gia đóng tại Khu công nghiệp.
Tân Trúc thường được gọi là Phong Thành (風城) vì gió ở đây rất mạnh. Tân Trúc còn nổi tiếng với các món ăn như mì gạo và thịt viên.
Xem thêm
Tỉnh Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)
Tỉnh Đài Loan (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa)
Phân cấp hành chính Trung Hoa Dân Quốc
Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc
Vị thế chính trị của Đài Loan
Đài Loan độc lập
Trung Hoa Đài Bắc
Quốc Dân Đảng Trung Quốc
Tham khảo
Liên kết
Công viên khoa học Tân Trúc
Thành phố trực thuộc tỉnh Đài Loan
Khởi đầu năm 1982
Đài Loan năm 1982
|
25164
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhi%E1%BB%87t%20dung%20ri%C3%AAng
|
Nhiệt dung riêng
|
Nhiệt dung riêng của một chất là nhiệt lượng cần phải cung cấp cho một đơn vị đo lường chất đó để nhiệt độ của nó tăng lên một độ trong quá trình truyền nhiệt.
Trong hệ thống đo lường quốc tế, đơn vị đo của nhiệt dung riêng là Joule trên kilôgam trên Kelvin, J·kg−1·K−1 hay J/(kg·K), hoặc Joule trên mol trên Kelvin.
Kí hiệu là:c
Người ta sử dụng nhiệt dung riêng để tính toán nhiệt lượng khi gia công nhiệt cho vật liệu xây dựng và lựa chọn vật liệu trong các trạm nhiệt.
Công thức: c = Q/(m∆t)
Bảng nhiệt dung riêng
Xem thêm
Nhiệt dung
Nhiệt nóng chảy
Nhiệt bay hơi
Tham khảo
Nhiệt động lực học
ca:Calor específica
|
25165
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%B1c%20b%E1%BA%A5t%20kh%E1%BA%A3%20ti%E1%BA%BFp%20c%E1%BA%ADn
|
Cực bất khả tiếp cận
|
Các cực bất khả tiếp cận là các điểm nằm trên bề mặt Trái Đất với vị trí đặc biệt là rất khó chinh phục.
Các cực này vốn là một sự thách thức đối với các nhà thám hiểm, du hành. Cực bất khả tiếp cận hoàn toàn không phải là một hiện tượng tự nhiên gì cả, mà về mặt địa hình nó cũng chẳng có gì khác biệt. Đấy chỉ là một điểm địa lý, được xác định bằng toán học dựa theo tính chất cực trị, trên bề mặt Trái Đất, bao gồm các điểm khó tiếp cận nhất ở phương Bắc và phương Nam, trên lục địa và ngoài biển.
Cực bất khả tiếp cận Bắc
Cực này là một điểm nằm trên biển Bắc Băng Dương cách xa nhất với bất kì các bờ biển phía bắc nào của đại lục Á-Âu cũng như của Bắc Mỹ. Tọa độ địa lý của điểm này là , còn khoảng cách của nó tới các bờ biển là khoảng 1.100 km. Mặt biển ở đây bao phủ bởi một lớp băng mỏng (Drift ice).
Phi công người Úc Hubert Wilkins cùng với Carl Ben Eielson đã chinh phục cực bất khả tiếp cận Bắc lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 4 năm 1928. Tên của George Hubert Wilkins hiện được đặt cho đường băng thương mại và duy nhất (tính đến 2008) tại châu Nam Cực.
Ba mươi năm sau, năm 1958 một con tàu phá băng của Liên Xô cũng đã tới đây.
Hiện chưa có công trình cố định nào được xây dựng để đánh dấu khu vực này.
Cực bất khả tiếp cận Nam
Cực bất khả tiếp cận Nam là một điểm thuộc châu Nam Cực, cách xa bờ biển (Nam Băng Dương) nhất – khoảng chừng 1.700 km. Tọa độ địa lý của nó là .
Một đoàn thám hiểm Liên Xô (đoàn thám hiểm phương nam thứ ba) do Yevgeny Ivanovich Tolstikov dẫn đầu đã chinh phục cực bất khả tiếp cận Nam lần đầu tiên vào năm 1957 và họ đã thành lập trạm Nam cực mang tên Sovetskaya (Советская (антарктическая станция)), đã được sử dụng vào mùa hè năm 1957-1958.
14 tháng 12 năm 2005, Ramón Larramendi, Juan Manuel Viu và Ignacio Oficialdegui trong đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã đến gần điểm bất khả tiếp cận Nam, tại tọa độ .
4 tháng 12 năm 2006, đoàn của Team N2i cũng đã đến đây
Cực bất khả tiếp cận đại dương
Cực bất khả tiếp cận đại dương có toạ độ 48°52.6′ Nam, 123°23.6′ Tây (), còn được gọi là Điểm Nemo (đặt theo tên thuyền trưởng Nemo, một nhân vật trong tiểu thuyết Hai vạn dặm dưới biển của Jules Verne), là điểm nằm trên đại dương xa đất liền nhất. Nó nằm trên biển Nam Thái Bình Dương, cách điểm đất liền gần nhất là 2688 km. Nó giáp với đảo Ducie (một phần của đảo Pitcairn) về phía Bắc, Moto Nui (là một phần của đảo Phục Sinh) về phía đông bắc và đảo Mahae (gần đảo Siple, bờ biển Marie Byrd Land) về phía nam. Xa hơn về phía tây giáp với đảo Chatham và phía đông giáp với bờ biển Chile.
Wiki hiện chưa có hình ảnh cụ thể về điểm Nemo này, nhưng có thể hình dung qua vùng phụ cận và tọa độ của nó:
Khu vực này còn được biết đến dưới cái tên "Nghĩa địa của tàu vũ trụ" (tiếng Anh: Spacecraft Cemetery) do đây là nơi mà các vệ tinh, trạm vũ trụ không còn hoạt động được nữa sẽ rơi xuống khu vực này để tránh gây nguy hiểm cho người và các sinh vật khác.
Ngoài điểm khó tiếp cận chung này ra, mỗi đại dương có thể tính ra điểm khó tiếp cận nhất riêng của nó:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Đại Tây Dương:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Ấn Độ Dương:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Nam Đại Dương: là điểm bất khả tiếp cận Nam
Điểm khó tiếp cận nhất trên Bắc Băng Dương: là điểm bất khả tiếp cận Bắc
Cực bất khả tiếp cận lục địa
Cực bất khả tiếp cận lục địa là điểm trên đất liền nằm cách xa các bờ biển nhất, thuộc lục địa Á-Âu, có tọa độ , trên miền Bắc Trung Quốc và cách bờ biển gần nhất 2.645 km, cách thành phố Ürümqi 320 km, thuộc khu tự trị Tân Cương, có điểm định cư gần nhất là Hoxtolgay 30 dặm về phía tây nam, Xazgat 13 dặm về phía tây, Suluk 7 dặm về phía đông.
Ngoài ra, mỗi châu lục lại có một điểm bất khả tiếp cận lục địa riêng:
Cực bất khả tiếp cận lục địa của Bắc Mỹ là , thuộc về tây nam của Nam Dakota, cách bờ biển gần nhất 1.650 km.
Cực bất khả tiếp cận lục địa của Nam Mỹ là , nằm trên lưu vực sông Amazon, thuộc đất Brasil
Cực bất khả tiếp cận lục địa của châu Úc nằm tại , cách bờ biển gần nhất 920 km, thị trấn gần nhất là Haasts Bluff, lãnh thổ Bắc Úc 56 km về phía tây bắc
Cực bất khả tiếp cận lục địa của châu Phi là cách bờ biển 1814 km, tại điểm gặp nhau của biên giới Cộng hoà Trung Phi, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo
Xem thêm
Cực
Cực địa lý
Cực địa từ
Cực giá lạnh
Những điểm đặc biệt trên Trái Đất (:en:Extreme points of Earth)
Các kỷ lục về thời tiết (:en:List of weather records)
Liên kết ngoài
Point Nemo
Team N2i reaches for POI and found Lenin!
Trái Đất
Địa lý học
Điểm cực Trái Đất
Vùng cực Trái Đất
Địa lý Nam Cực
|
25167
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2u%20%C4%91%E1%BB%91i
|
Câu đối
|
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Hàn Quốc.
Nguồn gốc
Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên (對聯) nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù (桃符).
Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa".
Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家), câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.
Những nguyên tắc của câu đối
Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.
Đối ý và đối chữ
Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.
- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền
- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài
- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
Luật bằng trắc
Câu tiểu đối:
- Vế phải: trắc-trắc-trắc
- Vế trái: bằng-bằng-bằng
Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
Phân loại câu đối
Câu đối Trung Quốc
Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:
Phân loại theo cách dùng
Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.
Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.
Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.
Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).
Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật
Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.
Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.
Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.
Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, có chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.
Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.
Câu đối Việt Nam
Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Đán.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.
Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giàu (trầu) nước)
Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?
Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.
Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
Da trắng vỗ bì bạch Vế đối này của Đoàn Thị Điểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới'' được coi là tạm ổn nhất.
"Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông"
Tham khảo
Mùa xuân nói chuyện câu đối
Năm 959
Văn học Việt Nam-tác giả Dương Quảng Hàm; Trung tâm học liệu xuất bản năm 1939.
Xem thêm
Hoành phi
Câu Đối Sưu tầm , Bộ Sưu tầm Câu Đối Việt Nam
Nghệ thuật Trung Quốc
Thư pháp chữ Hán
|
25169
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba%20h%C3%B3a%20h%E1%BB%8Dc
|
Địa hóa học
|
Địa hóa học, theo định nghĩa đơn giản của thuật ngữ này là hóa học của Trái Đất, bao gồm việc ứng dụng những nguyên lý cơ bản của hóa học để giải quyết các vấn đề địa chất.
Địa hóa học coi các nguyên tố hóa học và các đồng vị trong tự nhiên là đối tượng nghiên cứu, bởi vậy nó góp phần hoàn chỉnh những nhận thức và hiểu biết về sự phát triển của hành tinh chúng ta và cho phép ta có cách nhìn nhận mới về cơ chế thành tạo Trái Đất nói chung, về quá trình thành tạo đá, khoáng vật, những quy luật hình thành các mỏ khoáng sản và quy luật biến đổi môi trường sống, nhất là trong thời kỳ phát triển công nghiệp hiện nay.
Địa hóa học là một chuyên ngành khoa học về Trái Đất, trong đó bao hàm những ý tưởng của ngành khoa học nguyên tử hiện đại.
Lịch sử
Thuật ngữ địa hóa học lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà hóa học người Đức gốc Thụy Sĩ Christian Friedrich Schönbein vào năm 1838: "địa hóa học phải được đưa ra so sánh, trước khi địa hóa học có thể trở thành địa chất, và trước bí ẩn về sự hình thành Các hành tinh của chúng ta và vật chất vô cơ của chúng có thể được tiết lộ. Từ địa hóa học đến vũ trụ học: Nguồn gốc của một ngành khoa học, 1915-1955 Tuy nhiên, trong phần còn lại của thế kỷ, thuật ngữ phổ biến hơn là "địa chất hóa học" và đã có ít liên hệ giữa nhà địa chất và nhà hóa học.
Địa hóa học nổi lên như một môn học riêng biệt sau khi các phòng thí nghiệm lớn được thành lập, được bắt đầu với Khảo sát địa chất Hoa Kỳ (USGS) vào năm 1884, và bắt đầu các cuộc khảo sát có hệ thống về hóa học của đá và khoáng sản. Nhà hóa học trưởng của USGS, Frank Wigglesworth Clarke, lưu ý rằng các nguyên tố thường giảm đi sự phong phú khi trọng lượng nguyên tử của chúng tăng lên, và tóm tắt công việc về sự phong phú nguyên tố trong Dữ liệu của địa hóa học .
Thành phần của thiên thạch đã được nghiên cứu và so sánh với các loại đá trên mặt đất vào đầu năm 1850. Năm 1901, Oliver C. Farrington đã đưa ra giả thuyết rằng, mặc dù có sự khác biệt, sự phong phú tương đối vẫn giống nhau. Đây là sự khởi đầu của lĩnh vực vũ trụ học và đã đóng góp phần lớn những gì chúng ta biết về sự hình thành của Trái Đất và Hệ mặt trời.
Thành phần của thiên thạch đã được nghiên cứu và so sánh với các loại đá trên mặt đất vào đầu năm 1850. Năm 1901, Oliver C. Farrington đã đưa ra giả thuyết rằng, mặc dù có sự khác biệt, sự phong phú tương đối vẫn giống nhau. Đây là sự khởi đầu của lĩnh vực vũ trụ học và đã đóng góp phần lớn những gì chúng ta biết về sự hình thành của Trái Đất và Hệ mặt trời.
Nguyên tố hóa học
Các khối vật liệu xây dựng là nguyên tố hóa học. Chúng có thể được xác định bởi số nguyên tử Z, là số proton trong hạt nhân. Một phần tử có thể có nhiều hơn một giá trị cho N, số neutron trong hạt nhân. Tổng của những thứ này là số khối, gần bằng với khối lượng nguyên tử. Các nguyên tử có cùng số nguyên tử nhưng số neutron khác nhau được gọi là đồng vị. Một đồng vị đã cho được xác định bằng một chữ cái cho phần tử đứng trước một siêu ký tự cho số khối. Ví dụ: hai đồng vị phổ biến của clo là 35Cl and 37Cl. Có khoảng 1700 kết hợp Z và N đã biết, trong đó chỉ có khoảng 260 là ổn định. Tuy nhiên, hầu hết các đồng vị không ổn định không xảy ra trong tự nhiên. Trong địa hóa học, các đồng vị ổn định được sử dụng để theo dõi các quá trình và phản ứng hóa học, trong khi các đồng vị chủ yếu được sử dụng để xác định mẫu.
Hành vi hóa học của một nguyên tử - ái lực với các nguyên tố khác và loại liên kết mà nó hình thành - được xác định bởi sự sắp xếp của các electron trong quỹ đạo, đặc biệt là các electron ngoài cùng (hóa trị). Những sắp xếp này được phản ánh ở vị trí của các phần tử trong bảng tuần hoàn. Dựa trên vị trí, các nguyên tố rơi vào các nhóm rộng kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, kim loại chuyển tiếp, bán kim loại (còn được gọi là metallicoid), halogen, khí hiếm, lanthanide và actinide.
Một sơ đồ phân loại hữu ích khác cho địa hóa học là Phân loại Goldschmidt, đặt các yếu tố thành bốn nhóm chính. Litophiles kết hợp dễ dàng với oxy. Các nguyên tố này, bao gồm Na, K, Si, Al, Ti, Mg và Ca, chiếm ưu thế trong vỏ Trái Đất, tạo thành silicate và các oxit khác. Các nguyên tố Siderophile (Fe, Co, Ni, Pt, Re, Os) có ái lực với sắt và có xu hướng tập trung trong lõi. Các yếu tố Chalcophile (Cu, Ag, Zn, Pb, S) sulfide; và các nguyên tố atmophile (O, N, H và các khí hiếm) thống trị bầu khí quyển. Trong mỗi nhóm, một số nguyên tố là vật liệu chịu lửa, duy trì ổn định ở nhiệt độ cao, trong khi các yếu tố khác là dễ bay hơi, bay hơi dễ dàng hơn, do đó sức nóng có thể tách chúng ra.
Phân dị và trộn lẫn
Thành phần hóa học của Trái Đất và các cơ thể khác được xác định bởi hai quá trình đối lập: phân dị và trộn lẫn. Trong lớp phủ của Trái Đất, sự khác biệt xảy ra ở các dải núi giữa đại dương thông qua sự nóng chảy một phần, với nhiều vật liệu chịu lửa còn lại ở đáy thạch quyển trong khi phần còn lại tăng lên tạo thành đá bazan. Sau khi một mảng đại dương rơi xuống lớp phủ, cuối cùng đối lưu trộn hai phần lại với nhau. Xói mòn phân biệt đá granit, tách nó thành đất sét dưới đáy đại dương, sa thạch ở rìa lục địa và khoáng chất hòa tan trong nước biển. Sự biến chất và anatexis (sự tan chảy một phần của đá vỏ) có thể trộn các yếu tố này lại với nhau. Trong đại dương, các sinh vật sinh học có thể gây ra sự khác biệt hóa học, trong khi hòa tan các sinh vật và chất thải của chúng có thể trộn lại các vật liệu một lần nữa
Cất phân đoạn
Một nguồn phân dị chính là cất phân đoạn, một sự phân bố không đồng đều các nguyên tố và đồng vị. Đây có thể là kết quả của các phản ứng hóa học, thay đổi pha, hiệu ứng động học hoặc phóng xạ. Ở quy mô lớn nhất, phân biệt hành tinh là sự phân tách vật lý và hóa học của một hành tinh thành các vùng khác biệt về mặt hóa học. Ví dụ, các hành tinh trên mặt đất hình thành các lõi giàu sắt và lớp vỏ và lớp vỏ giàu silicat. Trong lớp phủ của Trái Đất, nguồn gốc của sự khác biệt hóa học là tan chảy một phần, đặc biệt là gần các dải núi giữa đại dương. Đối lưu thần chú trong Trái Đất và các hành tinh. Điều này có thể xảy ra khi chất rắn không đồng nhất hoặc dung dịch rắn và một phần của sự tan chảy được tách ra khỏi chất rắn. Quá trình này được gọi là cân bằng hoặc mẻ tan chảy nếu chất rắn và tan chảy vẫn ở trạng thái cân bằng cho đến khi tan chảy và phân đoạn hoặc Rayleigh tan chảy loại bỏ liên tục.
Phân đoạn đồng vị có thể có các dạng phụ thuộc khối lượng và không phụ thuộc vào khối lượng. Các phân tử có đồng vị nặng hơn có năng lượng trạng thái mặt đất thấp hơn và do đó ổn định hơn. Kết quả là các phản ứng hóa học cho thấy sự phụ thuộc đồng vị nhỏ, với các đồng vị nặng hơn thích các loài hoặc hợp chất có trạng thái oxy hóa cao hơn; và trong các thay đổi pha, các đồng vị nặng hơn có xu hướng tập trung trong các pha nặng hơn. Phân số phụ thuộc khối lượng lớn nhất trong các phần tử ánh sáng vì sự khác biệt về khối lượng là một phần lớn hơn của tổng khối lượng.
Tỷ lệ giữa các đồng vị thường được so sánh với một tiêu chuẩn. Ví dụ, lưu huỳnh có bốn đồng vị ổn định, trong đó hai đồng vị phổ biến nhất là 32S và 34S. Tỷ lệ nồng độ của chúng, , được báo cáo là
trong đó có cùng tỷ lệ cho một tiêu chuẩn. Bởi vì sự khác biệt là nhỏ, tỷ lệ này được nhân với 1000 để biến nó thành một phần nghìn (được gọi là các phần trên một triệu). Điều này được biểu thị bằng ký hiệu .
Cân bằng
Phân đoạn cân bằng xảy ra giữa các hóa chất hoặc pha ở trạng thái cân bằng với nhau. Trong phân số cân bằng giữa các pha, các pha nặng hơn thích các đồng vị nặng hơn. Đối với hai pha A và B, hiệu ứng có thể được biểu thị bằng hệ số
Trong quá trình chuyển pha hơi-lỏng cho nước, ở 20 độ Celsius là 1,0098 cho 18O và 1.084 cho 2H. Nói chung, phân số lớn hơn tại nhiệt độ thấp hơn. Tại 0 °C, the factors are 1.0117 and 1.111.
Động học
Khi không có trạng thái cân bằng giữa các pha hoặc hợp chất hóa học, phân đoạn động học có thể xảy ra. Ví dụ, tại các giao diện giữa nước lỏng và không khí, phản ứng thuận được tăng cường nếu độ ẩm của không khí nhỏ hơn 100% hoặc hơi nước bị gió di chuyển. Phân đoạn động học nói chung được tăng cường so với phân đoạn cân bằng, và phụ thuộc vào các yếu tố như tốc độ phản ứng, đường phản ứng và năng lượng liên kết. Vì các đồng vị nhẹ hơn thường có liên kết yếu hơn, chúng có xu hướng phản ứng nhanh hơn và làm phong phú các sản phẩm phản ứng.
Phân đoạn sinh học là một dạng của phân đoạn động học, vì các phản ứng có xu hướng theo một hướng. Các sinh vật sinh học thích các đồng vị nhẹ hơn vì có chi phí năng lượng thấp hơn trong việc phá vỡ các liên kết năng lượng. Ngoài các yếu tố đã đề cập trước đó, môi trường và các loài của sinh vật có thể có ảnh hưởng lớn đến việc phân chia.
Chu kỳ
Thông qua một loạt các quá trình vật lý và hóa học, các nguyên tố hóa học thay đổi nồng độ và di chuyển xung quanh theo cái gọi là chu trình địa hóa . Một sự hiểu biết về những thay đổi này đòi hỏi cả mô hình lý thuyết và quan sát chi tiết. Mỗi hợp chất hóa học, nguyên tố hoặc đồng vị có nồng độ là một hàm về vị trí và thời gian, nhưng không thực tế để mô hình hóa sự biến đổi đầy đủ. Thay vào đó, theo cách tiếp cận mượn từ kỹ thuật hóa học, các nhà địa hóa học tập trung mức độ tập trung vào các khu vực trên Trái Đất gọi là hồ chứa địa hóa . Việc lựa chọn hồ chứa phụ thuộc vào vấn đề; ví dụ, đại dương có thể là một hồ chứa duy nhất hoặc được chia thành nhiều hồ chứa. Các khía cạnh cơ bản của các mô hình định lượng cho các chu trình địa hóa. Trong một loại mô hình được gọi là mô hình hộp , một bể chứa được thể hiện bằng một hộp có đầu vào và đầu ra.
Các mô hình địa hóa nói chung liên quan đến thông tin phản hồi. Trong trường hợp đơn giản nhất của chu trình tuyến tính, đầu vào hoặc đầu ra từ một bể chứa tỷ lệ thuận với nồng độ. Ví dụ, muối được loại bỏ khỏi đại dương bằng cách hình thành bốc hơi và với tốc độ bay hơi không đổi trong các lưu vực bay hơi, tốc độ loại bỏ muối phải tỷ lệ thuận với nồng độ của nó. Đối với một thành phần nhất định , nếu đầu vào của một hồ chứa là một hằng số và đầu ra là cho một hằng số , sau đó mass balance phương trình là
Điều này thể hiện một thực tế là bất kỳ thay đổi nào về khối lượng phải được cân bằng bởi những thay đổi ở đầu vào hoặc đầu ra. Trên thang đo thời gian , hệ thống tiếp cận trạng thái ổn định trong đó . Thời gian cư trú được định nghĩa là: khi và là tỷ lệ đầu vào và đầu ra. Trong ví dụ trên, tốc độ đầu vào và đầu ra trạng thái ổn định đều bằng , nên .
Nếu tốc độ đầu vào và đầu ra là các hàm phi tuyến của , chúng vẫn có thể được cân bằng chặt chẽ theo quy mô thời gian lớn hơn nhiều so với thời gian cư trú; nếu không sẽ có biến động lớn trong . Trong trường hợp đó, hệ thống luôn ở gần trạng thái ổn định và sự mở rộng bậc thấp nhất của phương trình cân bằng khối lượng sẽ dẫn đến một phương trình tuyến tính như phương trình (). Trong hầu hết các hệ thống, một hoặc cả hai đầu vào và đầu ra phụ thuộc vào , dẫn đến một phản hồi có xu hướng duy trì trạng thái ổn định. Nếu một lực lượng bên ngoài làm nhiễu hệ thống, nó sẽ trở về trạng thái ổn định theo thang thời gian là
Sự phong phú của các nguyên tố
Hệ Mặt Trời
Thành phần của Hệ mặt trời tương tự như nhiều ngôi sao khác, và ngoài những dị thường nhỏ, nó có thể được coi là hình thành từ tinh vân mặt trời có thành phần đồng nhất và thành phần của Mặt trời Photosphere tương tự như phần còn lại của Hệ mặt trời. Thành phần của không gian ảnh được xác định bằng cách khớp đường hấp thụ trong quang phổ với các mô hình bầu khí quyển của Mặt trời. Cho đến nay, hai nguyên tố lớn nhất tính theo phần trăm của tổng khối lượng là hydro (74,9%) và helium (23,8%), với tất cả các yếu tố còn lại chỉ đóng góp 1,3%. Có một xu hướng chung của giảm theo cấp số mũ trong phong phú với số nguyên tử tăng dần, mặc dù các nguyên tố có số nguyên tử chẵn phổ biến hơn so với các nước láng giềng số lẻ của chúng (quy tắc Oddo bồi Harkins). So với xu hướng chung, lithium, boron và beryllium đã cạn kiệt và sắt được làm giàu một cách bất thường..
Mô hình của sự phong phú nguyên tố chủ yếu là do hai yếu tố. Hydro, heli và một số lithium là được hình thành trong khoảng 20 phút sau Vụ nổ lớn, trong khi phần còn lại là được tạo ra trong nội thất của các ngôi sao.
Thiên thạch
Thiên thạch có nhiều loại chế phẩm, nhưng phân tích hóa học có thể xác định liệu chúng đã từng ở hành tinh mà tan chảy hay khác biệt. ]] s không phân biệt và có các vùi khoáng tròn gọi là chondrule s. Với độ tuổi 4,56 tỷ năm, chúng có niên đại hệ mặt trời sơ khai. Một loại đặc biệt, CI chondrite, có thành phần gần giống với hình ảnh của Mặt trời, ngoại trừ sự cạn kiệt của một số chất bay hơi (H, He, C, N, O) và một nhóm các nguyên tố (Li, B, Be) bị phá hủy bởi sự tổng hợp hạt nhân trong Mặt trời. Do thuộc nhóm thứ hai, chondrites CI được coi là phù hợp hơn cho thành phần của Hệ mặt trời ban đầu. Hơn nữa, phân tích hóa học của CI chondrites chính xác hơn so với quang cầu, do đó, nó thường được sử dụng làm nguồn cho sự phong phú hóa học, mặc dù độ hiếm của chúng (chỉ có năm được phục hồi trên Trái Đất).
Các hành tinh khổng lồ
Các hành tinh của Hệ Mặt Trời được chia thành hai nhóm: bốn hành tinh bên trong là hành tinh trên mặt đất s [[[Mercury (hành tinh)|Mercury]], Venus, Earth và [ [Mars]]), với kích thước tương đối nhỏ và bề mặt đá. Bốn hành tinh bên ngoài là hành tinh khổng lồ, bị chi phối bởi hydro và helium và có mật độ trung bình thấp hơn. Chúng có thể được chia nhỏ thành khổng lồ khí (Jupiter và Saturn) và khổng lồ băng s (Thiên vương và Hải vương) có lõi băng giá lớn.
Hầu hết thông tin trực tiếp của chúng tôi về thành phần của các hành tinh khổng lồ là từ quang phổ. Từ những năm 1930, Sao Mộc được biết là có chứa hydro, metan và amoni. Vào những năm 1960, interferometry đã tăng đáng kể độ phân giải và độ nhạy của phân tích quang phổ, cho phép xác định một tập hợp các phân tử lớn hơn nhiều bao gồm ethane, acetylene, nước và carbon monoxit. Tuy nhiên, quang phổ trên Trái Đất trở nên ngày càng khó khăn hơn với các hành tinh xa hơn, vì ánh sáng phản xạ của Mặt trời mờ hơn nhiều; và phân tích quang phổ ánh sáng từ các hành tinh chỉ có thể được sử dụng để phát hiện sự rung động của các phân tử, nằm trong dải tần số hồng ngoại. Điều này hạn chế sự phong phú của các yếu tố H, C và N.
Nguyên tử helium có các rung động trong phạm vi tia cực tím, được hấp thụ mạnh mẽ bởi bầu khí quyển của các hành tinh bên ngoài và Trái Đất. Do đó, mặc dù có rất nhiều, helium chỉ được phát hiện khi tàu vũ trụ được gửi đến các hành tinh bên ngoài, và sau đó chỉ gián tiếp thông qua sự biến dạng do va chạm trong các phân tử hydro. Thông tin thêm về Sao Mộc được lấy từ [[Đầu dò Galileo| Đầu dò Galileo ']] khi nó được gửi vào khí quyển vào năm 1995; và nhiệm vụ cuối cùng của thăm dò Cassini vào năm 2017 là để vào bầu khí quyển của Sao Thổ. Trong bầu khí quyển của Sao Mộc, Người ta thấy rằng mình bị suy giảm bởi hệ số 2 so với thành phần mặt trời và Ne với hệ số 10, một kết quả đáng ngạc nhiên vì các loại khí cao quý khác và các nguyên tố C, N và S được tăng cường bởi các yếu tố 2 đến 4 (oxy cũng bị cạn kiệt nhưng điều này được quy cho vùng khô bất thường mà Galileo đã lấy mẫu).
Các phương pháp quang phổ chỉ xuyên qua bầu khí quyển của Sao Mộc và Sao Thổ đến độ sâu nơi áp suất bằng khoảng 1 bar, xấp xỉ áp suất khí quyển ở mực nước biển. Đầu dò Galileo thâm nhập tới 22 vạch. Đây là một phần nhỏ của hành tinh, dự kiến sẽ đạt áp lực hơn 40 Mbar. Để hạn chế thành phần trong nội thất, các mô hình nhiệt động lực học được xây dựng bằng cách sử dụng thông tin về nhiệt độ từ phổ phát xạ hồng ngoại và phương trình trạng thái cho các chế phẩm có khả năng. Các thí nghiệm áp suất cao dự đoán rằng hydro sẽ là một chất lỏng kim loại trong phần bên trong Sao Mộc và Sao Thổ, trong khi ở Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, nó vẫn ở trạng thái phân tử. Ước tính cũng phụ thuộc vào các mô hình cho sự hình thành của các hành tinh. Sự ngưng tụ của tinh vân tổng thống sẽ dẫn đến một hành tinh khí có cùng thành phần với Mặt trời, nhưng các hành tinh cũng có thể đã hình thành khi một lõi rắn thu được khí tinh vân.
Trong các mô hình hiện tại, bốn hành tinh khổng lồ có lõi đá và băng có kích thước gần bằng nhau, nhưng tỷ lệ hydro và heli giảm từ khoảng 300 khối lượng Trái Đất ở Sao Mộc xuống 75 ở Sao Thổ và chỉ một số ít ở Thiên vương tinh và Hải vương tinh. Do đó, trong khi những người khổng lồ khí chủ yếu bao gồm hydro và heli, thì những người khổng lồ băng chủ yếu bao gồm các nguyên tố nặng hơn (O, C, N, S), chủ yếu ở dạng nước, metan và amonia. Các bề mặt đủ lạnh để hydro phân tử ở dạng lỏng, vì vậy phần lớn mỗi hành tinh có khả năng là một đại dương hydro phủ lên một trong những hợp chất nặng hơn. Bên ngoài lõi, Sao Mộc có lớp phủ hydro kim loại lỏng và bầu khí quyển hydro và heli phân tử. Hydro kim loại không kết hợp tốt với helium và trong Sao Thổ, nó có thể tạo thành một lớp riêng biệt bên dưới hydro kim loại.
Hành tinh đất đá
Các hành tinh đất đá được cho là đến từ cùng một vật chất tinh vân như các hành tinh khổng lồ, nhưng chúng đã mất hầu hết các nguyên tố nhẹ hơn và có lịch sử khác nhau. Các hành tinh gần Mặt trời hơn có thể có phần tử vật liệu chịu lửa cao hơn, nhưng nếu các giai đoạn hình thành sau này của chúng liên quan đến sự va chạm của các vật thể lớn có quỹ đạo lấy mẫu các phần khác nhau của Hệ Mặt trời, thì có thể có ít sự phụ thuộc hệ thống vào vị trí.
Thông tin trực tiếp về Sao Hỏa, Sao Kim và Sao Thủy phần lớn đến từ các nhiệm vụ tàu vũ trụ. Sử dụng quang phổ tia gamma, thành phần của lớp vỏ Sao Hỏa đã được đo bằng quỹ đạo Mars Odyssey và lớp vỏ của Sao Thủy bằng tàu vũ trụ MESSENGER . Thông tin bổ sung về Sao Hỏa xuất phát từ các thiên thạch rơi xuống Trái Đất (Shergottite, Nakhlite s và Chassignite, được gọi chung là thiên thạch SNC). Sự phong phú cũng bị hạn chế bởi khối lượng của các hành tinh, trong khi sự phân bố bên trong của các yếu tố bị hạn chế bởi những khoảnh khắc quán tính của chúng.
Các hành tinh ngưng tụ từ tinh vân mặt trời và phần lớn các chi tiết về thành phần của chúng được xác định bằng cách phân đoạn khi chúng nguội đi. Các giai đoạn ngưng tụ rơi vào năm nhóm. Đầu tiên để ngưng tụ là các vật liệu giàu các yếu tố chịu lửa như Ca và Al. Chúng được theo sau bởi niken và sắt, sau đó magiê silicat. Dưới khoảng 700 kelvin s (700 K), FeS và các kim loại và silicat giàu dễ bay hơi tạo thành nhóm thứ tư, và trong nhóm thứ năm FeO nhập silicat magnesi. Các thành phần của các hành tinh và Mặt trăng là chondritic , có nghĩa là trong mỗi nhóm, tỷ lệ giữa các yếu tố giống như trong các chondrites carbonaceous.
Các ước tính của các thành phần hành tinh phụ thuộc vào mô hình được sử dụng. Trong mô hình 'ngưng tụ cân bằng', mỗi hành tinh được hình thành từ một "vùng cho ăn", trong đó các thành phần của chất rắn được xác định bởi nhiệt độ trong vùng đó. Do đó, Sao Thủy hình thành ở 1400 K, trong đó sắt vẫn ở dạng kim loại nguyên chất và có ít magnesi hoặc silic ở dạng rắn; Sao Kim ở 900 K, vì vậy tất cả magnesi và silicon ngưng tụ; Trái Đất ở 600 K, vì vậy nó chứa FeS và silicat; và sao Hỏa ở 450 K, vì vậy FeO được tích hợp vào silicat magnesi. Vấn đề lớn nhất với lý thuyết này là các chất bay hơi sẽ không ngưng tụ, do đó các hành tinh sẽ không có bầu khí quyển và Trái Đất không có bầu khí quyển.
Trong các mô hình chondritic trộn , các chế phẩm của chondrites được sử dụng để ước tính các thành phần hành tinh. Ví dụ, một mô hình trộn hai thành phần, một thành phần có thành phần của chondrites C1 và một thành phần chỉ có các thành phần chịu lửa của chondrites C1. Trong một mô hình khác, sự phong phú của năm nhóm phân đoạn được ước tính bằng cách sử dụng một yếu tố chỉ mục cho mỗi nhóm. Đối với nhóm vật liệu chịu lửa nhất, uranium được sử dụng; sắt cho lần thứ hai; tỷ lệ kali và thallium so với urani trong hai lần tiếp theo; và tỷ lệ mol FeO / (FeO + MgO) cuối cùng. Sử dụng các mô hình nhiệt và địa chấn cùng với lưu lượng và mật độ nhiệt, Fe có thể bị hạn chế trong vòng 10 phần trăm trên Trái Đất, Sao Kim và Sao Thủy. Bạn có thể bị giới hạn trong khoảng 30% trên Trái Đất, nhưng sự phong phú của nó trên các hành tinh khác dựa trên "những phỏng đoán có giáo dục". Một khó khăn với mô hình này là có thể có những lỗi đáng kể trong dự đoán của nó về sự phong phú dễ bay hơi vì một số chất bay hơi chỉ bị ngưng tụ một phần.
Vỏ Trái Đất
Các thành phần đá phổ biến hơn là gần như tất cả các oxit; Chloride, sulfide và fluoride là những ngoại lệ quan trọng duy nhất đối với điều này và tổng lượng của chúng trong bất kỳ loại đá nào thường ít hơn 1%. Đến năm 1911, F. W. Clarke đã tính toán rằng hơn 47% vỏ Trái Đất bao gồm oxy. Nó xảy ra chủ yếu trong sự kết hợp như các oxit, trong đó chủ yếu là silica, alumina, oxit sắt và các loại cacbonat khác nhau (calci cacbonat, magnesi cacbonat, natri cacbonat và kali cacbonat). Các silica có chức năng chủ yếu là một axit, tạo thành silicat và tất cả các khoáng chất phổ biến nhất của đá lửa đều có bản chất này. Từ một tính toán dựa trên 1672 phân tích của nhiều loại đá, Clarke đã đưa ra kết quả sau đây là thành phần phần trăm trung bình của vỏ Trái Đất: SiO2 = 59,71, Al2O3 = 15,41, Fe2O3 = 2,63, FeO = 3,52, MgO = 4,36, CaO = 4,90, Na2O = 3,55, K2O = 2,80, H2O = 1,52, TiO2 = 0,60, P2O5 = 0,22, (tổng 99,22%). Tất cả các thành phần khác chỉ xảy ra với số lượng rất nhỏ, thường là ít hơn 1%.
Những oxit này kết hợp một cách khó hiểu. Ví dụ, kali (kali cacbonat) và soda (natri cacbonat) kết hợp để tạo ra fenspat. Trong một số trường hợp, chúng có thể có các dạng khác, chẳng hạn như nepheline, leucite và muscovite, nhưng trong phần lớn các trường hợp chúng được tìm thấy dưới dạng fenspat. Axit photphoric với vôi (calci cacbonat) tạo thành apatit. Titanium dioxide với oxit sắt tạo ra ilmenit. Một phần của vôi tạo thành fenspat vôi. Magnesi carbonate và oxit sắt với silica kết tinh thành olivin hoặc enstatite, hoặc với alumina và vôi tạo thành các silicat ferro-magnes phức tạp mà pyroxen, amphibole và biotit là chủ yếu. Bất kỳ dư thừa silica trên những gì được yêu cầu để trung hòa các base sẽ tách ra thành thạch anh; dư thừa alumina kết tinh như corundum. Chúng chỉ được coi là xu hướng chung. Có thể, bằng phân tích đá, có thể nói xấp xỉ những khoáng chất mà đá chứa, nhưng có rất nhiều ngoại lệ đối với bất kỳ quy tắc nào.
Kết cấu khoáng sản
Ngoại trừ trong đá lửa axit hoặc silic chứa hơn 66% silica, được gọi là đá felsic, thạch anh không có nhiều trong đá lửa. Trong các loại đá cơ bản (chứa 20% silica hoặc ít hơn), rất hiếm khi chúng chứa nhiều silic, chúng được gọi là đá m khủng. Nếu magnesi và sắt trên trung bình trong khi silica thấp, olivin có thể được dự kiến; trong đó silica có mặt với số lượng lớn hơn các khoáng chất ferro-magnesi, như augite, hornblend, enstatite hoặc biotite, xảy ra thay vì olivin. Trừ khi kali cao và silica tương đối thấp, leucite sẽ không có mặt, vì leucite không xảy ra với thạch anh tự do. Nepheline, tương tự, thường được tìm thấy trong đá có nhiều soda và tương đối ít silica. Với độ kiềm cao, pyroxenes và amphibole chứa soda có thể có mặt. Tỷ lệ phần trăm của silica và kiềm càng thấp thì tỷ lệ nhiễm fenspat plagioclase càng cao khi được ký hợp đồng với soda hoặc fenspat kali.
Lớp vỏ Trái Đất bao gồm 90% khoáng chất silicat và sự phong phú của chúng trong Trái Đất như sau: plagioclase feldspar (39%), fenspat kiềm (12%), thạch anh (12%), pyroxene (11%), amphibole (5%), micas (5%), khoáng sét (5%); các khoáng chất silicat còn lại chiếm 3% vỏ Trái Đất. Chỉ 8% Trái Đất bao gồm các khoáng chất không silicat như cacbonat, oxit và sulfide.
Yếu tố xác định khác, cụ thể là các điều kiện vật lý tham dự hợp nhất, đóng vai trò trên một phần nhỏ hơn, nhưng không có nghĩa là không đáng kể. Một số khoáng chất thực tế bị giới hạn trong các loại đá xâm nhập sâu, ví dụ, microcline, muscovite, diallage. Leucite rất hiếm trong khối plutonic; nhiều khoáng chất có đặc thù đặc biệt trong đặc tính vi mô tùy theo chúng kết tinh ở độ sâu hay gần bề mặt, ví dụ, hypersthene, orthoclase, thạch anh. Có một số trường hợp tò mò về các loại đá có cùng thành phần hóa học, nhưng bao gồm các khoáng chất hoàn toàn khác nhau, ví dụ, hornblendite của Gran, ở Na Uy, chỉ chứa hornblend, có cùng thành phần với một số camptonite của cùng một địa phương có chứa fenspat và hornblend của nhiều loại khác nhau. Trong mối liên hệ này, chúng tôi có thể lặp lại những gì đã nói ở trên về sự ăn mòn của khoáng vật por porritic trong đá lửa. Trong rhyolite và trachytes, các tinh thể đầu tiên của hornblend và biotite có thể được tìm thấy với số lượng lớn được chuyển đổi một phần thành augit và Magnetite. Hornblende và biotite ổn định dưới áp suất và các điều kiện khác bên dưới bề mặt, nhưng không ổn định ở mức cao hơn. Trong khối lượng mặt đất của những tảng đá này, augite gần như phổ biến. Nhưng các đại diện plutonic của cùng loại magma, granit và syenit có chứa biotite và hornblend phổ biến hơn nhiều so với augite.
Dấu vết kim loại trong đại dương
Kim loại dấu vết dễ dàng tạo thành phức chất với các ion chính trong đại dương, bao gồm hydroxide, cacbonat và chloride và sự thay đổi hóa học của chúng thay đổi tùy thuộc vào việc môi trường bị oxy hóa hay khử. Benjamin (2002) định nghĩa các phức kim loại có nhiều loại phối tử, trừ nước, là phức chất phối tử. Trong một số trường hợp, một phối tử chứa nhiều hơn một nguyên tử nhà tài trợ, tạo thành các phức chất rất mạnh, còn được gọi là chelate (phối tử là chelator). Một trong những chất thải sắt phổ biến nhất là EDTA (ethylenediaminetetraacetic acid), có thể thay thế sáu phân tử nước và tạo liên kết mạnh với các kim loại có cộng hai điện tích. Với sự phức tạp mạnh hơn, hoạt động thấp hơn của ion kim loại tự do được quan sát. Một hậu quả của khả năng phản ứng thấp hơn của các kim loại phức so với cùng nồng độ của kim loại tự do là sự thải sắt có xu hướng ổn định kim loại trong dung dịch nước thay vì trong chất rắn.
Nồng độ của các kim loại vi lượng cadmium, đồng, molybdenum, mangan, rhenium, uranium và vanadi trong trầm tích ghi lại lịch sử oxy hóa khử của các đại dương. Trong môi trường nước, cadmium (II) có thể ở dạng CdCl+(aq) trong nước oxic hoặc CdS (s) trong môi trường khử. Do đó, nồng độ Cd cao hơn trong trầm tích biển có thể chỉ ra các điều kiện tiềm năng oxy hóa khử thấp trong quá khứ. Đối với đồng (II), một dạng phổ biến là CuCl+ (aq) trong môi trường oxic và CuS (s) và Cu2S trong môi trường giảm. Môi trường nước biển giảm dẫn đến hai trạng thái oxy hóa có thể là đồng, Cu (I) và Cu (II). Molypden có mặt ở trạng thái oxy hóa Mo (VI) dưới dạng MoO42-(aq) trong môi trường oxic. Mo (V) và Mo (IV) có mặt trong các môi trường giảm ở dạng MoO2+(aq) và MoS2(s). Rhenium có mặt ở trạng thái oxy hóa Re (VII) dưới dạng ReO4- trong điều kiện oxi, nhưng bị khử thành Re (IV) có thể tạo thành ReO2 hoặc ReS<phụ>2</sub>. Uranium ở trạng thái oxy hóa VI trong UO2(CO3)34- (aq) và được tìm thấy ở dạng rút gọn UO2(s). Vanadi ở một số dạng ở trạng thái oxy hóa V (V); HVO42- và H2 VO4-. Các dạng rút gọn của nó có thể bao gồm VO2+, VO(OH)3- và V(OH)3. Sự thống trị tương đối của các loài này phụ thuộc vào pH.
Các kim loại có dấu vết phân phối chất dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ với các chu kỳ bên trong của chất hữu cơ hạt, đặc biệt là sự đồng hóa bởi sinh vật phù du. Nồng độ hòa tan thấp nhất của các kim loại này là ở bề mặt đại dương, nơi chúng bị đồng hóa bởi sinh vật phù du. Khi hòa tan và phân hủy xảy ra ở độ sâu lớn hơn, nồng độ của các kim loại vi lượng này tăng lên. Thời gian lưu trú của các kim loại này, chẳng hạn như kẽm, là vài nghìn đến một trăm nghìn năm. Cuối cùng, một ví dụ về kim loại vi lượng được nhặt rác là nhôm, có tương tác mạnh với các hạt cũng như thời gian cư trú ngắn trong đại dương. Thời gian cư trú của kim loại vi lượng nhặt rác là khoảng 100 đến 1000 năm. Nồng độ của các kim loại này cao nhất xung quanh trầm tích đáy, thủy nhiệt và sông. Đối với nhôm, bụi khí quyển cung cấp nguồn đầu vào bên ngoài lớn nhất vào đại dương.
Sắt và đồng cho thấy sự phân phối lai trong đại dương. Họ bị ảnh hưởng bởi tái chế và nhặt rác dữ dội. Sắt là một chất dinh dưỡng hạn chế trong các khu vực rộng lớn của đại dương, và được tìm thấy rất nhiều cùng với mangan gần lỗ thông thủy nhiệt. Ở đây, nhiều kết tủa sắt được tìm thấy, chủ yếu ở dạng sulfide sắt và các hợp chất oxyhydroxide sắt bị oxy hóa. Nồng độ của sắt gần lỗ thông thủy nhiệt có thể lên tới một triệu lần nồng độ được tìm thấy trong đại dương mở.
Sử dụng các kỹ thuật điện hóa, có thể chỉ ra rằng các kim loại vi lượng hoạt tính sinh học (kẽm, coban, cadmium, sắt và đồng) bị ràng buộc bởi các phối tử hữu cơ trong nước biển bề mặt. Những phức chất phối tử này phục vụ để giảm khả dụng sinh học của kim loại vi lượng trong đại dương. Ví dụ, đồng, có thể độc hại đối với thực vật phù du đại dương và vi khuẩn, có thể tạo thành phức hợp hữu cơ. Sự hình thành của các phức hợp này làm giảm nồng độ của các phức vô cơ sinh học đồng có thể gây độc cho sinh vật biển ở nồng độ cao. Không giống như đồng, độc tính kẽm trong thực vật phù du biển thấp và không có lợi thế nào trong việc tăng liên kết hữu cơ của Zn2+. Ở những vùng có chất diệp lục thấp, chất dinh dưỡng thấp, sắt là chất dinh dưỡng hạn chế, với các loài chiếm ưu thế là các phức hữu cơ mạnh của Fe (III).
Một số định nghĩa tham khảo
F.Clarke (1924): "Trong mục tiêu của chúng ta, mỗi loại đá có thể xem như một hệ hóa học cân bằng, trong đó dưới tác động của các tác nhân khác nhau đã xảy ra những biến đổi và mỗi biến đổi như vậy có liên quan đến sự phá hủy cân bằng, dẫn tới xuất hiện một hệ mới bền vững trong điều kiện mới. Nghiên cứu những biến đổi này là nội dung của địa hóa học".
V.I. Vernatski (1927): "Địa hóa học nghiên cứu các nguyên tố hóa học - các nguyên tử của vỏ Trái Đất và có thể cả toàn bộ Trái Đất nữa. Địa hóa học nghiên cứu lịch sử của các nguyên tố hóa học, sự phân bố và vận động của chúng trong không gian theo thời gian, quan hệ nguồn gốc của chúng trong hành tinh của chúng ta"
A.E. Fersman (1932): "Địa hóa học nghiên cứu lịch sử của các nguyên tố hóa học trong vỏ Trái Đất và hành tinh chúng ta trong các điều kiện nhiệt động và hóa lý khác nhau của tự nhiên"
V.M. Goldschmidt (1954 - với sự hiệu đính của A.Meyer): "Địa hóa học hiện đại nghiên cứu hàm lượng của các nguyên tố hóa học trong các khoáng vật, quặng, đất, nước và không khí, các quy luật khống chế sự phân bố của các nguyên tố hóa học và các đồng vị trong Trái Đất".
Là một ngành khoa học mới về Trái Đất, địa hóa học ra đời làm cầu nối giữa ngành khoa học tự nhiên cơ bản như vật lý, hóa học với các ngành khoa học địa chất: khoáng vật học, thạch học.
Tham khảo
Nguyễn Văn Phổ, Địa hóa học'', Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2002
Liên kết ngoài
The Geochemistry of Igneous Rocks (Gunn Interactive Ltd.)
Khoa học Trái Đất
|
25175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20C%C6%B0%C6%A1ng
|
Tân Cương
|
Tân Cương (; ; bính âm bưu chính: Sinkiang) tên chính thức là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Tân Cương là đơn vị hành chính đông thứ hai mươi tư về số dân với 24 triệu dân, tương đương với Cameroon, đứng thứ hai mươi sáu về kinh tế Trung Quốc và GDP danh nghĩa đạt 1.220 tỉ NDT (184,3 tỉ USD) tương ứng với Kazakhstan. Tân Cương có chỉ số GDP đầu người đứng thứ mười chín, đạt 49.275 NDT (tương ứng 7.475 USD).
Tân Cương là đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn nhất của Trung Quốc với diện tích lên tới 1,6 triệu km². Tân Cương có biên giới với Nga (giáp vùng Altai), Mông Cổ (giáp các tỉnh Bayan-Ölgii, Khovd, Govi-Altai), Kazakhstan (giáp các tỉnh Đông Kazakhstan và Almaty), Kyrgyzstan (giáp các tỉnh Osh, Naryn và Issyk-Kul), Tajikistan (giáp tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan), Afghanistan (giáp tỉnh Badakhshan), Pakistan (giáp các lãnh thổ Azad Jammu và Kashmir và Gilgit-Baltistan) và Ấn Độ (giáp lãnh thổ liên bang Ladakh). Tân Cương có trữ lượng dầu mỏ và là khu vực sản xuất khí thiên nhiên lớn nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng quản lý về hành chính đối với khu vực Aksai Chin, là nơi Ấn Độ cũng tuyên bố chủ quyền.
Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh. Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là Uyghur (Duy Ngô Nhĩ), Hán, Kazakh, Hồi, Kyrgyz và Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú.
Tên gọi
Khu vực Tân Cương ngày nay từng được gọi với nhiều tên khác nhau trong thời kỳ đầu, bao gồm: 西域 (Xiyu, Tây Vực), Tartary thuộc Trung Hoa, Thượng Tartary, Đông Chagatay, Mugholistan, Kashgaria, Altishahr ('sáu thành phố' của Tarim), Tiểu Bokhara và Serindia.
Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời Nhà Thanh. Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay.
Địa lý
Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. dãy núi Thiên Sơn (Uyghur: غات ىرڭەت, Tengri Tagh) chia tách khu tự trị thành hai bồn địa lớn: Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Hầu hết bồn địa Tarim là sa mạc Taklamakan- điểm thấp nhất của Tân Cương, cũng như toàn Trung Quốc là Vệt lõm Turpan với cao độ 155 mét dưới mực nước biển, điểm cao nhất là K2, trên 8611 mét so với mực nước biển trên biên giới với Pakistan. Các dãy núi khác là Pamir ở phía đông nam, Karakoram ở phía nam và Dãy núi Altai ở phía bắc.
Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn và dãy núi Pamir. Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của Bình nguyên Hoa Bắc.
Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo đường thẳng.
Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối Islamabad, Pakistan với Kashgar trên Hành lang Khunjerab.
Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8.
Kinh tế
Tân Cương được biết đến với các loại hoa quả và sản phẩm khác như nho, dưa, lê, bông, lúa mì, tơ lụa, quả óc chó và cừu. Tân Cương cũng có trữ lượng lớn về khoáng sản và dầu mỏ.
Nhân khẩu
Những người di cư Đông Á đã tới điểm phía đông của bồn địa Tarim khoảng 3000 năm trước, trong khi người Duy Ngô Nhĩ đã tới đây sau sự sụp đổ của Hãn quốc Hồi Hột tại Mông Cổ ngày nay vào khoảng năm 842.
Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là các dân tộc Turk như Uyghur, Uzbek, Kyrgyz, Tatar và Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là Hán, Mông Cổ, Nga, Tích Bá và Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương.
Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ Trung Nguyên.
Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949 lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay. Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương, một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên. Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con.
Lịch sử
Thời sơ khai
Theo J.P. Mallory và Victor H. Mair, các nguồn Trung Hoa mô tả sự hiện diện của những "người da trắng với tóc màu phớt" hoặc người Bạch trong Sơn Hải Kinh, họ sinh sống bên ngoài biên giới tây bắc của Trung Hoa.
Các xác ướp Tân Cương có niên đại từ thế kỷ III TCN có tóc màu hung đỏ hoặc vàng hoe, nay được trưng bày tại Bảo tàng Ürümqi; các xác ướp này được phát hiện trong cùng khu vực lòng chảo Tarim. Các bộ lạc du mục như Nguyệt Chi thuộc nhóm người nhập cư nói tiếng Ấn-Âu, nhóm người này định cư ở phía đông Trung Á (có thể xa đến tỉnh Cam Túc). Văn hóa Ordos ở miền bắc Trung Quốc, nằm ở phía đông lãnh địa của người Nguyệt Chi, là một ví dụ khác.
Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81 của Quản Tử do Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc. Việc cung cấp ngọc thạch từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ Phụ Hảo mộ từ thời nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ Hòa Điền thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông nghiệp."
Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên, trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này:
Người Nguyệt Chi ban đầu sống tại khu vực giữa Kỳ Liên và Đôn Hoàng, sau khi bị Hung Nô đánh bại thì họ di chuyển ra xa [về phía tây], đi qua Uyên, tây kích người Đại Hạ, toại đô ở phía bắc Quy Thủy (媯水, tức Amu Darya). Lập vương đình. Một bộ phận nhỏ người dân không thể tiến hành cuộc hành trình về phía tây đã tìm cách tị nạn ở chỗ người Khương tại Nam Sơn, hiệu "Tiểu Nguyệt Chi".
Thời kỳ tranh chấp Hung Nô và nhà Hán
Từ thế kỷ thứ II TCN, sau khi Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây Vực, nhà Hán và Hung Nô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh kéo dài hơn bảy mươi năm tại Tây Vực.
Theo Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước Đại Uyển thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền.
Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị người Hung Nô khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm. Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý, nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến Trường An, Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục Đại Uyển.
Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về cao nguyên Pamir lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương, đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN, Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười.
Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết: "Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa.
Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn trâu/bò, lừa, ngựa, lạc đà chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung Nô dưới nhiều mức độ khác nhau.
Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức... Luân Đài, Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..."
Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của Con đường tơ lụa, đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh, trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở Trung Nguyên.
Với tầm nhìn rộng lớn của Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua Hán Vũ Đế. Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội địa đến để thay thế và làm tiếp.
Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước Vu Di làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài. Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất là các đồn điền ở Thổ Lỗ Phồn, Cáp Mật, Cát Mộc Tát Nhĩ, Khố Nhĩ Lặc, A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ Issyk Kul thuộc địa phận Kyrgyzstan ngày nay.
Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những bước tiến rõ rệt và sâu sắc.
Đến đời Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN), vua Hung Nô là Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng nhà Hán, bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của Con đường tơ lụa được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời Đông Hán, khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch.
Sau thời Hán
Triều Tây Tấn bị các sắc dân du mục phương Bắc tiêu diệt vào đầu thế kỷ thứ IV. Một số vương quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc đã nối tiếp nhau cai trị phần Tây Bắc: Tiền Lương, Tiền Tần, Hậu Lương và Tây Lương. Sau khi nước Bắc Lương bị diệt, Thư Cừ Vô Húy và Thư Cừ An Chu đã tiến về phía tây để mong phục quốc, chiếm giữ một phần Tân Cương trong một thời gian ngắn. Các nước này đều cố gắng duy trì chế độ bảo hộ với khu vực Tân Cương với các mức độ thành công khác nhau. Sau khi Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Hoa, triều đại này kiểm soát khu vực đông nam Tân Cương ngày nay. Các quốc gia bản địa có thể kể đến như Sơ Lặc, Vu Điền, Quỷ Tử, Thả Mạt, Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ, Thiện Thiện.
Đế chế Đột Quyết
Vào thế kỷ thứ V, Thổ Dục Hồn và Nhu Nhiên bắt đầu mở rộng kiểm soát vào phía nam và bắc Tân Cương. Đến thế kỷ thứ VI thì người Đột Quyết xâm chiếm vùng Altay, đánh bại người Nhu Nhiên và thành lập Đế chế Đột Quyết, kiểm soát hầu hết vùng Trung Á từ biển Aral phía Tây tới hồ Baikal phía đông. Với Tùy - Đường ở Trung Nguyên, Tây Đột Quyết thường hay uy hiếp Tây Vực giống như người Hung Nô đối với thời Lưỡng Hán.
Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các sa mạc phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập, nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết.
Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây A Nhĩ Thái Sơn đến đông Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp.
Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại nhà Đường.
Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của người Ba Tư. Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của phương Tây.
Thời nhà Đường
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Thoạt đầu, nhà Đường đem quân tiễu trừ lực lượng tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658, nhà Đường đặt An Tây Đô hộ phủ tại Quy Từ, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây.
Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến Trường An triều kiến Đường Thái Tông và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại Đình Châu (nay là Jimusar).
A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô đến lưu vực sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường.
Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường. Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657.
Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở Côn Lăng và Mông Trì tại bắc lộ Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên lập Bắc Đình đô hộ phủ ở Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn.
Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư.
Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước Quy Từ (nay là huyện Khố Xa, Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải. Năm Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn.
Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng có.
Đế chế Duy Ngô Nhĩ
Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Duy Ngô Nhĩ gọi là bộ lạc Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực sông Ngạc Nhĩ Hồn và sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhĩ (tức hồ Bunnur). Tùy thư và Đường thư đều nói người Hồi Hột "không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di". Gọi là không có tù trưởng tức là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ lạc khác.
Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả hãn và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).
Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học.
Khi có loạn An Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây.
Khi nước Thổ Phồn chiếm Hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại.
Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực.
Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực.
Đến cuối thế kỷ thứ VIII, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ IX xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt.
Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử.
Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là "Cam Châu Hồi Cốt", một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamakan.
Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á.
Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Duy Ngô Nhĩ hiện nay.
Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng thế kỷ X, cương vực bao gồm vùng đông và nam hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay.
Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị, một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và một là Ca Thập Hát Nhĩ.
Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ thế kỷ X, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo
Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực.
Thời kỳ Tây Liêu
Khi nhà Liêu của người Khiết Đan bị nhà Kim của người Nữ Chân tiêu diệt, một thành viên của hoàng tộc Liêu là Da Luật Đại Thạch đã dẫn một bộ phận người Khiết Đan tiến về phía tây, thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ của Cao Xương Hồi Cốt cũng cam kết lòng trung thành của mình với ông. Da Luật Đại Thạch tăng cường lực lượng của mình, dần dần mở rộng quyền thế đến khu vực Qayaliq và Almaliq. Nỗ lực ban đầu nhằm chiếm Kashgar của lực lượng Da Luật Đại Thạch đã thất bại khi người cai trị của Khách Lạt hãn quốc (Kara-Khanid) tại đó đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, người cai trị tại Balasaghun, gặp khó khăn với các đội quân du mục của người Cát La Lộc (Karluk) và Khương Lý (Qanqli), đã nhờ Đại Thạch giúp đỡ và mời đội quân của ông đến. Đại Thạch thay vào đó đã chiếm thành phố, theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, "lên ngai vàng mà không mất gì.". Đại Thạch sau đó đã thiết lập quyền lực của mình tại Kashgar, Khotan, Kirghiz, và trung tâm của người Duy Ngô Nhĩ tại Beshbalik. Tuy nhiên, một nỗ lực nhằm tái lập triều Liêu tại Trung Quốc đã thất bại. Da Luật Đại Thạch mất năm 1143 khi đang là chủ nhân của phần lớn vùng Trung Á. Khi ông mất, đế quốc Tây Liêu bao trùm các khu vực Transoxiana, Ferghana, Semirechye, Lòng chảo Tarim và Dzungaria. Năm 1211, phò mã người Nãi Man Khuất Xuất Luật đã buộc Da Luật Trực Lỗ Cổ phải nhường ngôi. Khuất Xuất Luật lên nắm quyền, ông được ghi chép là đã thực hiện một chính sách chống Hồi giáo. Theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, ông yêu cầu dân cư theo Hồi giáo của một thị trấn lựa chọn cải sang Cảnh giáo hoặc Phật giáo, hoặc mặc trang phục Khiết Đan, dân cư đã lựa chọn mặc trang phục Khiết Đan. Khuất Xuất Luật đã tấn công thành Almaliq (A Lực Ma Lý), và người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng Triết Biệt (Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại 30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam đến Kashgar, tuy nhiên hành vi cướp bóc và đốt phá trước đây khi ông chiếm được thành, chính sách chống Hồi giáo của ông, cũng như việc quân đội của ông trú chân tại các hộ dân bản địa, đã khiến người dân Kashgar trở nên đối kháng với ông. Khi quân Mông Cổ tiếp cận Kashgar, Khuất Xuất Luật đã không thể tìm được sự trợ giúp tại đây và lại phải chạy trốn một lần nữa. Theo Ata-Malik Juvayni, người dân Kashgar sau đó đã giết chết binh sĩ của ông. Ông tiếp tục đi về phía nam để đến dãy núi Pamir, cuối cùng đến ranh giới giữa Badakhshan và Wakhan vào năm 1218.
Thời kỳ người Mông Cổ cai trị
Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ và khuếch trương lãnh thổ, nhà nước Duy Ngô Nhĩ ở vùng Turfan-Urumqi đã quy phục Mông Cổ vào năm 1209, đóng góp thuế và quân lính cho quân Mông Cổ, đổi lại các vị quân chủ Duy Ngô Nhĩ duy trì quyền lực cai quản vương quốc của họ. Dưới thời Đế quốc Mông Cổ, Tân Cương bị phân chia giữa triều Nguyên và Sát Hợp Đài hãn quốc, sau đó Sát Hợp Đài hãn quốc kiểm soát hầu hết khu vực. Đến giữa thế kỷ XIV, Sát Hợp Đài hãn quốc bị chia cắt thành các hãn quốc nhỏ hơn, Tân Cương do nhiều hãn Mông Cổ bị Ba Tư hóa đồng thời cai quản, bao gồm Mogholistan (với sự trợ giúp của các Emir Dughlat bản địa), Uigurstan (sau là Turpan), và Kashgaria. Các thủ lĩnh này giao chiến với nhau và với triều Timur tại Transoxania ở phía tây và người Ngõa Lạt (Mông Cổ Tây) ở phía đông. Mặc dù khu vực đã phát triển nền văn hóa Ba Tư ở mức độ cao trong giai đoạn này, song các cuộc tranh giành quyền kế vị và phân liệt nội bộ (Kashgaria bị tách làm hai trong hàng thế kỷ) đồng nghĩa với việc có ít tác phẩm viết về khu vực vào thế kỷ XVI và XVII.
Vào thế kỷ XVII, một nhánh của người Mông Cổ là người Chuẩn Cát Nhĩ đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam Siberia. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, khi nó bị triều Thanh chinh phục.
Thời Thanh
Nhà Thanh đã giành quyền kiểm soát đông bộ Tân Cương sau các cuộc chiến kéo dài với người Chuẩn Cát Nhĩ, bắt đầu thế từ thế kỷ XVII. Năm 1755, với sự giúp đỡ của thai cát Ngõa Lạt A Mục Nhĩ Tát Nạp, quân Thanh đã tiến công Y Ninh, bắt được khả hãn của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau khi thỉnh cầu được sách phong là khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ song chưa được chuẩn thuận, A Mục Nhĩ Tát Nạp đã nổi dậy chống nhà Thanh. Hai năm sau đó, quân Thanh đã tiêu diệt dư bộ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và nhiều người Hồi đã chuyển đến khu vực.
Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh đậu mùa. Một nhà văn là Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng." Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh, và phải mất hàng thế hệ để phục hồi.
Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên, vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập trị sở tại Huệ Viễn, 30 km về phía tây của Y Ninh (Yining).
Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng 155.000 người.
Bành trướng Tân Cương
Trong khoảng thời gian 1850 trở đi, Đế quốc Nga không ngừng quan tâm đến Tân Cương. Vùng Turkestan và Đông Siberi thì bị nước Nga đe dọa xâm chiếm. Năm 1868, Tả Tông Đường được triều đình phái đến Cam Túc ổn định tình hình ở đây, đến năm 1873 Tả Tông Đường đã nhờ Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải (Anh Quốc) trợ giúp số tiền 5 triệu lạng bạc làm quân phí, dẫn quân băng qua sa mạc tiến vào vùng Tarim đàn áp cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh A Cổ Bách (Yaqub Beg, 1820 – 1877) lãnh đạo ở Tân Cương, và chiếm miền Y Lê từ tay người Nga.
Trong thời gian này nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm 1875 đến 1878, mặt trận phía Tây (Turkestan, thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng bạc trong vòng 3 năm.
Năm 1865 Hão Hãn Cổ quốc A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm 1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm Ô Lỗ Mộc Tề.
Tháng 5 năm 1872 A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga. Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh đưa đến hàng vạn khẩu súng từ Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu súng, 8 đại bác, 2.000 đạn pháo. Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000 súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện.
Năm 1875 Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ, Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh lương.
Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh Hà Bắc, Phần Châu ở Sơn Tây, Bao Ninh và Thuận Tân ở Tứ Xuyên) và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến Lương Châu, Túc Châu, Ninh Hạ, Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến Cáp Mật và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương.
Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ XVIII khi nhà Thanh đóng quân ở Tân Cương.
Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội - kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy. Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự.
Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này, quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống quân sự hiện đại.
Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho Hồ Tuyết Nham lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương.
Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của Trương Diệu tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục, quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8 vạn người.
Năm 1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp.
Tả Tông Đường Tây chinh
Tả Tông Đường thành lập quân Tây chinh gồm nhiều sắc tộc Hán, Mãn, Hồi. Quân Hán và Hồi do Đổng Phúc Tường chỉ huy, quân Mãn do Ngạc Nhĩ và Khánh Nhạc chỉ huy. Tả Tông Đường giáo dục tinh thần chiến đấu cho binh sĩ ông nói "Tân Cương từ thời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn người A Cổ Bá chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này là để thu hồi biên cương cho Tổ quốc vì thế các tướng sĩ phải có ý thức quân dân một nhà".
Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt. Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc chắn vào kẻ thù.
Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây.
Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận quyết định.
Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống Thái Bình Thiên Quốc. Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng.
Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại.
Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch chinh phạt.
Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, tháng 3 năm 1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở Túc Châu. Tháng 8 năm 1876, quân Thanh bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8 ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành Ô Lỗ Mộc Tề đến tháng 11 thì công hãm thành Mã Nạp Tư Nam (Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do Trương Diệu chỉ huy tiến đến Khắc Thác Khắc Tôn, Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại Khố Nhĩ Lạc (Korla) thế cùng phải tự sát. Tháng 1 năm 1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành Khố Xa, A Khắc Tô (Aksu), Hòa Văn… đến năm 1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Chiếm được Y Lê
Y Lê (Ili) là tên gọi một vùng đất xung quanh lưu vực sông Y Lê (Ili river). Sông này bắt nguồn trong dãy núi Thiên Sơn, chảy về phía đông một đoạn ngắn rồi đột ngột quay về phía tây, sau đó vượt hơn một nghìn cây số trước khi đổ vào hồ Balkhash. Miền Y Lê nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, cư dân chủ yếu là người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và người Kazazh (Cáp Tát Khắc). Dưới thời nhà Thanh, miền Y Lê hoàn toàn thuộc về Trung Quốc; người Nga chiếm Y Lê năm 1871, sau đó vài năm Tả Tông Đường chiếm lại một nửa phía đông Y Lê. Biên giới hai nước được định lại như ngày nay vào năm 1881, và ngày nay miền Y Lê xưa kia nằm trên lãnh thổ nước Kazakhstan và miền tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc. Do nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, nên miền Y Lê đời Thanh còn thường được gọi là Thiên Sơn Bắc Lộ. Thực ra vùng đất Y Lê đã nằm dưới ảnh hưởng Trung Quốc từ thời nhà Hán, nhà Đường, khi ấy thường gọi là Luân Đài (là tên cũ của Urumqi). Trong các bài thơ Đường tả cảnh biên tái thường nhắc đến miền này với những cảnh hoang vu gió tuyết. Sầm Tham có câu: "Luân Đài đông môn tống quân khứ, khứ thì tuyết mãn Thiên Sơn lộ", hùng tráng tuyệt vời! Vào thời Tống, Nguyên, Minh, Trung Quốc không kiểm soát được miền này. Vào thời nhà Thanh, Y Lê là miền đất xa nhất về phía tây thuộc về Trung Quốc, thủ phủ là Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi). Thời nhà Thanh hay nghe cụm từ "đày đi Y Lê", đó là một hình phạt nặng, vì đi từ Bắc Kinh đến Y Lê phải mất vài tháng mới tới nơi.
Năm 1871 Nga viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại". Nhưng 7 năm sau khi Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ Sùng Hậu của nhà Thanh phải ký Điều ước Livadia năm 1879 gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280 vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình. Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt. Từ Hi Thái Hậu lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả Tôn Đường.
Mùa hè năm 1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ Túc Châu tấn công Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga.
Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại Anh và Pháp) vào ngày 24 tháng 2 năm 1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại St. Petersburg, theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm 1879. Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như: Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô, Lan Châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây An cơ khí cục thành lập năm 1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần.
Thời kỳ Dân Quốc
Năm 1912, triều Thanh bị Trung Hoa Dân Quốc thay thế, tuần phủ Viên Đại Hóa (袁大化) chạy trốn. Một thuộc hạ của Viên Đại Hóa là Dương Tăng Tân (楊增新), đã nắm quyền kiểm soát Tân Cương và nhậm chức trưởng quan nhân danh Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 cùng năm. Thông qua các thủ đoạn chính trị và khôn ngoan cân bằng giữa các cử tri đa sắc tộc, Dương Tăng Tân duy trì quyền kiểm soát Tân Cương cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1928.
Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là Kim Thụ Nhân (金樹仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933, Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm Kashgar, Khotan và Aksu ở tây nam Tân Cương. Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ Nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là Abdullah Bughra và Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm 1934. Trong Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc Thịnh Thế Tài(盛世才), ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ Liên Xô. Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của Mao Trạch Đông là Mao Trạch Dân, song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân.
1949–nay
Thời Liên Xô (1949-1991)
Đệ Nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô tại khu vực nay là châu Ili ở bắc bộ Tân Cương. Nước cộng hòa này chấm dứt tồn tại khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương năm 1949. Năm nhà lãnh đạo của nước cộng hòa đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trong không phận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949, trước khi họ có thể đàm phán tình trạng cuối cùng của Đông Turkestan với chính quyền Bắc Kinh. Tướng người Hồi Bạch Sùng Hy của Quốc Dân đảng đã ngăn ngừa việc Liên Xô tràn ngập Tân Cương bằng cách giải tán binh lính.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương.
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920,. Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế.
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.
Từ năm 1992-nay
Vào những năm sau khi Nga ra đời, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân phương Tây của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng Kavkaz. Song, khi Vladimir Putin lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009. Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga.
Chính trị
Hệ thống chính trị Tân Cương được tổ chức theo mô hình thời Xô viết với một chút thay đổi mang chất Trung Quốc. Từ năm 1979 đến nay, chính trị Tân Cương hoàn toàn tổ chức theo mô hình Trung Quốc. Thủ trưởng hành chính Tân Cương là Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với vị trí Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân thường là người bản địa, đứng đầu tối cao Tân Cương là Bí thư Khu ủy Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với cách gọi chung là Bí thư Tỉnh ủy, là người Hán.
Hành chính
a. Không bao gồm dân số của địa khu Altay và địa khu Tháp Thành.
Tôn giáo
Hiện nay, Tân Cương vẫn là một khu vực gồm nhiều tôn giáo, nhưng Đạo Hồi vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội của Tân Cương. Hiện nay, toàn khu vực Tân Cương tổng cộng có hơn 23 nghìn Thánh đường Hồi giáo và nơi tổ chức hoạt động tôn giáo khác như: chùa Lạt-ma, nhà thờ Thiên chúa giáo v.v, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân các dân tộc theo đạo. Tổ chức tôn giáo của Tân Cương chủ yếu có Hiệp hội Hồi giáo, Học viện kinh Islam, Hiệp hội Phật giáo v.v.
Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có người Uyghur (chủ yếu), người Kazakh, người Hồi, người Iran, người Tạng Hồi giáo, người Mông Cổ, người Tatar, người Kyrgyz, người Pakistan, người Tajik, người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương.
Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo Phật giáo Tây Tạng và một số theo Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo Cơ Đốc giáo với 24 nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo Thiên Chúa giáo, 25 nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100 người Nga theo Chính Thống giáo, có hai nhà thờ.
Giao thông vận tải
Nói chung giao thông vận tải ở Tân Cương gặp nhiều trở ngại do thời tiết khắc nghiệt, điều kiện hoang mạc ở vùng này. Hiện nay, các tuyến đường cao tốc xuyên Tân Cương đang được xây dựng để trở thành những tuyến đường huyết mạch phục vụ dầu mỏ và an toàn giao thông trong vùng. Song tình hình khắc nghiệt vẫn cản trở hoạt động phát triển giao thông ở đây.
Du lịch
Văn hóa Tân Cương
Các công trình kiến trúc tại Tân Cương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Khu tự trị Trung Quốc
Miền Tây Trung Quốc
Trung Á
Khởi đầu năm 1955 ở Trung Quốc
Đông Á
Vùng lịch sử
|
25176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20T%E1%BA%A5n
|
Hậu Tấn
|
Nhà Hậu Tấn (936-947) là một trong năm triều đại, gọi là Ngũ đại trong thời Ngũ đại Thập quốc (907-960) ở Trung Quốc.
Thành lập
Thạch Kính Đường (892-942), người gốc Sa Đà, là con rể Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên. Năm 936, khi đang trấn thủ Hà Đông, ông đã nhờ người Khiết Đan đem đại quân giúp đỡ và lật đổ nhà Hậu Đường. Để trả ơn, Thạch Kính Đường đã cắt đất của 16 châu Yên, Vân (các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây ngày nay) cho họ. Mặt khác, ông cung kính tôn Liêu làm "cha", gọi vua Liêu trẻ hơn mình 11 tuổi là "Vua cha".
Việc làm cung kính ngoại bang và nhất là cắt đất phía bắc của Thạch Kính Đường bị các nhà sử học Trung Quốc phê phán mạnh mẽ, coi là thủ phạm bán nước dẫn đến việc xâm lấn, chiếm đóng của các ngoại tộc nối tiếp nhau (Khiết Đan, Đảng Hạng, Nữ Chân, Mông Cổ) ở phía bắc Trung Quốc suốt hơn 400 năm (từ thời Hậu Tấn tới nhà Minh) mà các chính quyền cai trị Trung Nguyên của Trung Quốc không thể nào khôi phục lại được.
Ông lên ngôi, đổi quốc hiệu là Tấn. Tuy nhiên, trong sách sử viết là nhà Hậu Tấn (Ngũ đại) để phân biệt với nhà Tấn của họ Tư Mã sau thời Tam Quốc (265-420)
Diệt vong
Sau khi Thạch Kính Đường (Tấn Cao Tổ) lên ngôi thì đất đai bị thu hẹp, số thuế thu được giảm đi mà lại phải nộp cống nhiều cho người Khiết Đan. Do đó phải tăng thuế và áp dụng nhiều chính sách bạo ngược đối với dân chúng.
Hành động cung kính ngoại bang của Thạch Kính Đường khiến nhiều tướng địa phương như An Trọng Vinh không phục, nổi dậy làm loạn. Dù sau đó các cuộc làm loạn bị dẹp nhưng chính quyền Hậu Tấn càng suy yếu.
Năm 942, Tấn Cao Tổ chết, con người anh là Thạch Trọng Quý lên ngôi, tức là Tấn Xuất Đế. Phụ chính Cảnh Diên Quảng khuyên Xuất Đế không phục nước Liêu, chỉ xưng là "cháu" mà không tôn Liêu là "vua".
Người Khiết Đan thấy vậy mưu tính việc chiếm trọn miền Bắc Trung Quốc, Vua Liêu Da Luật Đức Quang liền mang quân Nam tiến. Quân Tấn hai lần đẩy lui quân Liêu (944, 945).
Đức Quang liền quay sang cách cũ, chia rẽ nội bộ Tấn, mua chuộc tướng Đỗ Trọng Uy, hứa đưa lên làm vua như giúp Thạch Kính Đường trước đây. Một bộ phận tướng Tấn cũng phản Tấn theo Liêu. Năm 947, người Khiết Đan chiếm được Kinh đô và gần hết miền Bắc Trung Quốc. Thạch Trọng Quý cùng gia quyến bị người Khiết Đan bắt giữ đưa về Bắc và chết già ở đó. Do Trọng Quý bị bắt ra khỏi nước nên được gọi là Xuất Đế.
Nhà Hậu Tấn truyền được mười một năm tổng cộng hai đời, rồi bị Khiết Đan diệt. Lưu Tri Viễn, một bộ tướng của Thạch Kính Đường, nhân khi lòng dân oán ghét ngoại tộc Khiết Đan chiếm đóng bèn đem quân đánh đuổi Khiết Đan năm 947 để thành lập nhà Hậu Hán
Các vị vua nhà Hậu Tấn
Các chủ đề liên quan
Nhà Hậu Đường
nhà Hậu Hán
Lưu Tri Viễn
Khiết Đan
Tham khảo
Hậu Tấn (Ngũ đại), nhà
Hậu Tấn (Ngũ đại), nhà
Cựu quốc gia trong lịch sử Trung Quốc
Lịch sử các dân tộc Turk
Triều đại Trung Quốc
Ngũ đại Thập quốc
Quốc gia và vùng lãnh thổ chấm dứt thập niên 940
|
25177
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c
|
Tê giác
|
Tê giác hay con tê là những loài động vật có vú guốc lẻ trong họ Rhinocerotidae. Trong năm loài còn sinh tồn, hai loài sinh sống ở Châu Phi, và ba loài sinh sống ở Nam Á. Thuật ngữ "tê giác" thường được áp dụng rộng rãi hơn cho các loài hiện nay đã tuyệt chủng trong liên họ Rhocerotoidea.
Các thành viên của Họ Tê giác là một trong những động vật trên cạn lớn nhất, với tất cả các loài có thể đạt đến hoặc hơn trọng lượng một tấn. Chúng ăn thực vật, có bộ não nhỏ (400 đến 600 g), có một hoặc hai sừng và lớp da bảo vệ dày (1,5 đến 5 cm) được hình thành từ các lớp collagen nằm trong cấu trúc mạng tinh thể. Chúng thường ăn cỏ và lá cây, mặc dù khả năng lên men thức ăn trong ruột già của chúng cho phép chúng ăn các loại thực vật có sợi hơn khi cần thiết. Không giống như các động vật móng guốc lẻ khác, hai loài tê giác ở châu Phi thiếu răng ở phía trước miệng, thay vào đó dựa vào môi của chúng để nhổ thức ăn.
Tê giác bị giết bởi một số người để lấy sừng của chúng, được mua và bán trên thị trường chợ đen, và được một số nền văn hóa sử dụng làm đồ trang trí hoặc cho y học cổ truyền. Đông Á, cụ thể là Việt Nam, là thị trường lớn nhất trong việc buôn bán sừng tê giác. Theo trọng lượng, sừng tê giác có giá trị như vàng trên thị trường chợ đen. Người ta mài sừng và tiêu thụ chúng, tin rằng bụi của chúng có đặc tính trị liệu. Sừng tê giác được tạo nên từ keratin, loại protein cùng tạo nên tóc và móng tay. Cả hai loài tê giác châu Phi và tê giác Sumatra đều có hai sừng, trong khi tê giác Ấn Độ và tê giác Java chỉ có một sừng. Sách đỏ IUCN đánh giá tê giác đen, Javan và Sumatra là các loài cực kỳ nguy cấp.
Tên gọi
Trước năm 1954, trong phương ngữ tiếng Việt miền Bắc con tê giác được gọi là tê ngưu (chữ Hán: 犀牛) hoặc con tê, cái sừng của con tê ngưu gọi là "tê giác" (犀角), trong đó "giác" (角) là từ Hán Việt, nó có nghĩa là cái sừng. Phương ngữ tiếng Việt miền Nam khi đó gọi con tê giác là tây ngưu (biến thể ngữ âm của "tê giác) hoặc con tây, sừng của con tây ngưu được gọi là "tây giác". Về sau nhiều người không biết "tê giác" chỉ là cái sừng của con tê ngưu, lại tưởng tê giác là tên gọi của con vật có cái sừng đó nên đã gọi con tê ngưu là "tê giác".
Trong tiếng Anh, tê giác được gọi là Rhinoceros hay Rhino - /raɪˈnɒsərəs/, xuất phát từ tiếng Hy Lạp rhinokerōs, nghĩa là 'mũi sừng' (từ rhis nghĩa là 'mũi', và keras nghĩa là 'sừng')
Họ
Một số loài tê giác chỉ mới tuyệt chủng trong thời gian địa chất gần đây, nổi tiếng nhất là các loài trong Chi Thú Xương mỏng và tê giác lông mượt ở đại lục Á-Âu: nguyên nhân của sự tuyệt chủng này là do biến đổi khí hậu hay việc săn bắn của con người vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Các chứng cứ hiện tại cho thấy chúng có lẽ đã sống sót qua nhiều thay đổi khí hậu cho đến khi người hiện đại xuất hiện.
Các động vật tương tự tê giác đã lần đầu tiên xuất hiện trong thế Eocen (34-56 triệu năm trước) như là các động vật có hình dáng ngoài thon thả, và vào thời kỳ cuối thế Miocen (5,3-23 triệu năm trước) đã tồn tại nhiều loài khác nhau. Phần lớn các loài này có bề ngoài đồ sộ. Một loài là Indricotherium đã cân nặng khoảng 30 tấn và (trong số các động vật đã biết) là một trong số các động vật lớn nhất trong số động vật có vú đã từng sống trên Trái Đất. Tê giác bị tuyệt chủng trong thời kỳ thế Pliocen (1,8-5,3 triệu năm trước) ở Bắc Mỹ, và trong thời kỳ thế Pleistocen (10.000 đến 1,8 triệu năm trước) ở Bắc Á và châu Âu.
Năm loài còn sống sót hiện nay thuộc về ba tông. Có ba loại ở châu Á là loài tê giác Sumatra đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp là đại diện duy nhất còn sống sót trong nhóm nguyên thủy nhất- Dicerorhinini- đã xuất hiện trong thế Miocen (khoảng 20 triệu năm trước). Loài tê giác lông tơ đã tuyệt chủng ở miền bắc châu Âu và châu Á cũng là thành viên của tông này. Còn hai loài thuộc tông Rhinocerotini vẫn đang sống sót là tê giác Ấn Độ (nguy cấp) và tê giác Java (cực kỳ nguy cấp), đã phân nhánh từ một gốc khác khoảng 10 triệu năm trước. Hai loài ở châu Phi là tê giác trắng và tê giác đen, đã phân nhánh trong thời kỳ đầu thế Pliocen (khoảng 5 triệu năm trước) nhưng chúng vẫn thuộc về nhóm Dicerotini ở giữa thế Miocen (khoảng 14 triệu năm trước). Khác biệt chính giữa tê giác trắng và tê giác đen là hình dạng môi/miệng của chúng. Tê giác trắng có các môi rộng và phẳng để gặm cỏ còn tê giác đen có các môi dài đầu nhọn để ăn lá cây. Tên gọi tê giác trắng trên thực tế là một sai lầm phổ biến xuất phát từ từ đồng âm trong tiếng Anh chỉ cái môi rộng của chúng.
Con lai của các phân loài tê giác trắng (Ceratotherium simum simum x Ceratotherium simum cottoni) đã sinh nở tại vườn thú Dvur Kralove (vườn bách thú Dvur Kralove nad Labem) tại Tiệp Khắc năm 1977.
Phân loại
Họ Rhinocerotidae
Phân họ Rhinocerotinae
Tông Aceratheriini
†Aceratherium
†Acerorhinus
†Alicornops
†Aphelops
†Chilotheridium
†Chilotherium
†Dromoceratherium
†Floridaceras
†Hoploaceratherium
†Mesaceratherium
†Peraceras
†Plesiaceratherium
†Proaceratherium
†Sinorhinus
†Subchilotherium
Tông Teleoceratini
†Aprotodon
†Brachydiceratherium
†Brachypodella
†Brachypotherium
†Diaceratherium
†Prosantorhinus
†Shennongtherium
†Teleoceras
Tông Rhinocerotini
†Gaindatherium
Rhinoceros - Tê giác Ấn Độ & tê giác Java
Tông Dicerorhinini
†Coelodonta - Tê giác lông mịn
Dicerorhinus - Tê giác Sumatra
†Dihoplus
†Lartetotherium
†Stephanorhinus
Tông Dicerotini
Ceratotherium - Tê giác trắng
Diceros - Tê giác đen
†Paradiceros
Phân họ Elasmotheriinae
†Gulfoceras
Tông Diceratheriini
†Diceratherium
†Subhyracodon
Tông Elasmotheriini
†Bugtirhinus
†Caementodon
†Elasmotherium - Tê giác khổng lồ
†Hispanotherium
†Huaqingtherium
†Iranotherium
†Kenyatherium
†Meninatherium
†Menoceras
†Ougandatherium
†Parelasmotherium
†Procoelodonta
†Sinotherium
† Họ Amynodontidae
Phân họ Amynodontinae
Tông Cadurcodontini
†Cadurcodon
†Lushiamynodon
†Sharamynodon
†Sianodon
Tông Metamynodontini
†Gigantamynodon
†Metamynodon
†Paramynodon
†Zaisanamynodon
Tông incertae sedis
†Amynodon
Phân họ incertae sedis
Amynodontopsis
Armania
Cadurcamynodon
Cadurcopsis
Cadurcotherium
Caenolophus
Euryodon
Hypsamynodon
Megalamynodon
Mesamynodon
Penetrigonias
Procadurcodon
Rostriamynodon
Teilhardia
Toxotherium
Sừng tê giác
Đặc trưng phân biệt rõ nét nhất của tê giác là sừng lớn trên mũi. Sừng tê giác được sử dụng trong y học cổ truyền châu Á (Trung Quốc và Việt Nam), và dùng làm đồ trang sức (cụ thể là cán dao găm) ở Yemen và Oman. Sừng tê giác có thành phần cấu tạo gồm keratin tương tự tóc và móng tay con người, hoàn toàn không có giá trị y học. Tại Đông Nam Á và nhất là ở Việt Nam, người dân mài sừng tê giác pha với nước hay rượu để uống và tin rằng nó có thể dùng để chữa bệnh. Việt Nam cũng là nước tiêu thụ lậu sừng tê giác lớn nhất thế giới.
Cả năm loài tê giác đều không có tương lai an toàn: tê giác trắng có lẽ là ít nguy cấp nhất, tê giác Java hiện chỉ còn một số lượng rất nhỏ (khoảng 60 cá thể vào năm 2002) và là một trong hai hay ba loài động vật có vú lớn đang ở tình trạng nguy cấp nhất trên thế giới. Các chiến dịch bảo vệ tê giác được khởi động từ những năm thập niên 1970, nhưng quần thể tê giác vẫn tiếp tục suy giảm nghiêm trọng. Việc buôn bán các bộ phận cơ thể tê giác bị cấm theo các thỏa ước của CITES, nhưng việc săn bắn trộm vẫn là mối đe dọa nguy hiểm nhất cho tất cả các loài tê giác. Ngày 09 tháng 11năm 2008, bà Vũ Mộc Anh, Bí thư thứ nhất của đại sứ quán Nam Phi đã bị triệu hồi về nước. Báo Tuổi Trẻ trích lời đại sứ Việt Nam tại Pretoria Trần Duy Thi nói bà Vũ Mộc Anh chỉ nhận là bà đã "cầm hộ" sừng tê giác cho hai người Việt Nam.
Hồi tháng 7 năm 2007, hai công dân Việt Nam khác cũng đã bị bắt giữ tại Sân bay quốc tế OR Tambo cùng bốn chiếc sừng tê giác. Đầu năm 2008, 18 kg sừng đã bị thu giữ khi được vận chuyển từ Nam Phi về tới Hà Nội.. Còn nhiều tê giác bị chết một cách đau đớn vì bị cắt mất sừng. Tại Nam phi năm 2012 ít nhất 668 con tê giác bị chết trong trường hợp này. Theo ông Bret Tolman, tổ chức bảo vệ thú vật TRAFFIC, trong chương trình "Tấm gương thế giới" (Weltspiegel), đa số những người buôn lậu hàng này bị bắt tại Nam Phi hay Mozambique là người Việt, ngay cả ở các phi trường Bangkok, Dubai hay Hongkong cũng vậy. 100g sừng tê giác tại một cửa hàng tại Hà Nội trị giá khoảng 2500 Dollar.
Dự án Giải cứu tê giác
Ngày 15/4/2015, trong một cuộc họp báo tại TPHCM, TS Lorinda Hern đại diện cho Rhino Rescue Project (Dự án Giải cứu tê giác) cho biết, họ đã quyết định bơm chất ectoparasiticides vào sừng tê giác để bảo vệ tê giác tại Nam Phi và những nơi có nạn săn bắt trộm. Với tê giác chất này là vô hại, nhưng nó có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe người sử dụng.. Riêng trong năm 2014 đã có tới 1.200 con tê giác chết do nạn săn bắt ở Nam Phi đưa tới nguy cơ diệt chủng.
Nhà chữa cháy
Có nhiều truyền thuyết về việc tê giác dập tắt lửa. Những câu chuyện như thế dường như rất phổ biến ở Malaysia và Myanmar. Loại tê giác này thậm chí có tên riêng trong tiếng Mã Lai, badak api, trong đó badak có nghĩa là tê giác và api nghĩa là lửa. Động vật này sẽ chạy đến khi có lửa trong rừng và dập tắt nó. Điều này đúng hay sai vẫn chưa được kiểm chứng, do chưa có tài liệu nào chứng kiến hay ghi nhận hiện tượng này trong thời gian gần đây. Điều này thiếu chứng cứ có thể là do thực tế là ngày nay tê giác rất hiếm khi được nhìn thấy ở Đông Nam Á, chủ yếu là do sự săn bắn bất hợp pháp rất phổ biến đối với loài động vật đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp này.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Chapman, Jan. 1999. The Art of Rhinoceros Horn Carving in China. Christies Books, Luân Đôn. ISBN 0-903432-57-9.
Laufer, Berthold. 1914. "History of the Rhinoceros." In: Chinese Clay Figures, Part I: Prolegomena on the History of Defence Armor. Field Museum of Natural History, Chicago, pp. 73–173.
Tê giác 2 sừng
Tê giác 1 sừng
Quỹ tê giác quốc tế
Tê giác SOS
Mục từ tê giác trên website của WWF.
Họ động vật
Động vật ăn cỏ
Động vật nguy hiểm
Hóa thạch sống
|
25178
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20S%C6%B0%20ph%E1%BA%A1m%2C%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Hu%E1%BA%BF
|
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
|
Trường Đại học Sư phạm Huế là trường đại học đứng đầu về đào tạo và nghiên cứu khối ngành sư phạm tại miền Trung Việt Nam, được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn là 1 trong 3 trường sư phạm trọng điểm quốc gia. Là trường thành viên của Đại học Huế, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lịch sử
Trụ sở của trường trước đây là Toà Khâm sứ Trung Kỳ được khởi công xây dựng vào mùa hạ, tháng 4 năm 1876 (Tự Đức 28), và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Sau khi xây dựng và đặt xong bộ máy cai trị, Toà Khâm sứ Trung kỳ trở thành thủ phủ của chế độ thực dân Pháp ở Trung kỳ, chi phối toàn bộ hoạt động của nhà nước phong kiến triều Nguyễn. Tháng 3 năm 1957 dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập Viện Đại học Huế gồm 5 phân khoa đại học: Sư phạm, Văn khoa, Luật khoa, Hán học, và Khoa học. Trong niên khóa đầu có 358 sinh viên. đến năm 1960 thì sĩ số tăng lên 1431 sinh viên; năm 1959 mở thêm chương trình dự bị y khoa. Sau khi thống nhất đất nước, trường Đại học Sư phạm Huế được chính thức thành lập vào ngày 27 tháng 10 năm 1976. Năm 1994, thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định chuyển trường Đại học Sư phạm Huế sang trực thuộc Đại học Huế.
Giảng viên đáng chú ý
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, Trần Quang Hóa (phó trưởng khoa Toán) nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp về "Nỗ lực cho hợp tác song phương trong khoa học giữa Pháp với các nước ASEAN."
Xem thêm
Danh sách trường đại học công lập tại Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web trường Đại học Sư phạm Huế
Trường Đại học Sư phạm Huế
Đại học và cao đẳng sư phạm Việt Nam
|
25185
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt%20M%E1%BA%ABu%20Man%20N%C6%B0%C6%A1ng
|
Phật Mẫu Man Nương
|
Phật Mẫu Man Nương là một nhân vật liên quan đến sự tích Phật giáo Việt Nam khi đạo Phật mới truyền sang đất Việt. Bà có tên là A Man, người làng Mãn Xá vùng Luy Lâu tên tục của làng là kẻ Mèn. Cha mẹ bà là vợ chồng ông Tu Định, một cư sĩ Phật giáo thuần thành và là đệ tử của Khâu Đà La thiền sư. Sau này bà "cải gia vi tự" biến nhà thành chùa nên nhà cũ của bà hiện nay là chùa Tổ (Phúc Nghiêm tự).
Sự tích
Truyền thuyết kể rằng thuở xưa bà là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.
Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.
Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích (gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu ) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.
Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).
Di tích
Bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở bốn ngôi chùa: Dâu, Đậu, Tướng, Dàn ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Làng Mãn Xá lập chùa Phúc Nghiêm thờ Man Nương, gọi là Phật Mẫu, nên gọi chùa này là chùa Tổ. Hàng năm vào ngày hội chùa Dâu ngày 8 tháng Tư (âm lịch), thì ba làng Đậu, Tướng, Dàn rước tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện về chùa Dâu gặp Pháp Vân rồi bốn chị em về chùa Tổ thăm Mẹ. Thời Pháp thuộc, chùa Đậu bị phá nên tượng Pháp Vũ để ở chùa Dâu. Thạch Quang Phật được thờ ở Chùa Tổ sau đó chuyển về thờ ở Chùa Dâu.
Xem thêm
Văn hóa Việt Nam
Tín ngưỡng Việt Nam
Phật giáo Việt Nam
Người Bắc Ninh
Tham khảo
Lĩnh Nam chích quái/Truyện Man nương
Chùa Dâu - Nơi khởi nguồn đạo Phật VN
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Thuận Thành
Du lịch Bắc Ninh
Phật giáo Việt Nam
Tứ Pháp
Chư thiên Phật giáo
Thần thánh Việt Nam
|
25189
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20Java
|
Tê giác Java
|
Tê giác Java hay tê giác Sunda, còn được gọi tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) là một trong năm loài động vật guốc lẻ còn sống sót của họ Tê giác. Chúng cùng thuộc 1 chi với loài tê giác Ấn Độ, và cũng có một bộ da nếp gấp giống như 1 bộ áo giáp, tuy nhiên chúng chỉ dài có 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và cao 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft), nhỏ hơn tê giác Ấn Độ và gần tương đương với kích cỡ loài tê giác đen. Sừng của tê giác Java có độ dài thường dưới 25 cm (10 inch), nhỏ hơn các loài tê giác khác.
Trước kia là loài phổ biến nhất trong các loài tê giác châu Á, tê giác Java từng phân bố ở các đảo của Indonesia, trải rộng toàn bộ Đông Nam Á, tới cả Ấn Độ và Trung Quốc. Hiện nay chúng đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp, với chỉ 2 quần thể được ghi nhận trong môi trường tự nhiên và không có con nào trong các vườn thú. Nó có thể là loài động vật có vú lớn hiếm nhất trên thế giới. Một quần thể có ít nhất 40 con sống tại Vườn quốc gia Ujung Kulon trên đảo Java của Indonesia, và quần thể còn lại được xác nhận là đã tuyệt chủng ở Việt Nam vào năm 2011. Sự suy giảm của loài này được cho là do việc săn bắt trộm, chủ yếu để lấy sừng, một loại dược liệu có giá trị cao trong y học phương Đông truyền thống và có thể bán được với giá lên tới 30.000 đôla /1 kg tại các chợ đen. Sự thu hẹp nơi cư trú, đặc biệt do hậu quả chiến tranh, như Chiến tranh Việt Nam tại Đông Nam Á, cũng góp phần làm suy giảm và cản trở việc khôi phục loài. Sự phân bố hiện nay chỉ tập trung ở 2 khu bảo tồn quốc gia, tuy nhiên những con tê giác Java vẫn còn đang gặp nguy hiểm bởi sự săn trộm, bệnh tật và sự giảm sút đa dạng di truyền gây ra bởi giao phối cận huyết.
Loài tê giác Java có thể sống đến khoảng 30–45 năm trong điều kiện hoang dã. Trong quá khứ chúng đã từng sinh sống trong những rừng mưa vùng đất thấp, vùng đồng cỏ ẩm ướt và các bãi bồi triền sông rộng lớn. Loài tê giác Java hầu hết thời gian sống đơn độc, trừ khi kết đôi và nuôi dạy tê giác con, dù rằng thỉnh thoảng chúng có thể tập hợp thành bầy gần các bãi đằm hay bãi liếm đất mặn. Con người là kẻ đi săn duy nhất các con tê giác trưởng thành. Chúng thường tránh xa con người, nhưng có thể sẽ tấn công nếu cảm thấy nguy hiểm. Các nhà khoa học và bảo tồn học hiếm khi nghiên cứu chúng trực tiếp, vì độ hiếm có của chúng và nguy cơ có thể can thiệp vào một loài sinh vật đang nguy cấp. Họ thường dựa vào những bẫy ảnh tự động (camera trap) và các mẫu phân để đánh giá sức khỏe và hoạt động của các con tê giác. Chính vì vậy, tê giác Java vẫn là loài được nghiên cứu ít nhất trong tất cả các loài tê giác hiện nay.
Phân loại và đặt tên
Những nghiên cứu đầu tiên về loài tê giác Java từ các nhà tự nhiên học ngoại quốc diễn ra vào năm 1787, khi hai con vật bị bắn chết tại Java. Xương sọ của chúng được gửi tới nhà tự nhiên học người Đức danh tiếng Petrus Camper, tuy vậy Camper đã mất vào năm 1789 trước khi có thể công bố khám phá mới của ông rằng những con tê giác sống ở Java là một loài riêng biệt. Một con tê giác Java khác bị Alfred Duvaucel bắn tại đảo Sumatra, sau đó ông đã gửi mẫu vật tới người cha dượng của mình là Georges Cuvier, một nhà khoa học nổi tiếng người Pháp. Cuvier đã công nhận đây là một loài mới vào năm 1822, và trong năm đó nó được Anselme Gaëtan Desmarest định danh bằng danh pháp khoa học Rhinoceros sondaicus. Đó là loài cuối cùng trong họ Tê giác được xác định. Desmarest lúc đầu đã coi tê giác Java là sinh vật từ đảo Sumatra, về sau ông đã thay đổi để nói rằng mẫu vật mà ông nghiên cứu đến từ đảo Java.
Tên khoa học của chi Rhinoceros, bao gồm cả loài tê giác Ấn Độ, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, rhino có nghĩa là mũi, và ceros có nghĩa là sừng. Sondaicus bắt nguồn từ sunda, vùng địa sinh học bao gồm các đảo lớn Sumatra, Java, Borneo cùng các hòn đảo nhỏ hơn xung quanh. Nó thường được biết với tên Tê giác một sừng nhỏ (phân biệt với tê giác một sừng lớn, tức loài tê giác Ấn Độ) và ở Việt Nam quen gọi là Tê giác một sừng.
Tê giác Java có ba phân loài khác nhau, trong đó chỉ có hai là còn tồn tại:
Rhinoceros sondaicus sondaicus, phân loài điển hình, được biết với tên Tê giác Java Indonesia, chỉ sống ở Java và Sumatra. Quần thể hiện nay còn khoảng 40-50 con, sống tại Vườn quốc gia Ujung Kulon nằm trên mũi phía Tây của đảo Java. Một nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng tê giác Java ở Sumatra thuộc về một phân loài riêng biệt, có tên R.s. floweri, tuy nhiên ý kiến này không được chấp nhận rộng rãi.
Rhinoceros sondaicus annamiticus là Tê giác một sừng Việt Nam hay còn biết với tên Tê giác Java Việt Nam hay Tê giác Việt Nam, sống ở Việt Nam, Lào, Campuchia, tới cả Thái Lan và Malaysia. Annamiticus bắt nguồn từ tên gọi Annamite của dãy Trường Sơn ở Đông Dương, một phần khu vực phân bố của loài này. Một quần thể đơn lẻ, ước lượng dưới 12 con, sống tại khu vực rừng đất thấp trong Vườn quốc gia Cát Tiên của Việt Nam. Phân tích di truyền cho thấy rằng hai phân loài còn tồn tại (ở Việt Nam và Indonesia) đã có cùng một tổ tiên chung cách đây khoảng chừng 300.000 đến 2 triệu năm trước. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2010, con tê giác cuối cùng của Việt Nam đã bị những tay săn trộm bắn chết ở vườn quốc gia Cát Tiên. Vào tháng 10 năm 2011, tê giác Java Việt Nam đã chính thức được công bố là tuyệt chủng.
Rhinoceros sondaicus inermis, tên thông thường Tê giác Java Ấn Độ, chỉ cư trú từ vùng Bengal đến Miến Điện, tuy nhiên nó được cho là đã tuyệt chủng vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Inermis nghĩa là không có sừng, và đặc tính đặc trưng nhất của phân loài này là những chiếc sừng nhỏ ở các con đực, và thiếu mất sừng ở con cái (con được nghiên cứu đầu tiên của phân loài là một con cái không có sừng). Tình hình chính trị ở Miến Điện đã ngăn cản việc đánh giá loài tê giác Java Ấn Độ ở nước này, tuy vậy sự tồn tại của chúng đã được công nhận một cách không chắc chắn.
Tiến hóa
Những con tê giác tổ tiên bắt đầu tách ra từ những động vật guốc lẻ khác vào thời kỳ Tiền Eocen. Đối chiếu DNA ti thể cho thấy tổ tiên của những con tê giác hiện đại rẽ ra từ tổ tiên của họ Ngựa vào khoảng 50 triệu năm về trước. Họ hiện nay, Rhinocerotidae, xuất hiện lần đầu vào cuối thế Eocen tại lục địa Á-Âu. Tổ tiên của những loài tê giác sống rải rác ở châu Á hiện nay bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ thế Miocen.
Loài tê giác Ấn Độ và tê giác Java, hai thành viên duy nhất của chi Rhinoceros, xuất hiện trong các bằng chứng hóa thạch ở châu Á vào khoảng 1,6 đến 3,3 triệu năm về trước. Tuy nhiên, những đánh giá phân tử cho thấy những loài này có thể tách ra ở thời điểm sớm hơn nhiều, khoảng 11,7 triệu năm trước. Dù thuộc về chi điển hình (tức là chi tiêu biểu, được lấy tên đặt cho họ), hai loài này không được cho là có mối quan hệ gần gũi với các loài tê giác khác. Những nghiên cứu khác đã đưa ra giả thuyết rằng chúng có thể gần gũi với các chi đã tuyệt chủng Gaindetherium và Punjabitherium. Một phân tích nguồn gốc phát sinh chi tiết về họ Tê giác đã đưa chi Rhinoceros và Punjabitherium vào cùng một nhánh với chi Dicerorhinus (tê giác Sumatra). Những nghiên cứu khác cho rằng tê giác Sumatra lại có quan hệ gần gũi hơn với hai loài tê giác châu Phi, chúng có thể tách ra từ những loài tê giác khác khoảng chừng 15 triệu năm trước đó.
Đặc điểm
Loài tê giác Java có kích cỡ nhỏ hơn tê giác Ấn Độ, và tương đương với loài tê giác đen. Chiều dài cơ thể của tê giác Java (bao gồm cả đầu) có thể lên đến 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và chiều cao là 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft). Khi trưởng thành, chúng có cân nặng khác nhau, dao động từ 900 đến 2.300 kg, và do đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp nên vẫn chưa có một nghiên cứu chính xác nào về kích cỡ khối lượng của loài nay, bởi việc đó không phải là ưu tiên hàng đầu. Không có sự khác biệt kích cỡ đáng kể nào giữa hai giới, nhưng con cái có thể to hơn con đực một ít. Những con tê giác Việt Nam thì nhỏ hơn đáng kể so với đồng loại ở Java, dựa trên những bằng chứng hình ảnh hay kích cỡ dấu chân của chúng.
Giống như người anh em Ấn Độ, loài tê giác Java có một sừng (những loài tê giác khác hiện nay đều có hai sừng). Sừng của chúng nhỏ hơn tất cả những loài tê giác còn tồn tại khác, thông thường dài chưa đến 20 cm (7,9 inch) và chiếc sừng dài nhất được ghi nhận cũng chỉ là 27 cm (10,5 inch). Chúng dường như không thường xuyên dùng sừng để tấn công, thay vì thế chúng sử dụng sừng để cạo bùn trong những bãi đầm, hạ đổ cây xuống để kiếm ăn, hay mở đường đi qua những bụi cây cối rậm rạp. Giống với những loài tê giác ăn cành lá khác (tê giác đen, Sumatra và Ấn Độ), tê giác Java có môi trên dài, nhọn giúp cho việc lấy thức ăn. Những răng cửa dưới thì dài và sắc, được chúng sử dụng trong chiến đấu. Sau răng cửa, có hai hàng sáu chiếc răng hàm dưới vây quanh để nhai các thực vật thô. Giống như những tê giác khác, chúng có khả năng ngửi và nghe tốt nhưng lại có thị giác rất kém. Tuổi thọ của tê giác Java khoảng từ 30-45 năm.
Bộ da của chúng không lông, có màu xám lốm đốm hay nâu xám, được phủ thành từng nếp gấp xung quanh vai, lưng và mông. Bộ da có cấu trúc khảm tự nhiên giúp tạo cho những con tê giác một lớp vỏ ngoài bảo vệ như một bộ áo giáp. Những nếp gấp ở cổ tê giác Java nhỏ hơn tê giác Ấn Độ, nhưng vẫn tạo thành hình yên ngựa phủ qua vai. Bởi những rủi ro có thể gây quấy rầy một loài động vật đang gặp nguy cấp, nên các nhà khoa học phải nghiên cứu thông qua mẫu phân và những bẫy ảnh. Tê giác Java rất hiếm khi có thể được bắt gặp, quan sát hay đánh giá một cách trực tiếp.
Phân bố và môi trường sống
Kể cả những đánh giá lạc quan nhất cũng cho thấy có ít hơn 100 con tê giác Java trong điều kiện hoang dã. Chúng được công nhận có thể là loài động vật có vú đang gặp nguy hiểm nhất trên thế giới, dù rằng loài tê giác Sumatra, hiện còn khoảng 300 cá thể, đang ở những khu vực phân bố không được bảo vệ như tê giác Java, và một số nhà môi trường học cho rằng tê giác Sumatra đang ở trong tình trạng nguy hiểm hơn. Tê giác Java hiện nay chỉ được biết đang tồn tại ở một duy nhất: vườn quốc gia Ujung Kulon trên mũi phía Tây đảo Java.
Loài động vật này trước kia đã từng phổ biến ở Assam và Bengal (vùng phân bố của chúng có thể chồng lấn lên cả vùng của tê giác Sumatra và Ấn Độ), hướng về phía Đông tới Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, phía nam tới bán đảo Mã Lai, các đảo Sumatra, Java và có thể cả Borneo. Chúng chủ yếu sinh sống ở các vùng rừng mưa rậm rạp trên đất thấp, những vùng lau sậy và cỏ cao vốn rất nhiều cạnh các con sông, những vùng bãi bồi triền sông rộng lớn, hay những khu vực ẩm ướt với nhiều bãi bùn. Dù trong lịch sử, chúng thích sống ở những nơi thấp, thì phân loài ở Việt Nam đã di chuyển lên nơi cao hơn (2.000 m) bởi sự xâm lấn và săn bắt của con người.
Phạm vi phân bố của tê giác Java bắt đầu thu hẹp lại cách đây ít nhất 3.000 năm. Bắt đầu vào khoảng năm 1000 TCN, khu vực phân bố phía Bắc của tê giác Java, khi đó đã mở rộng lên cả Trung Quốc, bắt đầu chuyển về phía Nam với tốc độ lên tới 0,5 km (0,3 dặm) một năm, bởi các khu định cư của con người nơi đây đã tăng lên. Nó có thể giống như sự tuyệt chủng cục bộ loài này ở Ấn Độ trong thập niên 1990. Chúng đã bị săn bắn đến mức tuyệt chủng tại bán đảo Mã Lai vào năm 1932. Khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, phân loài tê giác Việt Nam được coi là đã tuyệt chủng trên toàn khu vực châu Á, cho đến năm 1989 thì phân loài này mới lại được tìm thấy. Những thợ săn và khai thác gỗ địa phương ở Campuchia khẳng định rằng họ đã từng nhìn thấy tê giác Java trên dãy núi Kravanh, nhưng những khảo sát khu vực này đã không thể tìm ra bất cứ dấu hiệu nào của chúng. Một quần thể cũng có thể đã còn tồn tại trên đảo Borneo, dù rằng đó có thể là loài tê giác Sumatra, với một quần thể nhỏ của chúng ngày nay vẫn còn tồn tại nơi đây.
Hoạt động
Tê giác Java là loài động vật sống đơn độc, ngoại trừ những cặp giao phối và mẹ cùng con non. Thỉnh thoảng chúng sẽ tập hợp thành những nhóm nhỏ ở các bãi liếm đất mặn và bãi bùn. Ngâm mình trong bùn là hoạt động thường thấy của tất cả các loài tê giác, việc này cho phép chúng duy trì nhiệt độ cơ thể luôn mát mẻ và giúp chúng chống được bệnh tật và sinh vật ký sinh. Tê giác Java thông thường không tự đào bãi ngâm bùn của riêng chúng, mà thích sử dụng bãi ngâm của những con vật khác hay các hố xuất hiện tự nhiên, được chúng dùng sừng để mở rộng. Những bãi liếm đất mặn cũng rất quan trọng với chúng bởi đây là nơi cung cấp các chất khoáng thiết yếu. Phạm vi chỗ ở của những con đực rộng hơn, khoảng 12–20 km², so với con cái ở khoảng 3–14 km². Sự chồng lấn lẫn nhau về lãnh thổ của những con đực ít hơn những con cái, tuy nhiên người ta vẫn chưa được biết về những cuộc tranh giành lãnh thổ nếu có.
Những con đực đánh dấu lãnh địa của chúng bằng phân và nước tiểu. Những vết cào trên mặt đất bằng chân và những cây con bị vặn cũng có thể được sử dụng cho mục đích thông tin. Những loài tê giác khác thường có tập tính đặc biệt: thải những cục phân lớn ra ngoài và sau đó cạo phân bằng chân sau. Loài tê giác Java và Sumatra khi thải phân ra lại không có hành động như vậy. Sự thích nghi trong hành vi này được cho là do sinh thái ở những cánh rừng ẩm ướt tại Java và Sumatra, khiến phương pháp này không đạt hiệu quả cho việc phát tán những mùi hương đánh dấu.
Tê giác Java phát tiếng kêu ít hơn nhiều so với tê giác Sumatra, có rất ít tiếng tê giác Java từng được ghi lại. Những con trưởng thành không có kẻ địch nào được biết đến ngoài con người. Loài này, đặc biệt ở Việt Nam, rất nhút nhát và thường trốn chạy vào trong rừng rậm mỗi khi con người tới gần. Dù điều này là đặc điểm rất hữu ích khi đứng trên quan điểm bảo tồn, nhưng nó lại gây khó khăn cho việc nghiên cứu chúng. Tuy nhiên, khi con người tiếp xúc quá gần, chúng có thể trở nên hung dữ và sẽ tấn công; chúng sẽ cắn bằng răng cửa hay hàm dưới và dùng đầu húc mạnh lên phía trên. Hoạt động sống khép kín tương đối phản-xã hội của tê giác Java có thể là sự thích nghi gần đây với các áp lực quần thể; bằng chứng lịch sử đã cho thấy, giống như các loài tê giác khác, trước đây chúng đã từng sống thành bầy đàn nhiều hơn.
Chế độ ăn uống
Tê giác Java là một loài động vật ăn cỏ. Chúng ăn nhiều loại thực vật khác nhau, đặc biệt thích ăn các bộ phận của cây như chồi, lá non, cành con và quả chín. Hầu hết các loại cây mà chúng ưa thích đều mọc ở nơi nhiều ánh sáng, các khoảng rừng thưa, cây bụi và các thảm thực vật mà không có cây lớn khác. Chúng thường hạ đổ những cây con rồi lấy thức ăn bằng chiếc môi trên cử động được. Chúng là loài thích nghi nhất cho việc kiếm ăn ở các loài tê giác. Dù hiện nay, tê giác Java hoàn toàn chỉ là loài ăn cành lá trên cây nhưng chúng đã từng ăn cả cỏ lẫn cành lá trong phạm vi phân bố của chúng trước kia. Hàng ngày, một con tê giác Java ăn khoảng 50 kg thức ăn. Giống như tê giác Sumatra, tê giác Java cũng cần muối khoáng trong khẩu phần. Những bãi liếm mặn, thường có trong khu vực phân bố ngày trước của chúng, lại không có ở Ujung Kulon, nhưng các con tê giác ở đây đã được quan sát khi đang uống nước biển, có thể phù hợp cho nhu cầu dinh dưỡng của chúng.
Sinh sản
Những tập tính sinh sản của tê giác Java rất khó để nghiên cứu do chúng hiếm khi được quan sát trực tiếp ngoài tự nhiên lẫn việc không có con nào trong các vườn thú. Những con cái bắt đầu thuần thục sau 3-4 tuổi trong khi đó con đực lại thuần thục ở tuổi thứ 6. Thời gian mang thai của chúng ước lượng khoảng 16-19 tháng. Khoảng cách giữa các lần đẻ con là 4-5 năm; tê giác con bắt đầu cai sữa sau khoảng 2 năm. Bốn loài tê giác còn lại đều có hoạt động giao phối giống nhau và người ta suy đoán rằng ở loài tê giác Java cũng tương tự như vậy.
Bảo tồn
Nguyên nhân chính cho việc suy giảm liên tục số lượng loài tê giác Java là việc chúng bị săn bắt để lấy sừng, một vấn đề không chỉ của chúng mà còn có ở tất cả các loài tê giác khác. Những chiếc sừng đã trở thành hàng hóa buôn bán ở Trung Quốc trong hơn 2000 năm qua, bởi họ tin rằng chúng có tác dụng hiệu quả trong y học phương Đông cổ truyền. Trong lịch sử, bộ da tê giác đã được người Trung Quốc sử dụng làm áo giáp; và những người dân địa phương Việt Nam lại tin về khả năng giải trừ nọc độc rắn bằng da tê. Bởi người dân nhiều vùng địa phương nơi tê giác cư trú còn nghèo, nhận thức còn thấp, nên rất khó để thuyết phục họ không giết những động vật dường như vô ích trong y học nhưng lại có thể bán được nhiều tiền. Sau khi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) bắt đầu có hiệu lực năm 1975, loài tê giác Java đã được liệt kê bảo vệ ở Phụ lục 1, có nghĩa là: tất cả các giao dịch quốc tế về tê giác Java và các sản phẩm bắt nguồn từ chúng đều là bất hợp pháp. Những khảo sát về tê giác ở chợ đen đã xác định rằng: sừng của những con tê giác châu Á (tê giác Ấn Độ, Java và Sumatra) có thể đạt tới giá 30.000 USD mỗi kilôgam, tức gấp ba lần so với sừng những con tê giác châu Phi cùng họ.
Việc mất đi nơi cư trú bởi ngành nông nghiệp cũng đã góp phần tạo sự suy giảm, dù hiện nay nó không còn là một nhân tố nữa bởi tê giác Java giờ chỉ sống ở hai khu vực bảo tồn quốc gia. Sự suy giảm chất lượng môi trường sống đã ngăn cản việc khôi phục số lượng loài. Cho dù với tất cả các nỗ lực bảo tồn, khả năng tồn tại của chúng vẫn bị đe dọa khốc liệt. Khi quần thể bị giới hạn ở hai khu vực nhỏ, chúng sẽ rất dễ bị bệnh tật và gặp các vấn đề do giao phối cận huyết.
Ujung Kulon
Vườn quốc gia Ujung Kulon tại đảo Java được thành lập vào năm 1980, là nơi tập trung quần thể Rhinoceros sondaicus sondaicus cuối cùng trên thế giới, với khoảng 40-50 cá thể, theo Tổ chức Tê giác Thế giới (International Rhino Foundation) năm 2007, và 45-50 cá thể, theo WWF năm 2008. Khu bảo tồn này bao gồm bán đảo Ujung Kulon và một số đảo nhỏ liền kề, được Bộ Lâm nghiệp Indonesia quản lý, đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1992.
Sau khi bán đảo Ujung Kulon bị núi lửa Krakatoa tàn phá vào năm 1883, những con tê giác bắt đầu xâm lấn trở lại, trong khi đó dân cư nơi đây lại trở nên thưa thớt, vì thế đã tạo một địa điểm trú ẩn an toàn cho chúng. Năm 1931, khi tê giác Java đã đứng trên bờ vực tuyệt chủng ở Sumatra, chính quyền Indonesia đã tuyên bố rằng loài tê giác này là sinh vật được bảo vệ hợp pháp, dù thế sự săn bắn trộm vẫn tiếp diễn. Năm 1967, trong một điều tra lần đầu tiên về tê giác Java ở Ujung Kulon, chỉ có 25 con được ghi nhận. Đến những năm 1970-1980, chính quyền mới sử dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn với những kẻ săn trộm. Nhờ thế đến năm 1980, số lượng tê giác đã tăng lên gấp đôi và vẫn tiếp tục giữ ở khoảng 50 con cho đến nay. Dù ở Ujung Kulon không có kẻ săn mồi, nhưng tê giác Java vẫn phải cạnh tranh nguồn tài nguyên (thức ăn, nước uống, chỗ ở) với các loài ăn cỏ hoang dã khác, điều này có thể kìm hãm số lượng tê giác dưới sức chứa tối đa của khu vực bán đảo chúng sống.
Năm 2006, dấu hiệu về ít nhất bốn con tê giác con đã được các nhà khoa học của WWF khám phá, sự kiện này được coi là một thành tựu đặc biệt trong công cuộc bảo tồn.
Cát Tiên
Vườn quốc gia Cát Tiên tại Đông Nam Bộ, Việt Nam được thành lập vào năm 1992. Cát Tiên vào thời điểm đó có quần thể Rhinoceros sondaicus annamiticus cuối cùng trên thế giới trong khi chúng đã tuyệt chủng bên ngoài Việt Nam. Nằm trên địa bàn ba tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước, cách Thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía Bắc, vườn quốc gia Cát Tiên có đặc trưng là các khu rừng mưa đất thấp ẩm ướt nhiệt đới. Loài tê giác một sừng (tê giác Java Việt Nam) sống tại khu vực Cát Lộc của vườn quốc gia, đã được Sách đỏ Việt Nam xếp vào hạng cao nhất - E (Endangered - Nguy cấp), nhưng vẫn kém hơn so với hạng Cực kỳ nguy cấp của Sách đỏ IUCN.
Dù trước kia đã từng phổ biến trên toàn Đông Nam Á, nhưng sau Chiến tranh Việt Nam, phân loài tê giác Java Việt Nam được coi là đã tuyệt chủng. Những phương pháp sử dụng trong chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng hệ sinh thái của khu vực, ví dụ như sử dụng bom napan, chất độc da cam làm rụng lá, ném bom không kích hay thả mìn. Chiến tranh đã đem tới cho nơi đây hàng loạt những loại vũ khí mà người ta có thể tiếp cận với giá rẻ. Sau chiến tranh, những người dân nghèo, nếu trước kia chỉ dùng hố bẫy, nay lại có những vũ khí gây chết người trong tay, giúp họ trở thành những kẻ săn bắt hiệu quả. Thật bất ngờ khi một con tê giác cái trưởng thành bị bắn chết vào năm 1988. Tin này phản bác giả định rằng tê giác đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Năm sau, tức năm 1989, các nhà khoa học đến khảo sát khu rừng miền Nam Việt Nam để tìm dấu hiệu về những con sống sót còn lại đã phát hiện dấu vết mới của ít nhất 15 con tê giác sinh sống trong khu vực dọc sông Đồng Nai. Do mức độ quan trọng của quần thể này nên khu vực chúng sống đã trở thành Khu bảo tồn tê giác Cát Lộc vào năm 1992, sau đó đã sáp nhập vào Vườn quốc gia Cát Tiên năm 1998, tuy nhiên hai khu vực này lại bị ngăn cách bởi các khu đất nông nghiệp.
Dù được con người quan tâm bảo tồn nhưng diện tích cư trú của tê giác vẫn bị xâm lấn 15% vào năm 1990 và con số tê giác còn sống đã giảm xuống chỉ còn 5-8 con vào năm 1999. Theo đánh giá năm 2000, có khoảng 6 nghìn người sống bên rìa khu vực vườn quốc gia, ở các vùng bãi bồi triền sông, môi trường sống ưa thích của tê giác, bắt đầu xâm lấn để trồng lúa, cộng thêm với lực lượng kiểm lâm bảo vệ ít ỏi (dưới 20 người), nên người ta cho rằng tê giác Việt Nam chỉ có thể tồn tại trong vòng từ 3-5 năm nữa. Sau đó cơ quan bảo tồn ước tính chỉ còn 3-8 con tê giác, và có thể không có con đực nào sống sót. Loài tê giác đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Những nhà bảo tồn tranh luận về cơ hội sống sót của loài tê giác nơi đây; một số người cho rằng nên đem tê giác từ Indonesia sang để duy trì quần thể; những ý kiến khác cho rằng quần thể có khả năng tự phục hồi.
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, người ta phát hiện một con tê giác đã bị kẻ săn trộm bắn chết tại vườn quốc gia Cát Tiên. Đây được xem là một tin buồn cho ngành bảo tồn học Việt Nam. Quỹ WWF muốn chính phủ Việt Nam điều tra khẩn cấp để tìm ra thủ phạm. Đến tháng 10 năm 2011, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên cho biết con tê giác đó là con tê giác cuối cùng tại Việt Nam, và hiện tại loài tê giác Java đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế IRF (International Rhino Foundation) cũng đã khẳng định tin này.
Trong điều kiện nuôi nhốt
Không có con tê giác Java nào được trưng bày trong một thế kỉ qua. Thế kỷ 19, có ít nhất bốn con đã được trưng bày tại Adelaide, Calcutta và London. Theo các tài liệu có tổng số ít nhất 22 con tê giác Java đã bị nuôi nhốt, nhưng cũng có thể con số này lớn hơn vì nhiều khi nó bị nhầm với tê giác Ấn Độ. Tê giác Java chưa bao giờ sinh trưởng tốt trong điều kiện nuôi nhốt, nhiều nhất có con chỉ sống được 20 năm, bằng một nửa tuổi thọ của loài tê giác trong tự nhiên. Con tê giác Java bị giam cuối cùng chết tại Vườn thú Adelaide của Úc vào năm 1907, lúc đó chúng đang còn được biết rất ít và con vật này đã bị coi là thuộc loài tê giác Ấn Độ. Bởi những chương trình kéo dài và tốn kém trong thập niên 1980 và 1990 với mục đích nuôi những con tê giác Sumatra trong các vườn thú đều thất bại thảm hại, nên những cố gắng bảo tồn loài tê giác Java bằng cách tương tự cũng không chắc chắn thành công.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin và hình ảnh về Tê giác Java trên Trung tâm Tài nguyên Tê giác (Rhino Resource Center).
Thông tin trên Trung tâm kiểm định bảo tồn thế giới(UNEP-WCMC).
Các chi tiết và ảnh từ ARKive.
Thông số về tê giác Java (Rhinoceros sondaicus) trên Tổ chức Tê giác Quốc tế (International Rhino Foundation).
Tê giác một sừng trên SVRVN
S
Loài EDGE
Động vật có vú Việt Nam
Động vật có vú Ấn Độ
Động vật có vú Bangladesh
Động vật có vú Indonesia
Động vật có vú Malaysia
Động vật được mô tả năm 1822
Động vật có vú Đông Nam Á
|
25191
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%BAa%20ba%20l%C3%AA
|
Múa ba lê
|
Múa ba lê (hay múa ballet, bắt nguồn từ từ tiếng Pháp ballet /balɛ/) là một loại hình vũ kịch có nguồn gốc xuất xứ từ triều đình Ý và được phát triển tại Pháp, Nga, Mỹ và Anh thành dạng múa phối hợp. Đây là một dạng múa kỹ thuật hình thể với ngôn từ riêng của mình. Loại hình nghệ thuật này có tầm ảnh hưởng toàn cầu và được giảng dạy tại các trường múa trên khắp thế giới. Múa ballet được dàn dựng bao gồm nhạc (được dàn nhạc biểu diễn nhưng đôi khi được ca sĩ hát), lời ca, và diễn xuất của dàn múa. Loại hình biểu diễn Múa ballet cổ điển nổi tiếng nhất là ballet cổ điển với động tác uyển chuyển và chính xác. Sau này biến thể của ballet cổ điển có múa ballet tân cổ điển và múa ballet đương đại.
Về mặt từ nguyên, từ ba-lê trong tiếng Việt lấy từ tiếng Pháp "ballet", từ tiếng Pháp này cũng được tiếng Anh vay mượn vào khoảng thế kỷ 17. Nguyên gốc của ballet là từ tiếng Ý balletto, một dạng nói giảm của ballo (múa). Ballet lại có từ nguyên sâu xa hơn từ tiếng Latin ballere, có nghĩa là múa.
Lịch sử
Nước Ý là quê hương của hát opera, ballet Ý thời Phục Hưng ra đời nhằm phục vụ cho các lễ cưới hoàng gia và của tầng lớp quý tộc. Trong giai đoạn này, người châu Âu đặc biệt quan tâm đến học vấn và các loại hình nghệ thuật. Cùng lúc đó, thương mại và buôn bán cũng rất phát triển, Các thành phố của Ý trở thành những trung tâm nghệ thuật cũng như thương mại của châu Âu. Catherine de Médicis, người Florence, kết hôn với Henri II, trở thành hoàng hậu của nước Pháp vào năm 1547. Bà đã giới thiệu tới triều đình Pháp loại hình giải trí được biết đến tại Italia. Năm 1661, Louis XIV (Vua mặt trời) thành lập Học viện Múa Hoàng gia (Academie Royale de Danse) nhằm đào tạo các vũ công chuyên nghiệp để biểu diễn cho ông và triều đình. Thời kỳ này chỉ có nam vũ công. Để thể hiện vai nữ, các diễn viên nam sẽ mặc trang phục nữ, đeo mặt nạ và đội tóc giả. Chỉ đến vở ba-lê Le Triomphe de l'Amour (The Triumph of Love) năm 1681 nữ vũ công mới bắt đầu tham gia vào ba-lê. Từ mô hình của Pháp, trường ballet Hoàng gia Nga (Russian Imperial Ballet - hiện nay là Kirov Ballet) được thành lập năm 1738 tại St. Petersburg, sau này trở thành một trong số học viện ballet vĩ đại nhất thế giới, và đoàn Ballet Hoàng gia Đan Mạch năm 1748. Ballett thời kỳ lãng mạn coi phụ nữ là thực thể lý tưởng và, lần đầu tiên trong lịch sử ba-lê, họ được trao cho một vị trí quan trọng hơn hẳn so với nam giới. Nam diễn viên chỉ có vai trò phụ trên sân khâu nhằm nâng đỡ cho các ballerina và cho khán giả thấy họ không trọng lượng ra sao. Sau năm 1850, ba-lê tại Pháp rơi vào thời kỳ thoái trào, trong khi lại thăng hoa tại Nga, nhờ vào sự đóng góp của những bậc thầy ba-lê như August Bournonville, Jules Perrot, Arthur Saint-Léon, Enrico Cecchetti và Marius Petipa. Nửa sau thế kỷ 19, trung tâm thế giới ballet chuyển từ Pháp sang Nga. Một trong những người tạo ra kỷ nguyên vàng cho trường ballet Hoàng gia Nga và đóng vai trò lớn trong việc biến St. Petersburg trở thành kinh đô của ballett thế giới là Marius Petipa. Đoàn ballet của St. Petersburg là nơi đào tạo ra những diễn viên ballet vĩ đại nhất của mọi thời, trong đó nổi bật lên là cái tên Anna Pavlova.
Tham khảo
Kịch múa
Từ gốc Pháp
|
25196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9D
|
Ý
|
Ý hay Italia ( ), tên chính thức là Cộng hòa Ý () là một quốc gia cộng hòa nghị viện đơn nhất tại châu Âu. Lãnh thổ Ý vươn ra phần trung tâm của Địa Trung Hải, hai đảo lớn nhất là Sicilia và Sardegna. Dãy Anpơ giới hạn phần lãnh thổ phía Bắc của Ý, tạo thành biên giới trên bộ với Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Slovenia, trong khi San Marino và Thành Vatican nằm lọt trong nước cộng hòa. Ý có diện tích là 301.339 km², và phần lớn có khí hậu ôn đới theo mùa và Địa Trung Hải. Do hình dạng lãnh thổ, Ý thường được ví như lo Stivale (chiếc ủng). Dân số Ý đạt 60.184.639 người (2021), là quốc gia đông dân thứ ba trong Liên minh châu Âu, đông dân thứ 5 châu Âu, thứ 25 thế giới. Thủ đô của Ý là Roma, các vùng đô thị lớn khác là Milano, Napoli, Torino.
Đến thế kỷ I TCN, Đế quốc La Mã nổi lên thành thế lực chi phối tại bồn địa Địa Trung Hải, trở thành trung tâm lãnh đạo về văn hoá, chính trị và tôn giáo của văn minh phương Tây trong thời kỳ cổ đại. Di sản của đế quốc này được phổ biến và có thể nhận thấy trong luật dân sự, chính phủ cộng hoà, Cơ Đốc giáo và chữ cái Latinh trên toàn cầu. Đến sơ kỳ Trung cổ, xã hội - chính trị Ý sụp đổ trong quá trình người man di xâm lăng, song đến thế kỷ XI, nhiều thành bang và nước cộng hoà hàng hải, chủ yếu tại miền bắc và miền trung Ý, trở nên rất thịnh vượng nhờ chuyên chở đường biển, thương mại và ngân hàng, đặt nền tảng cho tư bản chủ nghĩa hiện đại. Tuy nhiên, một phần lớn miền Trung Ý duy trì dưới quyền kiểm soát của Lãnh thổ Giáo hoàng, còn miền Nam Ý liên tục bị các thế lực bên ngoài chinh phục. Phục hưng bắt đầu tại Ý và được truyền bá đến phần còn lại của châu Âu. Văn hoá Ý hưng thịnh trong thời kỳ này, sản sinh các học giả, nghệ sĩ và nhà bác học nổi tiếng. Các nhà thám hiểm người Ý như Marco Polo và Cristoforo Colombo khám phá các tuyến đường mới đến Viễn Đông và Tân Thế giới. Tuy vậy, sức mạnh thương mại và chính trị của Ý suy yếu đáng kể khi các tuyến hàng hải xuyên Đại Tây Dương và sang Ấn Độ Dương không đi qua Địa Trung Hải.
Các cuộc chiến tranh Ý trong thế kỷ XV và thế kỷ XVI khiến các thành bang Ý kiệt sức. Các quốc gia Ý đã suy yếu này nhanh chóng bị các cường quốc châu Âu chinh phục và thuộc địa hoá, như Pháp, Tây Ban Nha và Áo. Đến giữa thế kỷ XIX, nổi lên phong trào ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Ý và độc lập khỏi quyền cai trị ngoại bang. Ý cuối cùng thống nhất vào năm 1861, trở thành một đại cường quốc sau nhiều thế kỷ. Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Vương quốc Ý nhanh chóng tiến hành công nghiệp hoá và trở thành một đế quốc thực dân, song chủ yếu là tại miền Bắc, trong khi miền Nam phần lớn bị loại trừ khỏi quá trình này. Ý là nước chiến thắng chính trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, song vương quốc lâm vào một giai đoạn khủng hoảng kinh tế và rối loạn xã hội, mở đường cho chủ nghĩa độc tài phát xít nổi lên vào năm 1922. Ý tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai bên phe Trục và kết quả là thất bại về quân sự, kinh tế bị tàn phá và nội chiến. Sau chiến tranh, Ý bãi bỏ chế độ quân chủ, khôi phục nền dân chủ, đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng suốt một thời gian dài, và trở thành một nền kinh tế tiên tiến với quy mô lớn dù có các giai đoạn náo động về xã hội-chính trị.
Ngày nay, Ý là một cường quốc có nền kinh tế công nghiệp phát triển với kỹ nghệ tiên tiến, có GDP danh nghĩa thực tế lớn thứ 3 trong khu vực đồng Euro và đứng hạng 8 trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 25 thế giới. Quốc gia này luôn được xếp ở mức rất cao về chỉ số phát triển con người (HDI) và cũng xếp hạng rất cao về bình quân tuổi thọ. Ý giữ vai trò nổi bật trong các vấn đề kinh tế, quân sự, văn hoá, nghệ thuật, thể thao, chính trị và ngoại giao trong khu vực EU và trên toàn cầu. Quốc gia này là một cường quốc khu vực cũng như Đại cường quốc trên thế giới. Ý là một thành viên tham gia sáng lập và chủ đạo của Liên minh châu Âu, người Ý là dân tộc có nhiều phát minh, đóng góp và thành tích quan trọng trải dài trên mọi lĩnh vực trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Ý là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, nổi bật như Liên Hợp Quốc, NATO, OECD, Ủy hội châu Âu, Hội đồng châu Âu, Khu vực Schengen, Câu lạc bộ Paris, OSCE, WTO, G7, G8, G20, Liên minh Địa Trung Hải,... Ý sở hữu 55 di sản thế giới UNESCO, đứng đầu thế giới, và là nước đứng thứ 5 toàn cầu về số lượng du khách nước ngoài ghé thăm mỗi năm.
Từ nguyên
Nguồn gốc tên tiếng Ý
Giới sử học và ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều giả thuyết về nguồn gốc tên gọi "Italia". Theo một trong các cách giải thích phổ biến, thuật ngữ Italia, bắt nguồn từ , được mượn từ tiếng Oscan (tại miền Nam Ý) Víteliú qua trung gian là tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "vùng đất bò con" (so với tiếng Latinh vitulus "con bê", tiếng Umbria vitlo "con bê"). Bò đực là một biểu trưng của các bộ lạc miền nam Ý và thường được miêu tả là đang húc con sói La Mã để tượng trưng cho sự thách thức của Ý tự do trong Chiến tranh Đồng Minh (91–88 TCN). Sử gia Hy Lạp Dionysius xứ Halicarnassus nói về giải thích này cùng truyền thuyết rằng Ý được đặt tên theo vị vua Italus trong truyền thuyết, cũng được đề cập bởi Aristotle và Thucydides.
Tên gọi Italia ban đầu chỉ áp dụng cho một phần của miền nam Ý ngày nay - theo lời Antiochus xứ Syracuse, phần miền nam của bán đảo Bruttium (nay là Calabria: tỉnh Reggio và một phần các tỉnh Catanzaro và Vibo Valentia). Tuy nhiên, đến thời Antiochus thì Oenotria và Italia trở nên đồng nghĩa, và tên gọi cũng được áp dụng cho hầu hết Lucania. Người Hy Lạp dần áp dụng tên gọi "Italia" cho một vùng lớn hơn, song đến thời gian trị vì của Hoàng đế Augustus (kết thúc thế kỷ I TCN) thì thuật ngữ được mở rộng để bao gồm toàn thể bán đảo cho đến dãy Alpes.
Nguồn gốc tên tiếng Việt
Tên gọi Ý trong tiếng Việt là dạng rút gọn của một tên gọi khác dài hơn, nay không còn thông dụng nữa là Ý Đại Lợi. Danh xưng Ý Đại Lợi bắt nguồn tên gọi tiếng Hán 意大利 Ý Đại Lợi (âm đọc ghi theo âm Hán Việt). Tên gọi 意大利 Ý Đại Lợi trong tiếng Hán là phiên âm của từ Italy, tên tiếng Anh của nước Ý.
Tên gọi Italia (đọc là "I-ta-li-a") chủ yếu được dùng trong văn viết, nó ít khi được dùng trong khẩu ngữ tiếng Việt, người nói tiếng Việt hay gọi nước Ý bằng tên gọi đơn âm tiết Ý hơn là gọi bằng tên gọi đa âm tiết Italia. Ngoài cách viết Italia, tên gọi Italia còn có cách viết khác, ít gặp hơn là I-ta-li-a. Từ Italia trong tiếng Ý (phát âm là /iˈta.lja/) có ba âm tiết chứ không phải là bốn như từ Italia của tiếng Việt.
Đôi khi trong tiếng Việt, nước Ý bị một số người gọi là Italy ("I-ta-li") dù đã biết đến hai tên gọi Ý và Italia. Tên gọi này bắt nguồn từ tên tiếng Anh Italy. Trong tiếng Anh, từ Italy được phát âm là /ˈɪ.tə.li/. Cách phát âm của tên tiếng Anh phiên âm sang tiếng Việt là "I-tơ-li" nhưng những người đó lại gọi là "I-ta-li" mà không gọi là "I-tơ-li" là vì họ vay mượn hình thức chính tả của từ tiếng Anh nhưng không đọc từ Italy bằng phiên âm tiếng Việt của từ tiếng Anh mà đọc các chữ cái trong từ Italy theo âm mà các chữ cái đó thường biểu thị trong tiếng Việt.
Lịch sử
Tiền sử và cổ đại
Các cuộc khai quật trên khắp nước Ý đã khám phá sự hiện diện của người Neanderthal có niên đại từ thời đồ đá cũ, khoảng 200.000 năm trước, Người hiện đại xuất hiện vào khoảng 40.000 năm trước. Các di chỉ khảo cổ từ giai đoạn này gồm có hang động Addaura, người Altamura, Ceprano, đồi Poggiolo và thị trấn Gravina ở Puglia.
Các dân tộc cổ đại của Ý thời tiền La Mã, như Umbria, Latinh (khởi nguồn của người La Mã), Volsci, Osci, Sanniti, Sabini, Celti, Liguri – thuộc nhóm Ấn-Âu; các dân tộc lớn trong lịch sử có khả năng không mang di sản Ấn-Âu là người Etrusca, người Elimi và Sicani tại Sicilia, và người Sardegna tiền sử sở hữu văn minh Nuraghe. Các dân tộc Ý cổ đại khác thuộc các ngữ hệ chưa xác định song có khả năng là có nguồn gốc phi Ấn-Âu, như người Reti và Cammuni, được biết đến với các hình khắc trên đá.
Giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XI TCN, người Hy Lạp Mycenaea thiết lập liên hệ với Ý và trong thế kỷ VIII và VII TCN, các thuộc địa của Hy Lạp được thành lập suốt dọc bờ biển Sicilia và phần miền nam của bán đảo Ý, chúng được gọi là Magna Graecia (Đại Hy Lạp). Người Phoenicia cũng lập thuộc địa trên bờ biển của hai đảo Sardegna và Sicilia.
La Mã cổ đại
Roma (La Mã) là khu dân cư nằm gần một khúc cạn của sông Tevere, theo quy ước thì nó có mốc thành lập là năm 753 TCN. La Mã nằm dưới quyền cai trị của một chế độ quân chủ trong vòng 244 năm. Ban đầu các quân chủ có nguồn gốc Latinh và Sabini, về sau các quốc vương là người Etrusca. Theo truyền thuyết thì có bảy vị quốc vương kế tiếp nhau từ Romulus đến Tarquinius Superbus. Năm 509 TCN, người La Mã trục xuất vị quốc vương cuối cùng khỏi thành phố của họ, và lập ra một chế độ cộng hoà theo chính thể đầu sỏ.
Sau khi Julius Caesar nổi lên rồi bị giết trong thế kỷ I TCN, La Mã trở thành một đế quốc khổng lồ qua một tiến trình phát triển dài nhiều thế kỷ, có lãnh thổ trải dài từ Anh đến biên giới với Ba Tư, nắm giữ toàn bộ bồn địa Địa Trung Hải, trong đó Hy Lạp cùng La Mã và nhiều nền văn hoá khác hợp nhất thành một nền văn minh độc đáo. Vị hoàng đế đầu tiên là Augustus, thời gian cai trị của ông kéo dài và có nhiều thắng lợi, khởi đầu một thời kỳ hoàng kim với hoà bình và thịnh vượng.
Đế quốc La Mã nằm trong số các thế lực kinh tế, văn hoá, chính trị và quân sự hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Đây cũng là một trong các đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Vào đỉnh cao dưới thời Traianus, đế quốc chiếm giữ 5 triệu km². Di sản La Mã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn minh phương Tây, định hình hầu hết thế giới hiện đại; trong số nhiều di sản của quyền thống trị La Mã, có việc sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ Roman có nguồn gốc từ tiếng Latinh, chữ số La Mã, chữ cái và lịch phương Tây hiện đại, cũng như việc Cơ Đốc giáo nổi lên thành một tôn giáo tầm cỡ thế giới với số lượng tín đồ lớn.
Quá trình suy yếu chậm của đế quốc bắt đầu vào thế kỷ III, đế quốc bị phân thành hai nửa vào năm 395. Đế quốc phía Tây chịu áp lực từ các cuộc xâm lăng của người man di, và cuối cùng tan rã vào năm 476, khi hoàng đế cuối cùng bị một tù trưởng German là Odoacer phế truất, còn Đế quốc phía Đông tồn tại trong gần một nghìn năm nữa.
Trung cổ
Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ, người Ostrogoth thuộc nhóm German chiếm giữ Ý. Đến thế kỷ VI, Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I chinh phục Ý và kiểm soát trong một thời gian ngắn ngủi. Một bộ lạc German khác là người Lombard sau đó xâm chiếm Ý, thu hẹp sự hiện diện của Đông La Mã thành một nhóm các lãnh địa tách biệt nhau (Esarcato di Ravenna), và khởi đầu quá trình không thống nhất về chính trị trên bán đảo kéo dài trong suốt 1.300 năm sau. Đến cuối thế kỷ VIII, Quốc vương của người Frank (cũng thuộc nhóm German) là Charlemagne sáp nhập vương quốc của người Lombard vào Đế quốc Frank. Người Frank cũng giúp thành lập Lãnh thổ Giáo hoàng tại miền trung Ý. Cho đến thế kỷ XIII, chính trị Ý bị chi phối bởi quan hệ giữa các Hoàng đế La Mã Thần thánh và Giáo hoàng, hầu hết các thành bang Ý sát cánh với Hoàng đế (Ghibellini) hoặc Giáo hoàng (Guelfi) theo mối lợi nhất thời.
Trong giai đoạn hỗn độn này, trong các đô thị Ý nổi lên một thể chế khác thường là công xã Trung cổ. Trước việc xuất hiện khoảng trống quyền lực do phân mảnh lãnh thổ cực độ và đấu tranh giữa Đế quốc và Toà Thánh, các cộng đồng địa phương tìm cách tự trị để duy trì pháp luật và trật tự. Năm 1176, một liên minh các thành bang mang tên Liên minh Lombard đánh bại Hoàng đế La Mã Thần thánh/Đức Friedrich I trong trận Legnano, do đó đảm bảo độc lập hiệu quả cho hầu hết các thành phố miền bắc và miền trung Ý. Tại các khu vực ven biển và miền nam, các cộng hoà hàng hải như Venezia, Genova, Pisa và Amalfi tham gia sâu vào Thập tự chinh, và dần chiếm thế chi phối tại Địa Trung Hải và độc quyền các tuyến mậu dịch đến phương Đông.
Tại miền nam, đảo Sicilia trở thành một vương quốc Hồi giáo trong thế kỷ IX, phát triển thịnh vượng cho đến khi người Norman gốc Bắc Âu chinh phục đảo vào cuối thế kỷ XI cùng với hầu hết các thân vương quốc của người Lombard và Đông La Mã tại miền nam Ý. Thông qua một loạt sự kiện phức tạp, miền nam Ý phát triển thành một vương quốc thống nhất dưới quyền Nhà Staufer (Hohenstaufen) gốc Đức, sau đó là dưới quyền Nhà Capet xứ Anjou gốc Pháp, và từ thế kỷ XV thuộc về Vương quốc Liên hiệp Aragon khởi nguồn từ Tây Ban Nha. Tại đảo Sardegna, các tỉnh cũ của Đông La Mã trở thành các nhà nước độc lập (Giudicati) từ thế kỷ IX, song một số phần của đảo nằm dưới quyền cai trị của Genova hoặc Pisa cho đến khi đảo bị Aragon chinh phục vào thế kỷ XV. Dịch bệnh Cái chết Đen năm 1348 hoành hành tại Ý, có thể đã làm chết một phần ba dân số Ý khi đó. Tuy vậy, phục hồi sau dịch bệnh dẫn đến hồi sinh các thành phố, mậu dịch và kinh tế, tạo điều kiện bùng nổ chủ nghĩa nhân văn và Phục hưng, để rồi sau đó được truyền bá tại châu Âu.
Cận đại
Trong thế kỷ XIV và XV, miền bắc và miền trung Ý bị phân chia thành một số thành bang xung khắc lẫn nhau, phần còn lại của bán đảo thuộc về Lãnh thổ Giáo hoàng và Vương quốc Napoli (hậu thân của Vương quốc Sicilia, thuộc Nhà Capet rồi Aragon). Nhiều thành bang về mặt chính thức thường quy phục các quân chủ ngoại bang, như Công quốc Milano về danh nghĩa là một quốc gia cấu thành của Đế quốc La Mã Thần thánh có dân cư chủ yếu là người Đức. Tuy nhiên, các thành bang này thường tìm được cách duy trì độc lập thực tế. Các thành bang mạnh nhất thường sáp nhập các lãnh thổ xung quanh để trở thành bá chủ, các nhà nước khu vực thường nằm dưới quyền của các gia tộc thương gia, họ lập ra các triều đại địa phương. Chiến tranh giữa các thành bang mang tính đặc hữu, và chủ yếu là giao tranh giữa các quân đội đánh thuê gọi là condottieri, các toán lính này được lấy từ khắp châu Âu, đặc biệt là Đức và Thuỵ Sĩ, song phần lớn lãnh đạo là người Ý. Nhiều thập niên giao tranh dẫn đến kết quả chung cuộc là Firenze, Milano và Venezia nổi lên thành các thế lực chi phối, họ đạt được Hoà ước Lodi vào năm 1454, mang lại yên tĩnh tương đối lần đầu tiên cho khu vực suốt nhiều thế kỷ. Tình trạng hoà bình này kéo dài trong bốn muơi năm sau.
Phục hưng là một giai đoạn khôi phục mạnh mẽ về nghệ thuật và văn hoá, nó bắt nguồn tại Ý do một số yếu tố, như các thành thị buôn bán tích luỹ được lượng của cải lớn, các gia đình có thế lực bảo trợ, và các học giả cùng văn bản Hy Lạp đến Ý sau khi người Thổ Ottoman chinh phục Constantinopolis- thủ đô của Đông La Mã (Byzantine). Thời kỳ Phục hưng Ý đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ XVI, cũng vào lúc này các quốc gia bên ngoài đẩy khu vực vào cảnh hỗn loạn trong Các cuộc chiến tranh Ý.
Medici trở thành một gia đình có thế lực của Firenze, họ bồi dưỡng và truyền cảm hứng khai sinh Phục hưng Ý, cùng với các gia đình khác tại Ý như Visconti và Sforza tại Milano, Este tại Ferrara và Gonzaga tại Mantova. Các nghệ sĩ vĩ đại nhất như Leonardo da Vinci, Brunelleschi, Botticelli, Michelangelo, Giotto, Donatello, Tiziano Vecelli và Raffaello tạo ra các tác phẩm truyền cảm hứng. Sử gia nhân văn Leonardo Bruni cũng phân tách lịch sử cổ đại, trung đại và hiện đại.
Các ý tưởng và lý tưởng Phục hưng nhanh chóng được truyền bá đến Bắc Âu, Pháp, Anh và phần lớn châu Âu. Trong khi đó, việc khám phá châu Mỹ và các tuyến đường mới đến châu Á, cũng như việc Đế quốc Ottoman nổi lên đều làm xói mòn vị thế chi phối truyền thống của Ý trong mậu dịch với phương Đông, gây suy thoái kinh tế kéo dài trên bán đảo.
Các cuộc chiến tranh Ý (1494–1559) bắt nguồn từ kình địch giữa Pháp và Tây Ban Nha, các thành bang Ý dần mất độc lập và nằm dưới quyền chi phối của ngoại bang, ban đầu là Tây Ban Nha (1559 đến 1713) và sau là Áo (1713 đến 1796). Năm 1629–1631, một đợt bùng phát dịch bệnh nữa khiến cho khoảng 14% dân số Ý mất mạng. Ngoài ra, khi Đế quốc Tây Ban Nha bắt đầu suy yếu vào thế kỷ XVII, các thuộc địa của họ tại Napoli, Sicilia, Sardegna và Milano cũng tương tự. Đặc biệt, miền nam Ý trở nên bần cùng và tách khỏi dòng chính của các sự kiện tại châu Âu.
Trong thế kỷ XVIII, do hậu quả của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Áo thay thế Tây Ban Nha trong vai trò thế lực ngoại bang chi phối Ý. Trong khi đó, Nhà Savoy nổi lên thành một thế lực khu vực, bành trướng đến Piemonte và Sardegna. Cũng trong thế kỷ XVIII, suy thoái kéo dài hai thế kỷ được tạm ngừng nhờ các cải cách kinh tế và chính quyền do tầng lớp tinh hoa cầm quyền tiến hành tại một số quốc gia. Trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, miền bắc và miền trung Ý bị xâm chiếm và được tái tổ chức thành Vương quốc Ý, một nhà nước phụ thuộc của Đế quốc Pháp, còn nửa phía nam của bán đảo thuộc quyền cai quản của em rể Napoléon là Joachim Murat, người này lên ngôi Quốc vương Napoli. Đại hội Viên 1814 khôi phục tình thế vào cuối thế kỷ XVIII, song lý tưởng của Cách mạng Pháp không thể bị diệt trừ, và nó nhanh chóng nổi lên trong các biến động chính trị mang tính đặc trưng cho phần đầu thế kỷ XIX.
Thống nhất
Vương quốc Ý hình thành là kết quả từ các nỗ lực của những người dân tộc chủ nghĩa và bảo hoàng trung thành với Nhà Savoy, nhằm lập một vương quốc thống nhất bao gồm toàn bộ bán đảo Ý. Trong bối cảnh các cuộc cách mạng tự do năm 1848 tràn khắp châu Âu, đã nổ ra một cuộc chiến độc lập với Áo song thất bại. Vương quốc Sardegna (gồm cả Piemonte) của Nhà Savoy lại tấn công Áo trong chiến tranh độc lập lần thứ nhì vào năm 1859, nhận được giúp đỡ của Pháp, kết quả là giải phóng Lombardia.
Năm 1860–1861, Tướng quân Giuseppe Garibaldi lãnh đạo tiến trình thống nhất tại Napoli và Sicilia, cho phép chính phủ Sardegna dưới quyền lãnh đạo của Bá tước xứ Cavour công bố một vương quốc Ý thống nhất vào ngày 17 tháng 3 năm 1861. Năm 1866, Quốc vương Vittorio Emanuele II liên minh với Phổ trong Chiến tranh Áo-Phổ, tiến hành chiến tranh độc lập lần thứ ba với kết quả là Ý sáp nhập Veneto. Cuối cùng, do Pháp từ bỏ đóng quân tại Roma trong Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870, người Ý cấp tốc lấp khoảng trống quyền lực bằng việc tiếp quản Lãnh thổ Giáo hoàng.
Luật Hiến pháp của Vương quốc Sardegna là Quy chế Albertino năm 1848 được mở rộng cho toàn bộ Vương quốc Ý vào năm 1861, và quy định các quyền tự do cơ bản của nhà nước mới, song luật bầu cử loại trừ quyền bỏ phiếu của các tầng lớp không có tài sản và không được giáo dục. Chính phủ vương quốc mới vận hành trong một khuôn khổ quân chủ lập hiến nghị viện, do các thế lực tự do chi phối. Năm 1913, quyền phổ thông đầu phiếu cho nam giới được thực hiện. Trong khi miền bắc Ý diễn ra công nghiệp hoá nhanh chóng, thì miền nam và các khu vực nông thôn của miền bắc vẫn kém phát triển và quá tải dân số, buộc hàng triệu người di cư ra nước ngoài, trong khi đó Đảng Xã hội Ý liên tục gia tăng sức mạnh, thách thức nền tảng tự do và bảo thủ truyền thống. Bắt đầu từ hai thập niên cuối của thế kỷ XIX, Ý phát triển thành một thế lực thực dân khi ép buộc Somalia, Eritrea, Libya và Dodecanneso (Dodekanisa) nằm dưới quyền cai trị của mình.
Ý liên minh trên danh nghĩa với Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung trong Liên minh Ba bên năm 1882. Tuy nhiên, vào năm 1915 Ý gia nhập Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất với cam kết sẽ nhận được đáng kể lãnh thổ. Chiến tranh ban đầu không có kết quả, do quân Ý bị tấn công trong một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài trên dãy Alpes, đạt được ít tiến triển và chịu tổn thất rất nặng. Cuối cùng, đến tháng 10 năm 1918, người Ý phát động một cuộc tấn công ồ ạt, đỉnh điểm là chiến thắng gần Vittorio Veneto. Thắng lợi của người Ý đánh dấu kết thúc chiến tranh trên Mặt trận Ý, đảm bảo giải thể Đế quốc Áo-Hung và là công cụ chủ yếu để kết thúc Thế chiến chưa đến hai tuần sau đó.
Trong chiến tranh, có trên 650.000 binh sĩ Ý và nhiều thường dân thiệt mạng và vương quốc đi đến bờ vực phá sản. Theo các hiệp định hoà bình Saint-Germain, Rapallo và Roma, Ý giành được hầu hết các lãnh thổ được hứa hẹn, song không có Dalmatia (trừ Zara), khiến các phần tử dân tộc chủ nghĩa cho rằng chiến thắng như là "bị què quặt".
Phát xít
Kích động xã hội diễn ra sau những tàn phá của chiến tranh, lấy cảm hứng từ Cách mạng Nga, dẫn đến các hành động phản cách mạng và đàn áp trên khắp nước Ý. Tổ chức tự do lo ngại một cuộc cách mạng kiểu Xô viết, họ bắt đầu tán thành Đảng Phát xít Ý có quy mô nhỏ của Benito Mussolini. Trong tháng 10 năm 1922, quân Áo đen của Đảng Phát xít quốc gia cố gắng tiến hành đảo chính ("Hành quân đến Roma"), hành động này thất bại song vào phút chót Quốc vương Vittorio Emanuele III của Ý từ chối tuyên bố tình trạng bao vây và bổ nhiệm Mussolini làm thủ tướng. Trong vài năm sau đó, Mussolini cấm chỉ toàn bộ các chính đảng và tước đoạt các quyền tự do cá nhân, do đó hình thành một chế độ độc tài. Các hành động này thu hút sự chú ý của quốc tế và cuối cùng truyền cảm hứng cho các chế độ độc tài tương tự như Đức Quốc xã hay Tây Ban Nha dưới quyền Franco.
Năm 1935, Mussolini xâm chiếm Ethiopia, khiến quốc tế xa lánh Ý và nước này rút khỏi Hội Quốc Liên; Ý liên minh với Đức Quốc xã và Đế quốc Nhật Bản, cũng như ủng hộ mạnh mẽ Francisco Franco trong nội chiến Tây Ban Nha. Năm 1939, Ý sáp nhập Albania, sau khi nắm quyền bảo hộ thực tế nước này trong nhiều thập niên. Ý tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai bên Phe Trục vào ngày 10 tháng 6 năm 1940. Dù có tiến bộ bước đầu tại Somaliland thuộc Anh và Ai Cập, song về sau người Ý chiến bại tại Đông Phi, Hy Lạp, Nga và Bắc Phi. Sau khi Đức cùng Ý tấn công vào Nam Tư, việc đàn áp kháng cự của du kích Nam Tư và các nỗ lực nhằm Ý hoá đã dẫn đến các tội ác chiến tranh của Ý
Đồng Minh bắt đầu xâm chiếm Sicilia vào tháng 7 năm 1943, dẫn đến chế độ phát xít sụp đổ và Mussolini bị hạ bệ vào ngày 25 tháng 7, Ý đầu hàng Đồng Minh. Người Đức nhanh chóng đoạt quyền kiểm soát miền bắc và miền trung Ý. Quốc gia này duy trì là một chiến trường trong giai đoạn còn lại của chiến tranh, do Đồng Minh tiến chậm từ phía nam. Tại phía bắc, người Đức lập ra nhà nước bù nhìn Cộng hòa Xã hội Ý (RSI) và lập Mussolini làm lãnh đạo. Thời kỳ sau đình chiến chứng kiến việc nổi lên một phong trào kháng chiến chống phát xít có quy mô lớn, mang tên Resistenza. Đến cuối tháng 4 năm 1945, khi thất bại hoàn toàn đang dần hiện rõ, Mussolini cố đào thoát về phía bắc, song bị du kích Ý bắt giữ và hành quyết. Tình trạng thù địch kết thúc vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, khi lực lượng Đức tại Ý đầu hàng. Gần nửa triệu người Ý thiệt mạng trong xung đột, và kinh tế Ý gần như bị phá huỷ; thu nhập bình quân vào năm 1944 ở mức thấp nhất kể từ khi bắt đầu thế kỷ XX.
Cộng hoà Ý
Ý trở thành nước cộng hoà sau một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào ngày 2 tháng 6 năm 1946, từ đó ngày này được kỷ niệm với tên gọi là ngày Cộng hoà. Đây cũng là lần đầu tiên phụ nữ Ý được trao quyền bỏ phiếu. Con trai của Vittorio Emanuele III là Umberto II buộc phải thoái vị và lưu vong. Hiến pháp Cộng hoà được phê chuẩn vào ngày 1 tháng 1 năm 1948. Theo hiệp định hoà bình với Ý năm 1947, hầu hết Venezia Giulia bị mất cho Nam Tư, và sau đó Lãnh thổ tự do Trieste bị phân chia giữa Ý và Nam Tư. Ý cũng mất toàn bộ tài sản thuộc địa, chính thức kết thúc Đế quốc Ý.
Cử tri Ý lo ngại về khả năng thế lực cộng sản tiếp quản, điều này tỏ ra là mang tính quyết định trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu lần đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 1948, khi Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo dưới quyền Alcide De Gasperi giành được chiến thắng lớn. Đến năm 1949, Ý trở thành một thành viên của NATO. Kế hoạch Marshall giúp phục hồi kinh tế Ý, Ý có một giai đoạn tăng trưởng kinh tế duy trì liên tục và thường được gọi là "kỳ tích kinh tế" đến cuối thập niên 1960. Năm 1957, Ý là một thành viên sáng lập của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), tiền thân của Liên minh châu Âu (EU).
Từ cuối thập niên 1960 cho đến đầu thập niên 1980, Ý trải qua giai đoạn náo động, có đặc trưng là khủng hoảng kinh tế (đặc biệt là sau khủng hoảng dầu mỏ 1973), xung đột xã hội lan rộng và các vụ tàn sát khủng bố do các nhóm cực đoan đối lập tiến hành, với cáo buộc có sự tham gia của tình báo Hoa Kỳ và Liên Xô.
Trong thập niên 1980, lần đầu tiên kể từ năm 1945 có hai chính phủ nằm dưới quyền lãnh đạo của các thủ tướng không thuộc Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo: Một của những người cộng hoà (Giovanni Spadolini) và một của những người xã hội (Bettino Craxi); tuy nhiên Dân chủ Cơ Đốc giáo vẫn là đảng thống trị chính. Dưới thời chính phủ của Bettino Craxi, kinh tế hồi phục và Ý trở thành quốc gia công nghiệp hoá lớn thứ năm thế giới, được quyền gia nhập nhóm G7. Tuy nhiên, hậu quả từ chính sách chi tiêu của ông là nợ quốc gia tăng vọt.
Vào đầu thập niên 1990, Ý đối diện với các thách thức trọng đại, khi cử tri yêu cầu cải cách cấp tiến do thất vọng với tình trạng tê liệt chính trị, nợ công khổng lồ và tham nhũng lan tràn (gọi là Tangentopoli) được vạch trần trong điều tra 'Mani pulite' (bàn tay sạch). Các vụ bê bối liên quan đến toàn bộ các đảng lớn, song đặc biệt là trong liên minh chính phủ: Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo từng cầm quyền gần 50 năm song đến lúc này trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và cuối cùng phải giải tán vào năm 1994, phân ly thành một vài phe phái. Những người cộng sản tái tổ chức thành một lực lượng dân chủ xã hội. Trong thập niên 1990 và 2000, các liên minh trung-hữu (do ông trùm truyền thông Silvio Berlusconi chi phối) và trung-tả (do giáo sư Romano Prodi lãnh đạo) thay nhau quản lý đất nước.
Đến cuối thập niên 2000, Ý chịu tác động nghiêm trọng do Đại khủng hoảng, trải qua 42 tháng suy giảm GDP từ năm 2008 đến năm 2013. Khủng hoảng kinh tế là một trong các vấn đề chính buộc Berlusconi phải từ chức vào năm 2011. Chính phủ bảo thủ được thay thế bằng nội các kỹ trị của Mario Monti. Sau tổng tuyển cử năm 2013, Phó bí thư của Đảng Dân chủ là Enrico Letta lập chính phủ mới, đứng đầu một đại liên minh hữu-tả. Năm 2014, gặp thách thức từ tân Bí thư Đảng Dân chủ Matteo Renzi, Letta từ chức và người thay thế là Renzi. Tân chính phủ khởi đầu các cải cách hiến pháp quan trọng như giải tán nghị viện và một luật bầu cử mới. Đến ngày 4 tháng 12 năm 2016, các cải cách hiến pháp bị bác bỏ trong trưng cầu dân ý và Renzi từ chức sau đó vài ngày; Bộ trưởng Ngoại giao Paolo Gentiloni được bổ nhiệm làm thủ tướng mới.
Địa lý
Ý nằm tại Nam Âu, giữa vĩ tuyến 35° và 47° Bắc, giữa kinh tuyến 6° và 19° Đông. Tổng diện tích quốc gia là 301.230 km², trong đó 294.020 km² là mặt đất và 7.210 km² là mặt nước. Về phía bắc, Ý có biên giới với Pháp, Thuỵ Sĩ, Áo và Slovenia, và biên giới gần như định theo đường phân thủy của dãy Alpes, bao quanh thung lũng Po và đồng bằng Veneto. Về phía nam, có bán đảo Ý và hai đảo lớn Sicilia và Sardegna trên Địa Trung Hải, cùng các đảo nhỏ hơn. Các quốc gia có chủ quyền San Marino và Thành Vatican nằm lọt trong nước Ý, còn Campione d'Italia là một lãnh thổ tách rời của Ý nằm lọt trong Thuỵ Sĩ. Ý giáp với các biển Adriatic (Adriatico), Ionia (Ionio), Tyrrhenius (Tirreno) và Ligure.
Dãy Appennini tạo thành xương sống của bán đảo, còn dãy Alpes tạo thành hầu hết biên giới phía bắc, trên dãy này có đỉnh cao nhất nước Ý là Monte Bianco với 4.810 m. Po là sông dài nhất tại Ý với 652 km, chảy từ dãy Alpes trên biên giới phía tây với Pháp và vượt qua đồng bằng Padan rồi đổ ra biển Adriatic. Năm hồ rộng nhất theo thứ tự là: Garda (367,94 km²), Maggiore (212,51 km²), Como (145,9 km²), Trasimeno (124,29 km²) và Bolsena (113,55 km²). Hầu hết lãnh thổ Ý thuộc lưu vực Địa Trung Hải.
Ý nằm tại điểm giao nhau của mảng Á-Âu và mảng châu Phi, dẫn đến có nhiều hoạt động địa chấn và núi lửa. Ý có 14 núi lửa, bốn trong số này đang hoạt động: Etna, Stromboli, Vulcano và Vesuvius. Vesuvius là núi lửa hoạt động duy nhất tại đại lục châu Âu và nổi tiếng vì từng tàn phá các thành phố Pompeii và Herculanum khi nó phun trào vào năm 79. Một vài đảo và khu đồi được tạo ra sau hoạt động núi lửa, và vẫn còn một hõm chảo hoạt động với kích cỡ lớn là Campi Flegrei phía tây bắc Napoli.
Môi trường
Sau khi phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh chóng, Ý phải đương đầu với các vấn đề môi trường trong một thời gian dài. Sau một số cải thiện, vào năm 2009 Ý đứng hạng 84 thế giới về tính bền vững sinh thái. Các công viên quốc gia chiếm khoảng 5% diện tích Ý. Trong những năm qua, Ý trở thành một trong các quốc gia hàng đầu thế giới về sản xuất năng lượng tái tạo, xếp hạng tư thế giới về công suất năng lượng Mặt trời được lắp đặt, và đứng thứ sáu về năng lượng gió vào năm 2010. Năng lượng tái tạo có mục tiêu chiếm 17% tiêu thụ năng lượng của Ý vào năm 2020.
Tuy nhiên, ô nhiễm không khí vẫn là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là tại miền bắc công nghiệp hoá, đạt đến vị trí thứ mười thế giới về phát thải cacbon dioxide công nghiệp trong thập niên 1990. Mạng lưới giao thông rộng và tắc nghẽn trong các vùng đô thị lớn gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường và sức khoẻ, song mức sương khói đã giảm mạnh kể từ thập niên 1970 và 1980 và mức lưu huỳnh điôxit đang giảm.
Nhiều nguồn nước và dải ven biển cũng bị nhiễm bẩn do hoạt động công nghiệp và nông nghiệp. Do mực nước biển dâng lên, thành phố Venezia thường xuyên bị ngập lụt trong những năm gần đây. Chất thải từ hoạt động công nghiệp không phải luôn được xử lý bằng các biện pháp hợp pháp, và điều này dẫn đến tác động về sức khoẻ thường xuyên cho cư dân những vùng bị ảnh hưởng. Ý cũng vận hành một vài lò phản ứng hạt nhân từ năm 1963 đến năm 1990, tuy nhiên sau thảm họa Chernobyl tại Liên Xô và một cuộc trưng cầu dân ý thì chương trình hạt nhân bị chấm dứt. Chính phủ đảo ngược quyết định này vào năm 2008, lập kế hoạch xây dựng bốn nhà máy điện hạt nhân theo công nghệ Pháp, tuy nhiên điều này kết thúc trong một cuộc trưng cầu dân ý sau thảm hoạ hạt nhân Fukushima tại Nhật Bản. Nạn phá rừng, phát triển xây dựng bất hợp pháp và quản lý đất đai yếu kém dẫn đến xói mòn đáng kể tại khắp các vùng núi của Ý, dẫn đến các thảm hoạ sinh thái lớn như lũ đập Vajont năm 1963, các vụ lở đất Sarno năm 1998 và Messina năm 2009.
Động thực vật
Ý có mức độ đa dạng sinh học động vật cao nhất tại châu Âu, với trên 57.000 loài được ghi nhận, chiếm hơn một phần ba tổng số động vật của châu Âu. Bán đảo Ý là trung tâm của Địa Trung Hải, tạo thành một hành lang giữa Trung Âu và Bắc Phi, và có 8.000 km đường bờ biển. Ý cũng tiếp nhận các loài từ Balkan, Á-Âu, Trung Đông. Cấu trúc địa chất đa dạng của Ý, bao gồm Alpes và Appennini, vùng rừng Trung Ý, và đất cây bụi garigue và maquis tại miền nam, cũng góp phần vào đa dạng khí hậu và môi trường sống.
Hệ động vật Ý gồm có 4.777 loài đặc hữu, như dơi tai dài Sardegna, hươu đỏ Sardegna, kỳ giông kính phương Nam, cóc bụng vàng Appennini hay rùa biển Sicilia. Có 102 loài thú tại Ý, như macmot Alpes, chuột chù Etrusca (thú nhỏ nhất thế giới) và chuột tuyết châu Âu; các loài thú lớn được chú ý là chó sói Ý, gấu nâu Marsica, sơn dương Pyrénées, dê núi Alpes, cá heo răng nhám, nhím mào và hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải. Ý cũng ghi nhận 516 loài chim và 56213 loài nhuyễn thể.
Hệ thực vật từng được ước tính gồm có khoảng 5.500 loài thực vật có mạch. Tuy nhiên, , 6.759 loài được ghi nhận trong Ngân hàng dữ liệu thực vật có mạch Ý. Về mặt địa thực vật, hệ thực vật Ý được chia sẻ giữa vùng phía bắc (circumboreal) và vùng Địa Trung Hải. Ý là một bên ký kết Công ước Bern về bảo hộ môi trường hoang dã và tự nhiên châu Âu, và Chỉ dẫn môi trường sống, chúng đều cung cấp sự bảo hộ đối với động thực vật Ý.
Khí hậu
Nhờ bán đảo trải dài theo vĩ tuyến và địa thể hầu hết là núi non tại nội địa, nên khí hậu Ý đa dạng cao độ. Tại hầu hết các vùng nội địa miền bắc và miền trung, khí hậu thay đổi từ cận nhiệt đới ẩm đến lục địa ẩm và đại dương. Đặc biệt, khí hậu vùng địa lý thung lũng Po hầu hết mang tính lục địa, có mùa đông khắc nghiệt và mùa hè nóng.
Các khu vực ven biển Liguria, Toscana và hầu hết miền nam thường ứng với khuôn mẫu của khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen Csa). Điều kiện tại các khu vực ven biển của bán đảo rất khác biệt so với các vùng cao và thung lũng nội địa, đặc biệt là trong các tháng mùa đông khi những nơi cao hơn có xu hướng lạnh, ẩm và thường có tuyết. Các khu vực ven biển có mùa đông ôn hoà còn mùa hè thì ấm và thường khô, song các thung lũng vùng thấp có thể khá nóng trong mùa hè. Nhiệt độ mùa đông trung bình dao động từ 0 °C trên dãy Alpes cho đến 12 °C tại Sicilia, cũng như vậy nhiệt độ mùa hè trung bình dao động từ 20 °C đến 25 °C.
Chính trị
Chính phủ
Ý có chế độ nghị viện nhất thể từ ngày 2 tháng 6 năm 1946, khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ thông qua trưng cầu dân ý hiến pháp. Tổng thống Ý là nguyên thủ quốc gia, được Quốc hội bầu ra trong phiên họp toàn thể với nhiệm kỳ 7 năm. Ý có một hiến pháp dân chủ thành văn, là kết quả từ công lao của Hội đồng Lập hiến gồm đại biểu của toàn bộ các lực lượng chống phát xít có đóng góp trong việc đánh bại lực lượng quốc xã và phát xít trong nội chiến.
Chính phủ nghị viện Ý dựa trên hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ. Nghị viện Ý theo chế độ lưỡng viện hoàn toàn: Hạ nghị viện (Camera dei deputati, họp tại Palazzo Montecitorio) và Thượng nghị viện (họp tại Palazzo Madama) có quyền lực tương đương. Thủ tướng có danh xưng chính thức là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Presidente del Consiglio dei Ministri), là người đứng đầu chính phủ của Ý. Thủ tướng và nội các do tổng thống bổ nhiệm, song cần phải qua một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện để được nhậm chức. Hội đồng Bộ trưởng nắm giữ quyền lực hành pháp, thủ tướng cần phải được cơ cấu này tán thành để thi hành hầu hết các hoạt động chính trị. Chức vụ thủ tướng của Ý tương tự như tại hầu hết các hệ thống nghị viện khác, song lãnh đạo của chính phủ Ý không có quyền yêu cầu giải tán Nghị viện.
Khác biệt nữa với các chức vụ tương tự là trách nhiệm chính trị tổng thể về tình báo được trao cho thủ tướng. Theo tinh thần đó, thủ tướng thi hành quyền lực tuyệt đối về các chính sách tình báo phối hợp, xác định các nguồn tài chính và củng cố an ninh mạng quốc gia; áp dụng và bảo vệ bí mật nhà nước; uỷ quyền cho các nhân viên tiến hành hoạt động tại Ý và nước ngoài.
Một điểm khác thường của Nghị viện Ý là quyền đại diện được trao cho các công dân Ý thường trú tại nước ngoài: 12 hạ nghị sĩ và 6 thượng nghị sĩ được bầu ra trong bốn khu vực bầu cử hải ngoại riêng biệt. Ngoài ra, Thượng viện Ý có đặc điểm là một số lượng nhỏ nghị sĩ nhậm chức trọn đời, do tổng thống bổ nhiệm, "vì những công lao ái quốc nổi bật trong lĩnh vực xã hội, khoa học, nghệ thuật hoặc văn học". Các cựu tổng thống mặc nhiên là các thượng nghị sĩ trọn đời.
Ba chính đảng lớn của Ý là Đảng Dân chủ (Partito Democratico), Forza Italia (nước Ý tiến bước) và Phong trào Năm sao (Movimento 5 Stelle). Trong tổng tuyển cử năm 2013, ba đảng này giành được 579 trong số 630 ghế tại Hạ nghị viện và 294 trong số 315 ghế tại Thượng nghị viện. Hầu hết các ghế còn lại thuộc về một khối bầu cử đoản mệnh được thành lập nhằm ủng hộ Thủ tướng Mario Monti sắp phải ra đi.
Pháp luật
Hệ thống tư pháp Ý dựa trên luật La Mã, được bộ luật Napoléon và các đạo luật sau này phỏng theo. Toà án Tối cao Ý xét xử phúc thẩm cả các vụ án hình sự và dân sự. Toà án Hiến pháp Ý (Corte Costituzionale) ra quyết định về tính phù hợp của luật với hiến pháp, đây là một cơ cấu mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ khi xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX, tội phạm có tổ chức và các tổ chức tội phạm tại Ý đã xâm nhập sinh hoạt xã hội và kinh tế của nhiều khu vực tại miền nam Ý, nổi danh nhất trong số đó là Mafia Sicilia, liên minh này về sau phát triển ra một số quốc gia khác như Hoa Kỳ. Các khoản thu của Mafia có thể chiếm đến 9% GDP của Ý.
Một báo cáo vào năm 2009 xác định Mafia hiện diện mạnh tại 610 xã, tổng dân số các xã này là 13 triệu và chiếm 14,6% GDP của Ý. Băng đảng 'Ndrangheta tập trung tại vùng Calabria có lẽ là tổ chức tội phạm mạnh nhất hiện nay tại Ý, chiếm đến 3% GDP toàn quốc. Tuy nhiên, với 0,013 vụ trên 1.000 dân, Ý chỉ có tỷ lệ giết người cao thứ 47 trong một khảo sát gồm 62 quốc gia.
Thực thi pháp luật tại Ý là nhiệm vụ của nhiều lực lượng cảnh sát. Polizia di Stato (cảnh sát nhà nước) là cảnh sát quốc gia dân sự của Ý. Ngoài các nhiệm vụ tuần tra, điều tra và thực thi pháp luật, họ còn tuần tra hệ thống đường cao tốc, giám sát an toàn của đường sắt, cầu và đường thủy. Carabinieri là tên gọi phổ biến của Arma dei Carabinieri, một quân đoàn quân sự giống như hiến binh và họ có các nhiệm vụ cảnh sát. Họ cũng giữ vai trò là quân cảnh của lực lượng vũ trang Ý. Guardia di Finanza (bảo vệ tài chính) là lực lượng nằm dưới quyền của Bộ Kinh tế và Tài chính, có vai trò của lực lượng cảnh sát, chịu trách nhiệm về an toàn tài chính, kinh tế, tư pháp và công cộng. Polizia Penitenziaria (cảnh sát trại cải tạo) điều hành hệ thống nhà tù Ý và quản lý việc vận chuyển tù nhân.
Ngoại giao
Ý là thành viên sáng lập của Cộng đồng châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu, và của NATO. Ý gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1955, và là một thành viên cũng như là bên ủng hộ mạnh mẽ của nhiều tổ chức quốc tế, như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch/Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Ủy hội châu Âu, và Sáng kiến Trung Âu. Ý đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của các tổ chức quốc tế như OSCE vào năm 2018, G8 vào năm 2017 và Hội đồng châu Âu từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2014. Ý cũng là một thành viên không thường trực thường xuyên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, gần đây là vào năm 2017.
Ý ủng hộ mạnh mẽ chính trị quốc tế đa phương, tán thành Liên Hợp Quốc và các hoạt động an ninh quốc tế của tổ chức này. , Ý đã triển khai 5.296 binh sĩ ra bên ngoài, tham gia vào 33 sứ mệnh của Liên Hợp Quốc và NATO tại 25 quốc gia trên thế giới. Ý triển khai quân đến hỗ trợ các sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc tại Somalia, Mozambique, và Đông Timor và cung cấp hỗ trợ cho hoạt động của NATO và Liên Hợp Quốc tại Bosnia, Kosovo và Albania. Ý triển khai 2.000 binh sĩ tại Afghanistan nhằm hỗ trợ Chiến dịch Đảm bảo tự do (OEF) từ tháng 2 năm 2003.
Ý ủng hộ các nỗ lực đa phương nhằm tái thiết và ổn định Iraq, song triệt thoái lực lượng quân đội gồm 3.200 binh sĩ vào năm 2006, chỉ duy trì những người điều hành nhân đạo và các nhân viên dân sự khác, Trong tháng 8 năm 2006, Ý triển khai khoảng 2.450 binh sĩ tại Liban trong sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc. Ý là một trong những bên tài trợ nhiều nhất cho Chính quyền Dân tộc Palestine, đóng góp 60 triệu euro chỉ trong năm 2013.
Quân sự
Các lực lượng vũ trang Ý bao gồm Lục quân, Hải quân, Không quân và Carabinieri, nằm dưới quyền chỉ huy của Hội đồng Quốc phòng Tối cao do Tổng thống chủ trì. Kể từ năm 2005, phục vụ quân đội là việc tự nguyện. Năm 2010, quân đội Ý có 293.202 quân nhân tại ngũ, trong đó 114.778 người thuộc Carabinieri. Tổng chi tiêu quân sự của Ý vào năm 2016 xếp hạng mười một thế giới, với 27,9 tỷ USD, tương đương 1,5% GDP quốc gia. Nằm trong chiến lược chia sẻ hạt nhân của NATO, Hoa Kỳ đưa 90 bom hạt nhân đến Ý, đặt tại các căn cứ không quân Ghedi và Aviano.
Lục quân Ý là lực lượng phòng thủ trên bộ quốc gia, có quân số 109.703 vào năm 2008. Các loại chiến xa được biết đến nhiều nhất của Lục quân Ý là xe chiến đấu bộ binh Dardo, pháo tự hành chống tăng Centauro và xe tăng Ariete, và trong số máy bay của Lục quân Ý có trực thăng chiến đấu Mangusta, trong thời gian qua được triển khai trong các sứ mệnh của EU, NATO và Liên Hợp Quốc. Lục quân Ý cũng bố trí một lượng lớn các loại xe bọc thép Leopard 1 và M-113.
Hải quân Ý vào năm 2008 có 35.200 quân nhân tại ngũ cùng với 85 tàu được biên chế và 123 máy bay. Đây là một lực lượng hải quân có năng lực hoạt động toàn cầu. Trong thời hiện đại, Hải quân Ý tham gia vào nhiều hoạt động gìn giữ hoà bình liên hiệp khắp thế giới. Không quân Ý vào năm 2008 có 43.882 quân nhân, vận hành 585 máy bay, bao gồm 219 máy bay chiến đấu và 114 trực thăng. Năng lực vận chuyển được đảm bảo bằng một phi đội gồm 27 C-130J và C-27J Spartan.
Carabinieri là lực lượng hiến binh và quân cảnh của Ý, giữ trật tự quân sự và dân sự cùng các lực lượng cảnh sát khác. Các nhánh khác nhau của Carabinieri được cho là thuộc các bộ khác nhau trong mỗi chức năng riêng biệt, lực lượng này báo cáo với Bộ Nội vụ khi duy trì trật tự và an ninh công cộng.
Hành chính
Ý được chia thành 20 vùng (regioni), trong đó 5 vùng có vị thế tự trị đặc biệt, cho phép họ có thể ban hành pháp luật về một số vấn đề địa phương của mình. Quốc gia được chia tiếp thành 14 thành phố trung tâm (città metropolitane) và 93 tỉnh (provincia) (đến năm 2016), và chúng lại được chia tiếp thành 8.047 khu tự quản (comuni). Hiến pháp sửa đổi năm 2001 trao thêm nhiều quyền tự chủ cho các vùng, đặc biệt là quyền lập pháp và giảm đáng kể sự can thiệp của trung ương vào công việc của các vùng. Trong tháng 6 năm 2006, cử tri bác bỏ trong trưng cầu dân ý về các đề xuất được cho là sẽ dẫn đến một nhà nước liên bang, với tỷ lệ 61,7% trên 38,3%. Kết quả khác biệt đáng kể giữa các vùng, từ 55,3% ủng hộ tại Veneto đến 82% phản đối tại Calabria. Mỗi vùng có một nghị viện tuyển cử, được gọi là Consiglio Regionale (hội đồng vùng), hoặc Assemblea Regionale tại Sicilia, và một chính quyền gọi là Giunta Regionale (uỷ ban vùng), đứng đầu là một thống đốc gọi là Presidente della Giunta Regionale (chủ tịch uỷ ban vùng) hoặc Presidente della Regione (chủ tịch vùng).
Kinh tế
Ý có kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa, với quy mô lớn thứ ba trong khu vực đồng euro và lớn thứ tám thế giới vào năm 2015. Quốc gia này là một thành viên sáng lập của G7, khu vực đồng euro và OECD. Ý được nhìn nhận là một trong các quốc gia công nghiệp hoá hàng đầu thế giới, và là một quốc gia chủ đạo trong mậu dịch quốc tế. Đây là một quốc gia phát triển cao độ, có chất lượng sinh hoạt cao thứ tám thế giới vào năm 2005 và đứng thứ 26 về chỉ số phát triển con người vào năm 2015. Ý được biết đến với ngành kinh doanh sáng tạo và cải tiến, lĩnh vực nông nghiệp quy mô lớn và cạnh tranh (Ý là nước sản xuất rượu vang lớn nhất thế giới năm 2011), có ảnh hưởng và có chất lượng cao trong các ngành ô tô, máy móc, thực phẩm, thiết kế và thời trang.
Ý là quốc gia sản xuất lớn thứ sáu thế giới, với đặc điểm là có số lượng công ty đa quốc gia ít hơn so với các nền kinh tế khác có quy mô tương đương, và có lượng lớn các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ năng động, tập trung vào một số khu công nghiệp là xương sống của công nghiệp Ý. Khu vực chế tạo thường tập trung vào xuất khẩu thị trường ngách và các sản phẩm xa xỉ, một mặt nó kém năng lực cạnh tranh về số lượng, mặt khác do có sản phẩm chất lượng hơn nên Ý có năng lực hơn trong cạnh tranh với Trung Quốc và các nền kinh tế châu Á mới nổi khác vốn dựa vào chi phí lao động thấp. Ý là nước xuất khẩu lớn thứ bảy thế giới vào năm 2016, các đối tác mậu dịch lớn nhất của Ý là các thành viên khác trong Liên minh châu Âu, chiếm hơn một nửa giao dịch. Các đối tác mậu dịch lớn nhất của Ý trong EU là Đức (12,9%), Pháp (11,4%) và Tây Ban Nha (7,4%) theo dữ liệu năm 2011.. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Ý gồm ô tô (Fiat Group, Aprilia, Ducati, Piaggio), hoá chất, sản phẩm hoá dầu, hàng điện tử (Eni, Enel, Edison), hàng không và công nghệ quốc phòng (Alenia, Agusta, Finmeccanica), vũ khí (Beretta); nhưng các sản phẩm nổi tiếng nhất lại thuộc lĩnh vực thời trang (Armani, Valentino, Versace, Dolce & Gabbana, Benetton, Prada, Gucci, Luxottica), công nghiệp thực phẩm (Barilla Group, Martini & Rossi, Campari, Parmalat), xe hơi hạng sang (Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani) và du thuyền (Ferretti, Azimut).
Ý là bộ phận của thị trường chung châu Âu, một thị trường có trên 500 triệu người tiêu dùng. Một vài chính sách thương mại nội địa được xác định theo các hiệp định giữa các thành viên Liên minh châu Âu và bởi cơ quan lập pháp Liên minh châu Âu. Ý cho lưu hành tiền tệ chung châu Âu là euro vào năm 2002. Khu vực đồng euro có khoảng 330 triệu công dân, chính sách tiền tệ của nó được xác định bởi Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Ý chịu tổn thất rất nặng từ khủng hoảng tài chính 2007–08 và sau đó là khủng hoảng nợ công châu Âu, làm trầm trọng thêm các vấn đề cấu trúc của quốc gia. Thực tế, sau khi tăng trưởng GDP mạnh mẽ 5–6% mỗi năm từ thập niên 1950 đến đầu thập niên 1970, và một cuộc giảm tốc không ngừng trong thập niên 1980-90, quốc gia này gần như đình đốn trong thập niên 2000. Diễn ra các nỗ lực chính trị nhằm khôi phục kinh tế bằng cách chi tiêu công ồ ạt, cuối cùng dẫn đến nợ công tăng vọt, ở mức trên 135% GDP vào năm 2014, xếp thứ hai trong Liên minh châu Âu chỉ sau Hy Lạp (với 174%). Phần lớn nhất trong nợ công Ý thuộc về các chủ nợ người Ý, đây là một khác biệt lớn với Hy Lạp, và mức nợ hộ gia đình thấp hơn nhiều so với mức trung bình của OECD.
Phân chia Nam-Bắc rộng thêm là một yếu tố chính của nhược điểm kinh tế-xã hội Ý. Đáng chú ý là có khác biệt rất lớn về thu nhập theo thống kê giữa các vùng và đô thị miền bắc với miền nam. Vùng giàu nhất là Lombardia đạt được mức GDP bình quân bằng 127% của toàn quốc, còn vùng nghèo nhất là Calabria chỉ đạt 61% Tỷ lệ thất nghiệp của Ý (11,9%) cao hơn đôi chút so với mức trung bình của khu vực đồng euro (2015), song mức trung bình của miền bắc là 7,9% và của miền nam là 20,2%.
Nông nghiệp
Theo điều tra nông nghiệp toàn quốc, Ý có 1,5 triệu trang trại vào năm 2010 (giảm 32,4% từ năm 2000), trên diện tích 12,7 triệu ha (63% thuộc miền nam). Đại đa số (99%) có quy mô gia đình và nhỏ, trung bình chỉ đạt kích thước 8 ha. Trong tổng diện tích mặt đất sử dụng cho nông nghiệp (không tính lâm nghiệp), đồng ruộng lương thực có hạt chiếm 31%, vườn cây ô liu 8,2%, vườn nho 5,4%, vườn cây cam chanh 3,8%, ruộng củ cải đường 1,7%, và làm vườn nhà 2,4%. Phần còn lại chủ yếu dành cho đồng cỏ (25,9%) và lương thực chăn nuôi (11,6%).
Ý là nước sản xuất rượu vang hàng đầu thế giới, và cũng đứng hàng đầu về dầu ô liu, các loại quả (táo, ô liu, nho, cam, chanh tây, lê, cà rốt, hạt phỉ, đào, anh đào, mận mơ, dâu đất và dương đào), và rau (đặc biệt là atisô và cà chua). Các loại rượu vang nổi tiếng nhất của Ý có lẽ là Chianti vùng Toscana và Barolo vùng Piemonte. Các loại rượu vang nổi tiếng khác là Barbaresco, Barbera d'Asti, Brunello di Montalcino, Frascati, Montepulciano d'Abruzzo, Morellino di Scansano, và các loại rượu vang sủi Franciacorta và Prosecco. Các hàng hoá chất lượng chuyên biệt của Ý, đặc biệt là các loại rượu vang đề cập ở trên và các loại pho mát khu vực, thường được bảo hộ dưới nhãn đảm bảo chất lượng DOC/DOP. Chứng nhận chỉ dẫn địa lý này được cho là quan trọng nhằm tránh lẫn lộn với các sản phẩm thế phẩm sản xuất hàng loạt có chất lượng thấp.
Hạ tầng
Năm 2004, lĩnh vực giao thông tại Ý đạt doanh thu khoảng 119,4 tỷ euro, sử dụng 935.700 lao động trong 153.700 doanh nghiệp. Về mạng lưới đường bộ quốc gia, vào năm 2002 có 668.721 km đường có thể sử dụng được tại Ý, trong đó có 6.487 km đường cao tốc, thuộc sở hữu nhà nước song do Atlantia điều hành riêng. Năm 2005, có khoảng 34.667.000 ô tô chở khách (590 xe trên 1.000 dân) và 4.015.000 xe chở hàng lưu thông trên mạng lưới đường bộ quốc gia. Hạn chế tốc độ trong các đô thị thường là 50 km/h và ít phổ biến hơn là 30 km/h. Đường cao tốc đôi đầu tiên trên thế giới khánh thành tại Ý vào năm 1924, nối giữa Milano và Varese. Đến cuối thập niên 1930, trên 400 km đường cao tốc đã được xây dựng trên khắp nước Ý, liên kết các thành phố và thị trấn nông thôn. Hệ thống đường cao tốc (autostrade) của Ý có giới hạn tốc độ tiêu chuẩn là 130 km/h đối với ô tô. Các điều khoản pháp luật cho phép các nhà khai thác xác định giới hạn 150 km/h tại đoạn đường họ được nhượng quyền trên cơ sở tình nguyện nếu đáp ứng một số điều kiện.
Đến năm 2011, tổng chiều dài đường sắt Ý là 19.394 km, trong đó 18.071 km theo khổ tiêu chuẩn và 11.322 km được điện khí hoá. Các tuyến hoạt động tổng cộng dài 16.723 km. Phần lớn mạng lưới đường sắt Ý nằm dưới quyền quản lý và điều hành của Đường sắt Nhà nước Ý (Ferrovie dello Stato Italiane), là công ty quốc doanh. Các cơ quan cấp khu vực khác hầu hết thuộc sở hữu của các thể chế công cộng như chính quyền vùng. Đường sắt tại Ý được chính phủ trợ cấp, nhận được 8,1 tỷ euro vào năm 2009. Các công việc nhằm tăng tốc độ chạy thương mại của đường sắt đã bắt đầu vào năm 1967: Tuyến "siêu trực tiếp" Roma-Firenze" được xây dựng cho các đoàn tàu có tốc độ lên đến 230 km/h, giảm hành trình xuống dưới hai giờ. Đây là tuyến tàu cao tốc đầu tiên được xây dựng tại châu Âu, và bắt đầu hoạt động vào năm 1977. Ngày nay, có thể đi từ Roma đến Milano vòng vòng dưới ba tiếng (2h 55') bằng xe lửa cao tốc thế hệ mới Frecciarossa 1000. Ý có 11 cửa khẩu đường sắt vượt dãy Alpes nối sang các quốc gia láng giềng.
Ý có 2.400 km đường thủy có thể thông hành, thuộc các loại hình giao thông thương mại khác nhau, song hạn chế về tổng giá trị. Tại các vùng Lombardia và Veneto của miền bắc, các tuyến phà hàng ngày hoạt động trên hồ Garda và hồ Como để liên kết các thị trấn và làng mạc hai bên hồ. Các thủy đạo tại Venezia, bao gồm kênh đào lớn, giữ vai trò là mạng lưới giao thông thiết yếu đối với cư dân và du khách. Năm 2004, Ý có khoảng 30 sân bay lớn (bao gồm hai trung tâm Malpensa tại Milano và Leonardo da Vinci tại Roma) và 43 cảng biển lớn (Genova là cảng lớn nhất của Ý và lớn thứ nhì tại Địa Trung Hải). Năm 2005, Ý duy trì một phi đội dân sự khoảng 389.000 đơn vị và một hạm đội 581 tàu.
Ý cần nhập khẩu khoảng 80% nhu cầu năng lượng của mình. Quốc gia này tiêu thụ lượng năng lượng sơ cấp đạt 185 tấn dầu quy đổi vào năm 2010, hầu hết đến từ các nhiên liệu hoá thạch. Trong số các nguồn được dùng nhiều nhất có dầu mỏ (chủ yếu cho giao thông), khí đốt tự nhiên (dùng để phát điện và sưởi ấm), than đá và các nguồn tái tạo. Năng lượng gió và mặt trời phát triển nhanh chóng do được khuyến khích mạnh. Năm 2014, Ý tiêu thụ 291.083 TWh (4.790 kWh/người) điện năng, mức tiêu thụ hộ gia đình là 1.057 kWh/người. Ý là quốc gia nhập khẩu thuần điện năng: Nhập khẩu 46.747,5 GWh và xuất khẩu 3.031,1 GWh vào năm 2014. Tổng sản lượng vào năm 2014 là 279,8 TWh. Các nguồn năng lượng chính là khí đốt và thủy điện. Ý không có năng lượng hạt nhân do bị cấm theo trưng cầu dân ý năm 1987. Tại Toscana đã xây dựng nhà máy địa nhiệt đầu tiên. Năm 2014, sản lượng địa nhiệt là 5,92 TWh. Toàn bộ các nhà máy địa nhiệt của Ý cho đến nay đều nằm tại Toscana.
Ý không đầu tư đủ để duy trì hạ tầng cung cấp nước uống và cải thiện vệ sinh, trong khi thuế nước và vệ sinh thuộc hàng thấp nhất tại Liên minh châu Âu. Luật Galli được thông qua vào năm 1993 nhằm mục tiêu là nâng cao mức đầu tư và nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ bằng cách hợp nhất các nhà cung cấp dịch vụ, khiến chúng có hiệu quả hơn và gia tăng mức thu hồi chi phí thông qua nguồn thu từ thuế. Bất chấp các cải cách này, mức đầu tư suy giảm và vẫn còn xa mới đủ.
Khoa học
Qua nhiều thế kỷ, Ý bồi dưỡng một cộng đồng khoa học có nhiều khám phá lớn về vật lý học và các ngành khoa học khác. Vào thời Phục hưng, các nhà bác học Ý như Leonardo da Vinci (1452–1519), Michelangelo (1475–1564) và Leone Battista Alberti (1404–72) có các đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực, như sinh học, kiến trúc và kỹ thuật. Galileo Galilei (1564–1642) là một nhà vật lý học, toán học và thiên văn học, ông giữ vai trò lớn trong cách mạng khoa học. Thành tựu của ông gồm có cải tiến trọng yếu về kính thiên văn và hoạt động quan sát thiên văn sau đó, cùng chiến thắng chung cuộc của thuyết Kopernik trước thuyết địa tâm.
Các nhà thiên văn học khác như Giovanni Domenico Cassini (1625–1712) và Giovanni Schiaparelli (1835–1910) có nhiều khám phá quan trọng về hệ Mặt trời. Trong toán học, Joseph Louis Lagrange (tên khai sinh là Giuseppe Lodovico Lagrangia, 1736–1813) hoạt động tích cực trước khi rời Ý. Fibonacci (khoảng 1170–1250) và Gerolamo Cardano (1501–76) tạo ra các tiến bộ căn bản trong toán học. Luca Pacioli thiết lập kế toán cho thế giới. Nhà vật lý học Enrico Fermi (1901–54) lãnh đạo một nhóm tại Chicago để phát triển lò phản ứng hạt nhân đầu tiên và cũng nổi tiếng vì nhiều đóng góp khác của ông cho vật lý học, như đồng phát triển thuyết lượng tử và là một trong các nhân vật chủ chốt trong việc tạo ra vũ khí hạt nhân. Ông cùng với Emilio G. Segrè (1905–89, khám phá các nguyên tố tecneti và astatin, và phản proton), Bruno Rossi (1905–93, tiên phong trong bức xạ vũ trụ và thiên văn học tia X) và một số nhà vật lý học Ý bị buộc phải rời khỏi Ý trong thập niên 1930 do các đạo luật phát xít chống người Do Thái.
Các nhà vật lý học nổi bật khác: Amedeo Avogadro (nổi tiếng nhất vì đóng góp vào thuyết phân tử, cụ thể là định luật Avogadro và hằng số Avogadro), Evangelista Torricelli (phát minh áp kế), Alessandro Volta (phát minh pin điện), Guglielmo Marconi (phát minh radio), Ettore Majorana (khám phá hạt Majorana), Carlo Rubbia (lãnh đạo nhóm khám phá các hạt W và Z tại CERN). Về sinh học, Francesco Redi là người đầu tiên thách thức thuyết tự sinh bằng việc chứng minh rằng giòi bắt nguồn từ trứng ruồi và ông miêu tả chi tiết 180 loài ký sinh, Marcello Malpighi thành lập giải phẫu vi mô, Lazzaro Spallanzani tiến hành nghiên cứu quan trọng về các chức năng thân thể, sinh sản động vật, và thuyết tế bào. Camillo Golgi khám phá bộ máy Golgi, mở đường cho việc thừa nhận học thuyết neuron, Rita Levi-Montalcini khám phá hệ số phát triển tế bào thần kinh. Về hoá học, Giulio Natta nhận giải Nobel cho công trình của bà về polyme cao. Giuseppe Occhialini khám phá phân rã pion hoặc pi-meson vào năm 1947. Ennio de Giorgi giải bài toán Bernstein về mặt cực tiểu, và bài toán thế kỷ XIX của Hilbert về quy tắc giải phương trình vi phân riêng phần elip.
Du lịch
Ý tiếp đón 50,7 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2015, đứng thứ năm thế giới. Tổng đóng góp của lữ hành và du lịch vào GDP (bao gồm các tác động lớn hơn về đầu tư, chuỗi cung cấp và thu nhập phát sinh) là 162,7 tỷ euro vào năm 2014 (10,1% GDP) và tạo ra 1.082.000 việc làm trực tiếp vào năm 2014 (4,8% tổng số công việc).
Ý nổi tiếng với các tuyến du lịch văn hoá và môi trường, và sở hữu 53 di sản thế giới tính đến năm 2017, đứng thứ nhất toàn cầu. Milano là thành phố được tham quan nhiều thứ sáu tại châu Âu và thứ 14 thế giới, đón tiếp bình quân 7,65 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2016; còn thủ đô Roma lần lượt xếp thứ 8 và 16, với 7,12 triệu lượt du khách quốc tế. Ngoài ra, Venezia và Firenze cũng nằm trong 100 điểm đến hàng đầu thế giới.
Các cảnh quan được tham quan nhiều nhất tại Ý là Đấu trường La Mã và Quảng trường La Mã, Pompeii, Bảo tàng triển lãm Uffizi, Bảo tàng triển lãm Viện hàn lâm Firenze, Castel Sant'Angelo, Công viên Boboli, Venaria Reale, Bảo tàng Ai Cập Torino, Nhà triển lãm Borghese, Cung điện hoàng gia Caserta, Bảo tàng Cenacolo Vinciano, Villa d'Este, Cung điện Pitti, Các điểm khai quật tại Herculaneum, Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Napoli, Nhà thờ nhỏ Medici, Điểm khai quật và bảo tàng Ostia Antica, Grotta Azzurra (động màu lam), Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Venezia, Hồ Como và Nhà triển lãm mỹ thuật Brera.
Nhân khẩu
Đến cuối năm 2013, Ý có 60.782.668 cư dân. Mật độ dân số là 202 người/km², cao hơn hầu hết các quốc gia Tây Âu. Tuy nhiên, phân bổ dân cư không đồng đều, khu vực dân cư tập trung nhất là thung lũng Po (chiếm gần một nửa dân số toàn quốc) và các vùng đô thị của Roma và Napoli, trong khi các vùng rộng lớn như dãy Alpes và Appennini, các cao nguyên Basilicata và đảo Sardegna có dân cư rất thưa thớt.
Dân số Ý tăng gần gấp đôi trong thế kỷ XX, song mô hình tăng trưởng cực kỳ không đồng đều do di cư nội bộ quy mô lớn từ miền nam (còn mang tính nông thôn) đến các thành phố công nghiệp tại miền bắc, hiện tượng này diễn ra do kết quả của kỳ tích kinh tế Ý thập niên 1950–1960. Tỷ suất sinh và số ca sinh cao duy trì cho đến thập niên 1970, sau đó bắt đầu giảm mạnh, dẫn đến dân số già hoá nhanh chóng. Đến cuối thập niên 2000, một phần năm người Ý trên 65 tuổi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây Ý trải qua tăng trưởng mức sinh đáng kể. Tổng tỷ suất sinh cũng tăng từ mức thấp kỷ lục 1,18 trẻ mỗi phụ nữ vào năm 1995 lên 1,41 vào năm 2008.
Tổng tỷ suất sinh được dự kiến đạt 1,6–1,8 vào năm 2030.
Từ cuối thế kỷ XIX cho đến thập niên 1960, Ý là một quốc gia xuất cư hàng loạt. Giai đoạn từ năm 1898 đến năm 1914 là đỉnh cao của làn sóng người Ý tha hương, với khoảng 750.000 người Ý xuất cư mỗi năm. Có trên 25 triệu người Ý xuất cư và đây được xem là cuộc di cư hàng loạt lớn nhất trong lịch sử đương đại. Ngày nay, có trên 4,1 triệu công dân Ý sống tại nước ngoài, và có ít nhất 60 triệu người hoàn toàn hoặc có một phần nguồn gốc Ý, nhiều nhất là tại Brasil, Argentina và Hoa Kỳ.
Các vùng đô thị lớn
Nhập cư
Năm 2016, tại Ý có khoảng 5,05 triệu cư dân nước ngoài, chiếm 8,3% tổng dân số. Số liệu này bao gồm hơn nửa triệu trẻ em sinh tại Ý của công dân nước ngoài, tức thế hệ di dân thứ hai, song loại trừ những người nước ngoài có được quyền công dân Ý sau đó; Năm 2016, có khoảng 201.000 người nhận được quyền công dân Ý (130.000 vào năm 2014). Số liệu chính thức cũng loại trừ các di dân bất hợp pháp, theo ước tính vào năm 2008 thì con số này ít nhất là 670.000.
Từ đầu thập niên 1980, Ý thay đổi từ một xã hội đồng nhất về ngôn ngữ và văn hoá sang bắt đầu thu hút dòng người di cư nước ngoài với quy mô đáng kể. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, tiếp đến là mở rộng Liên minh châu Âu vào năm 2004 và 2007, đã xuất hiện các làn sóng di cư quy mô lớn đến từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa cũ tại Đông Âu (đặc biệt là Romania, Albania, Ukraina và Ba Lan). Một nguồn di dân cũng quan trọng ngang bằng là các quốc gia Bắc Phi lân cận (đặc biệt là Maroc, Ai Cập và Tunisia), với số lượng tăng vọt do kết quả của Mùa xuân Ả Rập từ năm 2011. Ngoài ra, gần đây ghi nhận gia tăng nhập cư từ châu Á-Thái Bình Dương (đáng chú ý là Trung Quốc và Philippines) và Mỹ Latinh.
Vào năm 2012, có khoảng một triệu công dân Romania (khoảng 10% trong số đó thuộc dân tộc Di-gan) đăng ký cư trú chính thức tại Ý, là quốc gia đứng đầu về lượng người nhập cư, tiếp đến là người Albania và Maroc. Số lượng người Romania không đăng ký khó ước tính được, song vào năm 2007 có nguồn cho rằng con số này có thể là nửa triệu hoặc cao hơn. Tổng cộng, đến cuối thập niên 2000, cư dân Ý sinh tại nước ngoài đến từ: châu Âu (54%), châu Phi (22%), châu Á (16%), châu Mỹ (8%) và châu Đại Dương (0,06%). Phân bổ di dân không đồng đều ở mức độ lớn: 87% di dân sống tại các phần miền bắc và miền trung, trong khi chỉ 13% sống tại nửa phía nam.
Ngôn ngữ
Tiếng Ý là ngôn ngữ chính thức của Ý. Theo ước tính có khoảng 64 triệu người nói tiếng Ý bản ngữ và tổng số người nói tiếng Ý là khoảng 85 triệu, bao gồm những người sử dụng nó như ngôn ngữ thứ hai. Ý có nhiều phương ngữ/ngôn ngữ khu vực;, tuy nhiên việc thiết lập một hệ thống giáo dục quốc gia đã dẫn đến suy giảm tính đa dạng về các ngôn ngữ được nói tại Ý trong thế kỷ XX. Sự tiêu chuẩn hoá được mở rộng hơn vào thập niên 1950 và 1960 do tăng trưởng kinh tế và sự nổi lên của truyền thông đại chúng và truyền hình (đài quốc gia RAI giúp thiết lập tiếng Ý tiêu chuẩn).
12 ngôn ngữ thiểu số lịch sử được công nhận theo pháp lý: Albania, Catalan, Đức, Hy Lạp, Slovenia, Croatia, Pháp, Franco-Provençal, Friuli, Ladin, Occitan và Sardegna (đạo luật số 482 ngày 15 tháng 12 năm 1999). Tiếng Pháp có vị thế đồng chính thức tại Thung lũng Aosta dù trên thực tế tiếng Franco-Provencal được nói phổ biến hơn tại đây. Tiếng Đức có vị thế đồng chính thức tại Nam Tirol, còn tiếng Ladin cũng có địa vị như vậy tại một số nơi của Nam Tirol và tỉnh Trentino láng giềng. Tiếng Slovenia được công nhận chính thức tại các tỉnh Trieste, Gorizia và Udine.
Do nhập cư đáng kể trong thời gian gần đây, một lượng lớn cư dân Ý có bản ngữ không phải là tiếng Ý. Theo Viện Thống kê Quốc gia Ý, tiếng Romania là ngôn ngữ mẹ đẻ phổ biến nhất trong số cư dân nước ngoài tại Ý: Gần 800.000 người nói tiếng Romania như ngôn ngữ thứ nhất (21,9% cư dân nước ngoài từ 6 tuổi trở lên). Các ngôn ngữ mẹ đẻ phổ biến khác là Ả Rập (trên 475.000 người; 13,1% cư dân nước ngoài), Albanian (380.000 người) và Tây Ban Nha (255.000 người). Một số ngôn ngữ nước ngoài khác được nói tại Ý là Ukraina, Hindi, Ba Lan và Tamil.
Tôn giáo
Công giáo La Mã là tôn giáo lớn nhất tại Ý, song không còn là quốc giáo kể từ năm 1985. Năm 2021, tỷ lệ người Ý tự xác định bản thân là tín đồ Cơ Đốc giáo đạt 85,0%. Ý cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn nhất châu Âu với hơn 55 triệu tín hữu.
Tòa Thánh có thẩm quyền đối với giáo phận Roma, gồm có chính phủ trung ương và toàn thể Giáo hội Công giáo La Mã, trong đó có nhiều cơ quan cần thiết cho quản lý. Về phương diện ngoại giao, Toà Thánh được công nhận theo pháp luật quốc tế là một thực thể có chủ quyền, do Giáo hoàng lãnh đạo và ông cũng là giám mục Roma. Dù thường được gọi là "Vatican", song Toà Thánh không phải là thực thể tương tự với nhà nước Thành Vatican vốn chỉ tồn tại từ 1929.
Các tín ngưỡng Cơ Đốc giáo nhỏ tại Ý gồm có Chính thống giáo Đông phương và các cộng đồng Tin Lành khác. Năm 2021, ước tính có hơn 2 triệu tín đồ Chính thống giáo Đông phương tại Ý, chiếm 3,5% dân số; 0,5 triệu tín đồ Ngũ Tuần và Phúc Âm, 235.685 tín đồ Nhân chứng Jehovah, 30.000 tín đồ Hội Thánh Vaudès, 25.000 tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm, 22.000 tín đồ Thánh hữu Ngày sau của Chúa, 15.000 tín đồ Báp-tít, 7,000 tín đồ Luther, 4.000 tín đồ Giám Lý (liên kết với Giáo hội Vaudès).
Một trong các tín ngưỡng tôn giáo thiểu số được có cơ sở lâu nhất tại Ý là Do Thái giáo, người Do Thái hiện diện tại La Mã cổ đại từ trước khi Jesus sinh ra. Trong nhiều thế kỷ, Ý hoan nghênh những người Do Thái bị trục xuất từ các quốc gia khác, đặc biệt là Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do hậu quả của Holocaust, khoảng 20% người Do Thái Ý thiệt mạng. Sự kiện này cùng với di cư diễn ra trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khiến cho chỉ còn lại một cộng đồng Do Thái nhỏ gồm 28.400 người tại Ý.
Đi cùng với nhập cư gia tăng trong các thập niên gần đây là gia tăng các tín ngưỡng phi Cơ Đốc. Năm 2010, có 1,6 triệu người Hồi giáo tại Ý, chiếm 2,6% dân số. Ngoài ra, còn có trên 200.000 tín đồ các tín ngưỡng có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, trong đó có 70.000 tín đồ Sikh giáo với 22 gurdwara khắp nước Ý, 70.000 tín đồ Ấn Độ giáo, và 50.000 tín đồ Phật giáo. Theo ước tính, có 4.900 tín đồ Bahá'í tại Ý vào năm 2005.
Nhằm bảo vệ tự do tôn giáo, nhà nước Ý phân chia phần thuế thu nhập cho các cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức, theo một chế độ gọi là tám phần nghìn (Otto per mille). Các khoản quyên góp được cho phép gửi đến các cộng đồng Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo; tuy nhiên Hồi giáo bị loại trừ vì không có cộng đồng Hồi giáo nào ký giáo ước với nhà nước Ý. Người đóng thuế nếu không muốn tiền của mình tài trợ cho một tôn giáo thì sẽ góp phần của họ cho hệ thống phúc lợi nhà nước.
Giáo dục
Giáo dục tại Ý được miễn phí và là điều bắt buộc đối với trẻ em từ 6 đến 16 tuổi, và gồm có năm cấp: nhà trẻ (scuola dell'infanzia, trước gọi là asilo), trường tiểu học (scuola primaria, trước gọi là scuola elementare), trường sơ trung học (scuola secondaria di primo grado, trước gọi là scuola media), trường cao trung học (scuola secondaria di secondo grado, trước gọi là scuola superiore) và đại học (università).
Giáo dục tiểu học kéo dài trong tám năm, học sinh tiếp nhận giáo dục cơ bản về tiếng Ý, tiếng Anh, toán học, khoa học tự nhiên, lịch sử, địa lý, nghiên cứu xã hội, thể dục, nghệ thuật thị giác và âm nhạc. Giáo dục trung học kéo dài trong 5 năm, gồm ba loại hình trường học theo truyền thống có các mức hàn lâm khác nhau: liceo chuẩn bị cho học sinh học tập tại bậc đại học với các chương trình giảng dạy cổ điển hoặc khoa học, trong khi istituto tecnico và Istituto professionale chuẩn bị cho học sinh giáo dục nghề nghiệp. Năm 2012, giáo dục trung học Ý được đánh giá thấp hơn một chút so với bình quân của OECD, có cải tiến mạnh mẽ và đều đặn về kết quả khoa học và toán học kể từ năm 2003; tuy nhiên có khoảng cách rộng giữa hai miền, trường học tại miền bắc có thành tích tốt hơn đáng kể trung bình toàn quốc (nằm vào hàng tốt nhất thế giới trong một số môn), còn các trường miền nam có kết quả kém hơn nhiều.
Giáo dục đại học tại Ý gồm các đại học công lập, đại học tư thục, cùng các trường cao cấp (Scuola Superiore Universitaria) có danh tiếng và có chọn lọc, chẳng hạn như Scuola Normale Superiore di Pisa. Năm 2019, có 33 trường đại học Italy được xếp hạng trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu thế giới, là số lượng lớn thứ ba ở châu Âu sau Vương quốc Anh và Đức. Đại học Bologna, được thành lập vào năm 1088, là trường đại học lâu đời nhất, cũng như là một trong những cơ sở giáo dục hàng đầu ở Ý và châu Âu. Các trường đại học khác như Bocconi University, Università Cattolica del Sacro Cuore, LUISS, Polytechnic University of Turin, Polytechnic University of Milan, Sapienza University of Rome và University of Pisa cũng được xếp hạng là trong số những trường tốt nhất thế giới.
Y tế
Nhà nước Ý điều hành một hệ thống y tế công cộng phổ quát kể từ năm 1978. Tuy nhiên, y tế được cung cấp cho toàn thể công dân và cư dân theo một hệ thống công-tư hỗn hợp. Khu vực công là Servizio Sanitario Nazionale, được tổ chức dưới quyền Bộ Y tế và được quản lý trên cơ sở phân quyền cấp vùng. Chi tiêu y tế tại Ý chiếm 9,2% GDP toàn quốc vào năm 2012, rất sát bình quân của OECD là 9,3%. Vào năm 2000, Ý được xếp hạng có hệ thống y tế tốt thứ hai thế giới, và thành tích y tế tốt thứ hai thế giới.
Tuổi thọ dự tính của người Ý là 80 năm đối với nam giới và 85 năm đối với nữ giới theo số liệu năm 2016, xếp hạng sáu thế giới. So sánh với các quốc gia phương Tây khác, Ý có mức béo phì người lớn tương đối thấp (dưới 10%), có lẽ là nhờ lợi ích sức khoẻ từ chế độ ăn Địa Trung Hải. Tỷ lệ người hút thuốc lá hàng ngày là 22% vào năm 2012, giảm từ 24,4% vào năm 2000 song vẫn hơn một chút bình quân OECD. Hút thuốc tại các nơi công cộng như quán bar, nhà hàng, câu lạc bộ đêm và văn phòng bị hạn chế trong các phòng thông gió đặc biệt kể từ năm 2005. Năm 2013, UNESCO đưa bữa ăn Địa Trung Hải vào danh sách Danh sách di sản văn hóa phi vật thể của Ý (bên khởi xướng) cùng một số quốc gia khác nằm ven biển Địa Trung Hải.
Văn hoá
Ý trải qua nhiều thế kỷ phân chia về chính trị và địa lý cho đến khi thống nhất vào năm 1861, do đó phát triển một nền văn hoá đặc trưng, được định hình bởi vô số các phong tục khu vực và các trung tâm quyền lực và bảo trợ cấp địa phương. Vào thời Trung cổ và Phục hưng, một số triều đình cạnh tranh để thu hút các kiến trúc sư, nghệ sĩ và học giả giỏi nhất, qua đó sản sinh di sản lớn về các công trình kỷ niệm, hội họa, âm nhạc và văn học.
Ý có 53 di sản thế giới UNESCO tính đến năm 2017, đứng đầu thế giới, và có các bộ sưu tập phong phú về nghệ thuật, văn hoá và văn học từ nhiều giai đoạn khác nhau. Quốc gia này từng cùng với Pháp là 2 trung tâm văn hóa nghệ thuật của thế giới, có ảnh hưởng văn hoá rộng rãi trên thế giới, cũng một phần là do có nhiều người Ý xuất cư sang các quốc gia khác trong làn sóng di dân. Hơn thế, về tổng thể Ý có 100.000 công trình kỷ niệm các thể loại (bảo tàng, cung điện, toà nhà, tượng, nhà thờ, nhà trưng bày nghệ thuật, biệt thự, đài phun nước, nhà lịch sử và tàn tích khảo cổ học).
Kiến trúc
Ý có phong cách kiến trúc rất rộng và đa dạng, không thể chỉ xác định theo giai đoạn mà còn phải theo khu vực, do Ý bị phân chia thành nhiều nhà nước khu vực cho đến năm 1861. Điều này tạo ra tính đa dạng cao độ và phạm vi chiết trung trong thiết kế kiến trúc.
Ý nổi tiếng vì có thành tựu kiến trúc đáng kể, như xây dựng các khung vòm, mái vòm, và các cấu trúc tương tự vào thời La Mã cổ đại, lập nên phong trào kiến trúc Phục hưng vào cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, và là quê hương của kiến trúc Palladio, một phong cách xây dựng truyền cảm hứng cho các phong trào như kiến trúc Tân cổ điển, và ảnh hưởng đến các thiết kế mà giới quý tộc trên khắp thế giới dùng để xây nhà vùng thôn dã của họ, đáng chú ý là tại Anh, Úc và Hoa Kỳ từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Ý có một số công trình tinh tế nhất của kiến trúc phương Tây, như Đấu trường La Mã, Nhà thờ chính tòa Milano, Nhà thờ chính tòa Firenze, Tháp nghiêng Pisa và các thiết kế toà nhà tại Venezia.
Kiến trúc Ý cũng có ảnh hưởng rộng đến kiến trúc thế giới. Kiến trúc sư người Anh Inigo Jones được truyền cảm hứng từ thiết kế của các toà nhà và thành thị Ý, đã đưa các ý tưởng kiến trúc Phục hưng Ý về nước Anh thế kỷ XVII, lấy cảm hứng từ Andrea Palladio. Ngoài ra, kiến trúc Italianate (kiểu Ý) phổ biến ở nước ngoài kể từ thế kỷ XIX, được sử dụng để mô tả công trình kiến trúc tại nước ngoài được xây theo một phong cách Ý, đặc biệt là phỏng theo kiến trúc Phục hưng.
Nghệ thuật thị giác
Lịch sử nghệ thuật thị giác Ý là bộ phận quan trọng của lịch sử hội họa phương Tây. Mỹ thuật La Mã chịu ảnh hưởng từ Hy Lạp và phần nào có thể cho là một hậu duệ của hội họa Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, hội họa La Mã có các đặc trưng độc đáo quan trọng. Các bức hoạ La Mã duy nhất còn lại là các bức tranh tường, nhiều tác phẩm là trong các biệt thự tại vùng Campania thuộc miền nam. Các bức tranh này có thể nhóm thành bốn "phong cách" hoặc giai đoạn chính và có thể bao gồm các mẫu đầu tiên về trompe-l'œil (đánh lừa thị giác), giả phối cảnh, và cảnh quan thuần tuý.
Tranh bảng trở nên phổ biến hơn trong giai đoạn Romanesque, chịu ảnh hưởng mạnh của hình tượng Byzantine. Vào khoảng giữa thế kỷ XIII, mỹ thuật Trung cổ và hội họa Gothic trở nên hiện thực hơn, khi bắt đầu quan tâm đến miêu tả thể tích và phối cảnh tại Ý với Cimabue và sau đó là học trò của ông, Giotto. Từ thời Giotto trở đi, đối với sáng tác, các họa sĩ giỏi nhất cũng trở nên tự do và sáng tạo hơn nhiều. Họ được nhìn nhận là hai đại sư phụ Trung cổ về hội họa trong văn hoá phương Tây.
Thời kỳ Phục hưng Ý được nhiều người cho là thời đại hoàng kim của hội họa; đại khái trải dài từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII với ảnh hưởng đáng kể vượt ra ngoài biên giới nước Ý hiện đại. Các họa sĩ Ý như Paolo Uccello, Fra Angelico, Masaccio, Piero della Francesca, Andrea Mantegna, Filippo Lippi, Giorgione, Tintoretto, Sandro Botticelli, Leonardo da Vinci, Michelangelo Buonarroti, Raffaello, Giovanni Bellini và Tiziano Vecelli đưa hội họa lên tầm cao hơn thông qua sử dụng phối cảnh, nghiên cứu giải phẫu và cân xứng của con người, và thông qua đó họ phát triển một sự tinh tế chưa từng có trong các kỹ thuật vẽ và sơn. Michelangelo là một nhà điêu khắc tích cực từ khoảng 1500 đến 1520, các đại kiệt tác của ông gồm có David, Pietà, Moses. Các nhà điêu khắc Phục hưng nổi tiếng khác gồm Lorenzo Ghiberti, Luca Della Robbia, Donatello, Filippo Brunelleschi và Andrea del Verrocchio.
Trong các thế kỷ XV và XVI, Phục hưng toàn thịnh dẫn đến nổi lên một kiểu mỹ thuật cách điệu được gọi là trường phái kiểu cách. Thay cho bố trí cân bằng và tiếp cận hợp lý về phối cảnh, những người kiểu cách tìm kiếm tính ổn định, tinh xảo, và hồ nghi. Khuôn mặt và điệu bộ không lo sợ của Piero della Francesca và Các trinh nữ của Raffaello điềm tĩnh bị thay thế bằng biểu cảm lo lắng của Pontormo và cường độ cảm xúc của El Greco. Trong thế kỷ XVII, trong số các họa sĩ vĩ đại nhất của Baroque Ý có Caravaggio, Annibale Carracci, Artemisia Gentileschi, Mattia Preti, Carlo Saraceni và Bartolomeo Manfredi. Sang thế kỷ XVIII, Rococo Ý chủ yếu lấy cảm hứng từ Rococo Pháp, do Pháp là quốc gia sáng lập phong cách đặc thù này, với các nghệ sĩ như Giovanni Battista Tiepolo và Canaletto. Điêu khắc tân cổ điển Ý tập trung vào các khía cạnh duy tâm của phong trào, với các tượng khoả thân của Antonio Canova.
Trong thế kỷ XIX, các họa sĩ lớn của phong cách lãng mạn Ý là Francesco Hayez, Giuseppe Bezzuoli và Francesco Podesti. Trường phái ấn tượng được đưa từ Pháp sang Ý bởi nhóm Macchiaioli, dẫn đầu là Giovanni Fattori và Giovanni Boldini; trường phái hiện thực bởi Gioacchino Toma và Giuseppe Pellizza da Volpedo. Trong thế kỷ XX, với chủ nghĩa vị lai chủ yếu thông qua các tác phẩm của Umberto Boccioni và Giacomo Balla, Ý lại nổi lên thành một quốc gia sản sinh tiến hoá mỹ thuật trong hội họa và điêu khắc. Chủ nghĩa vị lai thành công nhờ các bức họa trừu tượng của Giorgio de Chirico, ông có ảnh hưởng mạnh đến chủ nghĩa siêu thực và các thế hệ nghệ sĩ đi theo.
Văn học và sân khấu
Văn học Ý bắt đầu sau khi thành lập Roma vào năm 753 TCN. Văn học Roma hay Latinh, đã và vẫn có ảnh hưởng cao độ trên thế giới, với nhiều nhà văn, nhà thơ, triết gia và sử gia, như là Pliny Già, Pliny Trẻ, Vergilius, Horace, Propertius, Ovidius và Livius. Người La Mã cũng nổi tiếng vì truyền thống truyền khẩu, thơ, kịch và ngữ lục. Trong những năm đầu của thế kỷ XIII, Francesco d'Assisi được các nhà phê bình văn học nhìn nhận là nhà thơ Ý đầu tiên, với bài ca tôn giáo Khúc ca Mặt trời.
Một tiếng nói khác của Ý bắt nguồn tại Sicilia. Trong triều đình của Hoàng đế Friedrich II, là người cai trị Vương quốc Sicilia trong nửa đầu thế kỷ XIII, thơ trữ tình phỏng theo các thể thức và đề tài Provençal được viết bằng một phiên bản tinh tế của thổ ngữ địa phương. Quan trọng nhất trong các nhà thơ này là Giacomo da Lentini, ông phát minh thể thơ sonnet, song tác giả sonnet nổi tiếng nhất thời kỳ đầu là Petrarca.
Guido Guinizelli được cho là người lập ra Dolce Stil Novo, trường phái này đã đưa thêm một chiều hướng triết học vào thơ tình truyền thống. Sự thấu hiểu tình yêu mới này, biểu thị bằng một phong cách êm dịu, thanh khiết, có ảnh hưởng đến Guido Cavalcanti và nhà thơ Firenze Dante Alighieri, Dante là người lập cơ sở cho tiếng Ý hiện đại; tác phẩm vĩ đại của ông là Thần khúc, được nhận định nằm trong các tác phẩm văn học lỗi lạc nhất được sáng tác tại châu Âu vào thời Trung cổ. Hơn nữa, nhà thơ còn phát minh thể thơ khó terza rima.
Hai nhà văn vĩ đại nhất trong thế kỷ XIV là Francesco Petrarca và Giovanni Boccaccio tìm ra và phỏng theo các tác phẩm thời cổ đại, và tu dưỡng nhân cách nghệ thuật của mình. Petrarca đạt được danh tiếng thông qua bộ sưu tập thơ Il Canzoniere. Thơ tình của Petrarca giữ vai trò làm mẫu trong nhiều thế kỷ. Có ảnh hưởng ngang bằng là Decameron của Boccaccio, là một trong các bộ sưu tập phổ biến nhất về truyện ngắn từng được viết.
Các tác giả Phục hưng Ý sáng tác một số tác phẩm quan trọng, Quân Vương của Niccolò Machiavelli là một trong các bài tiểu luận nổi tiếng nhất thế giới về khoa học chính trị và triết học hiện đại, trong đó lẽ phải thực sự quan trọng hơn bất kỳ tư tưởng trừu tượng nào. Tác phẩm quan trọng khác của giai đoạn này là Orlando Furioso của Ludovico Ariosto, phần mở rộng của tác phẩm lãng mạn còn dở dang Orlando Innamorato của Matteo Maria Boiardo, có lẽ là bài thơ có tinh thần thượng võ vĩ đại nhất từng được viết. Tác phẩm đối thoại Il Cortegiano của Baldassare Castiglione mô tả tư tưởng của quý ông triều đình hoàn hảo và của vẻ đẹp tâm hồn. Nhà thơ trữ tình Torquato Tasso trong La Gerusalemme liberata viết một sử thi Cơ Đốc giáo, sử dụng thể thức ottava rima, chú ý đến các quy tắc đồng nhất của Aristoteles.
Giovanni Francesco Straparola và Giambattista Basile lần lượt sáng tác Le piacevoli notti (1550–1555) và Lo cunto de li cunti/Pentamerone (1634), họ cho in một số bản truyện cổ tích đầu tiên được biết đến tại châu Âu. Vào đầu thế kỷ XVII, một số kiệt tác văn học được tạo ra, như bài thơ thần thoại kéo dài L'Adone của Giambattista Marino. Giai đoạn Baroque cũng sản sinh văn xuôi khoa học dễ hiểu của Galileo, cũng như La città del Sole (thành phố Mặt trời) của Tommaso Campanella mô tả về một xã hội hoàn hảo do triết gia-tu sĩ cai trị. Đến cuối thế kỷ XVII, các viện sĩ Arcadia bắt đầu một phong trào nhằm khôi phục tính đơn giản và tính giản dị cổ điển cho thơ, như trong các vở kịch melo của Metastasio. Đến thế kỷ XVIII, nhà soạn kịch Carlo Goldoni tạo ra các vở kịch đầy kịch tính, nhiều vở phác hoạ tầng lớp trung lưu đương thời.
Chủ nghĩa lãng mạn trùng hợp với một số tư tưởng của Risorgimento- phong trào ái quốc có kết quả là thống nhất về chính trị và tự do cho Ý khỏi sự chi phối của ngoại bang. Các nhà văn Ý đi theo chủ nghĩa lãng mạn vào đầu thế kỷ XIX. Thống nhất nước Ý được báo trước bởi các nhà thơ Vittorio Alfieri, Ugo Foscolo và Giacomo Leopardi. I promessi sposi (phối ngẫu hứa hôn) của nhà văn lãng mạn hàng đầu tại Ý Alessandro Manzoni là tiểu thuyết lịch sử Ý đầu tiên ca ngợi các giá trị Cơ Đốc giáo về tư pháp và Thượng đế, và nó được cho là tiểu thuyết bằng tiếng Ý nổi tiếng nhất và được đọc nhiều nhất.
Đến cuối thế kỷ XIX, một phong trào văn học hiện thực mang tên Verismo giữ một vai trò lớn trong văn học Ý; Giovanni Verga và Luigi Capuana là các nhân tố chính. Trong cùng giai đoạn, Emilio Salgari viết các tác phẩm phiêu lưu hành động và là một nhà tiên phong về khoa học viễn tưởng, ông cho phát hành loạt tiểu thuyết Sandokan về một kẻ cướp biển hư cấu trên khắp biển Đông. Một phong trào gọi là chủ nghĩa vị lai ảnh hưởng đến văn học Ý vào đầu thế kỷ XX. Filippo Tommaso Marinetti viết Manifesto del Futurismo (tuyên ngôn chủ nghĩa vị lai), kêu gọi sử dụng ngôn ngữ và phép ẩn dụ để tôn vinh tốc độ, tính năng động, và tính mãnh liệt của thời kỳ máy móc.
Các nhân vật văn học hiện đại là Gabriele D'Annunzio, nhà thơ dân tộc chủ nghĩa Giosuè Carducci đoạt giải Nobel năm 1906, nhà văn hiện thực Grazia Deledda đoạt giải Nobel năm 1926, tác giả sân khấu hiện đại Luigi Pirandello vào năm 1936, nhà văn truyện ngắn Italo Calvino vào năm 1960, các nhà thơ Salvatore Quasimodo vào năm 1959 và Eugenio Montale vào năm 1975, Umberto Eco vào năm 1980, và tác giả trào phúng và sân khấu Dario Fo vào năm 1997. Tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio năm 1883 của Carlo Collodi là tác phẩm cổ điển cho thiếu nhi nổi danh nhất của một tác giả Ý và là sách phi tôn giáo được dịch nhiều nhất trên thế giới. Các triết gia Ý xuất sắc gồm có Cesare Beccaria, Giordano Bruno, Benedetto Croce, Marsilio Ficino và Giambattista Vico.
Sân khấu Ý có nguồn gốc từ truyền thống La Mã và nó lại chịu ảnh hưởng mạnh từ người Hy Lạp; giống nhiều thể loại văn học khác, các nhà soạn kịch La Mã có xu hướng phỏng theo và dịch lại từ người Hy Lạp. Chẳng hạn, Phaedra của Seneca dựa trên tác phẩm của Euripides, và nhiều hài kịch của Plautus là bản dịch trực tiếp từ các tác phẩm của Menander. Trong thế kỷ XVI và vào đến thế kỷ XVIII, Commedia dell'arte là một thể loại sân khấu ứng tác, và vẫn được trình diễn cho đến nay. Các đoàn kịch rong sẽ dựng một sân khấu ngoài trời và tạo ra sự thích thú bằng các hình thức tung hứng, nhào lộn, và đặc trưng hơn là các vở kịch hài hước dựa trên trình diễn của một nhân vật, gọi là canovaccio.
Âm nhạc
Từ dân gian cho đến cổ điển, âm nhạc luôn giữ một vai trò quan trọng trong văn hoá Ý. Các nhạc cụ gắn với âm nhạc cổ điển như piano và violon được phát minh tại Ý, và nhiều thể loại âm nhạc cổ điển đang thịnh hành như giao hưởng, concerto và sonata có thể truy nguồn gốc đến các phát kiến của âm nhạc Ý thế kỷ XVI và XVII.
Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của Ý gồm có các nhà soạn nhạc thời Phục hưng (thế kỷ XV–XVII) Palestrina và Monteverdi, các nhà soạn nhạc thời Baroque (1600–1760) Scarlatti, Corelli và Vivaldi, các nhà soạn nhạc thời cổ điển (1730–1820) Paganini và Rossini, và các nhà soạn nhạc thời lãng mạn (1815–1910) Verdi và Puccini. Các nhà soạn nhạc hiện đại của Ý như Berio và Nono đã chứng tỏ vị thế quan trọng trong phát triển âm nhạc thể nghiệm và điện tử. Truyền thống âm nhạc cổ điển vẫn có vị thế mạnh tại Ý, minh chứng là danh tiếng của vô số các nhà hát opera như La Scala tại Milano và San Carlo tại Napoli, và các nghệ sĩ trình diễn như nghệ sĩ piano Maurizio Pollini và sau này là giọng nam cao Luciano Pavarotti, song người Ý cũng được tán thưởng không kém về phát triển sân khấu âm nhạc đương đại.
Ý nổi tiếng trong vai trò là nơi khai sinh của opera. Opera Ý được cho là hình thành vào đầu thế kỷ XVII, tại các thành phố như Mantova và Venezia. Về sau, các tác phẩm và các vở opera được soạn ra bởi các nhà soạn nhạc người Ý bản địa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, như Rossini, Bellini, Donizetti, Verdi và Puccini, nằm vào hàng nổi tiếng nhất từng được viết và hiện nay chúng được trình diễn trong các nhà hát opera khắp thế giới. Nhà hát opera La Scala tại Milano nổi danh khi nằm vào hàng xuất sắc nhất thế giới. Các ca sĩ opera Ý nổi tiếng gồm có Enrico Caruso và Alessandro Bonci.
Jazz được truyền sang Ý vào đầu thập niên 1920, nó có được chỗ đứng rất mạnh mẽ tại Ý, và vẫn phổ biến bất chấp các chính sách bài ngoại của chế độ phát xít. Ngày nay, các trung tâm nổi tiếng nhất về nhạc jazz tại Ý là Milano, Roma và Sicilia. Sau đó, Ý đi tiên phong về phong trào progressive rock và pop vào thập niên 1970, có các ban nhạc như PFM, Banco del Mutuo Soccorso, Le Orme, Goblin và Pooh. Trong giai đoạn này cũng diễn ra đa dạng hoá điện ảnh Ý, và các phim của xưởng Cinecittà có các bản dàn bè phức hợp của các nhà soạn nhạc như Ennio Morricone. Sân khấu hip hop Ý bắt đầu vào đầu thập niên 1990 với bộ đôi Articolo 31, chủ yếu chịu ảnh hưởng của East Coast rap.
Ý cũng là một quốc gia quan trọng trong quá trình phát triển của disco và nhạc điện tử, disco Ý có đặc điểm là âm thanh vị lai và sử dụng thường xuyên synthesiser và trống máy, là một trong các thể loại nhạc nhảy điện tử sớm nhất, cùng với các dạng châu Âu của disco ngoài Euro disco ra (về sau ảnh hưởng đến một số thể loại như Eurodance và Nu-disco). Các DJ và remixer nổi tiếng của Ý gồm Benny Benassi, Gigi D'Agostino, và Gabry Ponte, thành viên của nhóm Eiffel 65.
Các nhà sản xuất như Giorgio Moroder, người từng thắng ba giải Oscar, có ảnh hưởng lớn đến bước phát triển của nhạc dance điện tử. Ngày nay, nhạc pop Ý được biểu diễn thường niên trong Nhạc hội Sanremo, có vai trò là nguồn cảm hứng cho cuộc tranh tài ca hát Eurovision, và Lễ hội Hai thế giới tại Spoleto. Các ca sĩ như Mina, Andrea Bocelli, Laura Pausini, Eros Ramazzotti và Tiziano Ferro được quốc tế tôn vinh.
Điện ảnh
Lịch sử điện ảnh Ý bắt đầu một vài tháng sau khi anh em nhà Lumière bắt đầu các cuộc triển lãm hình ảnh động. Bộ phim đầu tiên của Ý kéo dài trong vài giây, thể hiện Giáo hoàng Leo XIII ban phúc cho máy quay. Ngành điện ảnh Ý ra đời trong khoảng giữa năm 1903 và 1908 với ba công ty: Società Italiana Cines, Ambrosio Film và Itala Film. Các công ty khác nhanh chóng tiếp bước tại Milano và tại Napoli. Trong một thời gian ngắn, các công ty đầu tiên này đạt được chất lượng sản phẩm khá, và các bộ phim nhanh chóng được bán ra bên ngoài nước Ý. Điện ảnh sau đó được Benito Mussolini sử dụng, ông cho lập xưởng phim Cinecittà trứ danh tại Roma để sản xuất phim tuyên truyền phát xít cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh, điện ảnh Ý được công nhận và được xuất khẩu rộng rãi cho đến khi xảy ra một cuộc suy thoái nghệ thuật khoảng thập niên 1980. Các đạo diễn phim Ý nổi tiếng trong giai đoạn này gồm có Vittorio De Sica, Federico Fellini, Sergio Leone, Pier Paolo Pasolini, Luchino Visconti, Michelangelo Antonioni, Ettore Scola và Roberto Rossellini; Fellini được công nhận là một trong các nhà làm phim vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Các bộ phim quý báu phải kể đến như Ladri di biciclette (kẻ trộm xe đạp), La dolce vita (cuộc sống ngọt ngào), 8½, Il buono, il brutto, il cattivo (Thiện, ác, tà) và C'era una volta il West (Thuở ấy ở miền Viễn Tây). Giữa thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950 là thời cực thịnh của phim tân hiện thực, phản ánh điều kiện yếu kém của nước Ý thời hậu chiến.
Do Ý phát triển thịnh vượng hơn vào thập niên 1950, một dạng tân hiện thực gọi là tân hiện thực màu hồng được tiếp bước, sau đó là các thể loại phim khác như "gươm và dép/peplum" với các phim cao bồi Ý, chúng phổ biến trong các thập niên 1960 và 1970. Các diễn viên như Sophia Loren, Giulietta Masina và Gina Lollobrigida trở thành ngôi sao điện ảnh quốc tế trong giai đoạn này. Các câu chuyện tình ái giật gân kiểu Ý, còn gọi là giallo, được sản xuất bởi các đạo diễn như Mario Bava và Dario Argento trong thập niên 1970, chúng cũng ảnh hưởng đến thể loại kinh dị trên thế giới. Trong những năm gần đây, màn ảnh Ý chỉ thỉnh thoảng mới được quốc tế chú ý, với các bộ phim như La vita è bella (Cuộc sống tươi đẹp) của đạo diễn Roberto Benigni, Il Postino (người đưa thư) với Massimo Troisi, La grande bellezza (Đời sống thượng lưu) của đạo diễn Paolo Sorrentino và Call Me by Your Name của Luca Guadagnino
Xưởng phim Cinecittà hiện là cơ sở sản xuất phim và truyền hình lớn nhất tại châu Âu lục địa và là trung tâm của điện ảnh Ý, là nơi sản xuất một lượng lớn phim bán vé chạy nhất tại Ý, và là một trong các cộng đồng sản xuất phim lớn nhất thế giới. Trong thập niên 1950, một số tác phẩm quốc tế được sản xuất tại xưởng phim này khiến cho Roma được mệnh danh là "Hollywood trên dòng Tevere". Xưởng tham gia sản xuất trên 3.000 tác phẩm, trong đó 90 phim được đề cử một giải Oscar và 47 phim đã chiến thắng, từ một số tác phẩm kinh điển điện ảnh đến các phim đoạt giải gần đây (như Ben-Hur, Cleopatra, Romeo và Juliet, The English Patient (Bệnh nhân người Anh), Gladiator (Võ sĩ giác đấu), The Passion of the Christ (Cuộc thương khó của Giêsu) và Gangs of New York) (Băng đảng New York).
Ý là quốc gia nhận được nhiều giải nhất trong hạng mục phim ngoại ngữ hay nhất của giải Oscar, từng thắng 14 giải, 3 giải đặc biệt và 31 đề cử. Tính đến năm 2016, các phim Ý cũng từng giành được 12 giải Cành cọ vàng của Liên hoan phim Cannes (đứng thứ hai), 11 giải Sư tử vàng và 7 giải Gấu vàng.
Thể thao
Môn thể thao phổ biến vượt trội tại Ý là bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý (biệt danh Gli Azzurri – "Thiên thanh") nằm trong số các đội tuyển thành công nhất thế giới với bốn chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới (1934, 1938, 1982 và 2006). Các câu lạc bộ của Ý xếp thứ hai châu lục về số cúp châu Âu giành được. Giải bóng đá câu lạc bộ hạng cao nhất của Ý là Serie A, giải được xếp hạng tốt thứ tư tại châu Âu và có hàng triệu người hâm mộ khắp thế giới theo dõi.
Các môn thể thao đồng đội phổ biến khác tại Ý bao gồm bóng chuyền, bóng rổ và rugby. Các đội tuyển bóng chuyền quốc gia Ý của nam và nữ thường được đánh giá nằm vào hàng mạnh nhất thế giới. Thành tích tốt nhất của đội tuyển bóng rổ quốc gia Ý là huy chương vàng tại giải vô địch châu Âu năm 1983 và 1999, và huy chương đồng tại Thế vận hội năm 2004. Lega Basket Serie A được nhận định rộng rãi là một trong các giải đấu cạnh tranh nhất tại châu Âu. Rugby union có mức phổ biến cao, đặc biệt là tại miền bắc, đội tuyển quốc gia của Ý tranh tài tại giải vô địch Sáu nước, và thường xuyên thi đấu tại giải rugby thế giới. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Ý từng giành được ba giải vô địch thế giới trong ba kỳ liên tiếp 1990, 1994 và 1998 và từng giành ba huy chương bạc tại Thế vận hội năm 1996, 2004, 2016.
Ý cũng có truyền thống lâu dài và thành công trong các môn thể thao cá nhân. Đua xe đạp là môn thể thao rất quen thuộc tại đây. Ý là nước giành chiến thắng nhiều thứ hai sau Bỉ trong giải vô địch thế giới UCI. Giro d'Italia là một giải đua xe đạp được tổ chức vào tháng 5 hàng năm, đây là một trong ba giải lớn cùng với Tour de France và Vuelta a España, mỗi giải kéo dài khoảng ba tuần. Trượt tuyết đổ dốc cũng rất phổ biến tại Ý, và quốc gia Nam Âu này là một điểm trượt tuyết phổ biến quốc tế, với các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết. Các vận động viên trượt tuyết của Ý đạt được thành tích tốt tại Thế vận hội Mùa đông, Giải vô địch trượt tuyết đổ đèo thế giới, và Giải vô địch thế giới. Có nhiều người Ý đi theo môn quần vợt, đây là môn thể thao được chơi nhiều thứ tư trong nước. Ý Mở rộng hình thành vào năm 1930 và là một trong các giải đấu quần vợt danh giá nhất thế giới. Các vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Ý từng vô địch Davis Cup vào năm 1976 và Fed Cup vào năm 2006, 2009, 2010 và 2013. Đua xe cũng là môn thể rất phổ biến tại Ý, các tay đua moto của quốc gia này vượt trội về số lần vô địch MotoGP. Scuderia Ferrari của Ý là đội đua lâu năm nhất, cũng là đội đua có số lần vô địch giải Công thức 1 nhiều nhất.
Ý có lịch sử thành công tại Thế vận hội, tham gia đại hội từ kỳ đầu tiên và góp mặt trong 47/48 lần tổ chức. Tính đến năm 2016, Các vận động viên Ý giành được 577 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa hè, và 114 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa đông, tổng cộng đạt 691 huy chương với 243 huy chương vàng, xếp thứ 6 về tổng số huy chương. Ý từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960 tại Roma, Thế vận hội Mùa đông 1956 tại Cortina d'Ampezzo, Thế vận hội Mùa đông 2006 tại Torino và sắp tới sẽ tổ chức Thế vận hội Mùa đông 2026 tại Milano và Cortina d'Ampezzo.
Thời trang
Thời trang Ý có truyền thống lâu dài, và được nhìn nhận thuộc vào hàng quan trọng và nổi tiếng nhất thế giới. Milano, Firenze và Roma là các thủ phủ thời trang lớn của Ý. Theo xếp hạng năm 2013 của Global Language Monitor, Roma xếp thứ sáu toàn cầu còn Milano xếp thứ 12. Một số nhãn hiệu thời trang lớn của Ý là Gucci, Armani, Prada, Versace, Dolce & Gabbana, cùng các nhãn hiệu khác chúng được đánh giá là nằm trong số các hãng thời trang tinh tế nhất trên thế giới. Tạp chí thời trang Vogue Italia được cho là một trong các tạp chí thời trang có danh tiếng nhất trên thế giới.
Ý cũng xuất sắc trong lĩnh vực thiết kế, đáng chú ý là thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế công nghiệp và thiết kế đô thị. Quốc gia này sản sinh một số nhà thiết kế nội thất nổi tiếng như Gio Ponti và Ettore Sottsass, và các cụm từ tiếng Ý như "Bel Disegno" và "Linea Italiana" đã gia nhập từ vựng của ngành thiết kế nội thất. Máy giặt và tủ lạnh của Zanussi là các ví dụ về hàng hoá trắng và nội thất cổ điển của Ý, hay là sofa "New Tone" của Atrium, và tủ sách kiểu hậu hiện đại của Ettore Sottsass, lấy cảm hứng từ bài hát "Stuck Inside of Mobile with the Memphis Blues Again" của Bob Dylan. Ngày nay, Milano và Torino là các thành phố đứng đầu toàn quốc về thiết kế kiến trúc và thiết kế công nghiệp. Milano có hội chợ thiết kế lớn nhất châu Âu mang tên là Fiera Milano. Milano cũng có các sự kiện và địa điểm thiết kế và liên quan đến kiến trúc với quy mô lớn, như "Fuori Salone" và Salone del Mobile, và là nơi sinh sống của các nhà thiết kế như Bruno Munari, Lucio Fontana, Enrico Castellani và Piero Manzoni.
Ẩm thực
Ẩm thực Ý phát triển qua nhiều thế kỷ biến động về xã hội và chính trị, có nguồn gốc từ thế kỷ IV TCN. Bản thân ẩm thực Ý chịu ảnh hưởng mạnh từ ẩm thực Etrusca, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Byzantine và Do Thái. Các biến đổi đáng kể diễn ra cùng với sự kiện khám phá Tân thế giới, khi có nhiều mặt hàng được truyền đến Ý như khoai tây, cà chua, ớt chuông và ngô, ngày nay chúng là trung tâm của ẩm thực Ý song từ thế kỷ XVIII về trước vẫn chưa đủ số lượng. Ẩm thực Ý được chú ý do có tính đa dạng vùng miền, nhiều khác biệt về vị, và được cho là một trong các nền ẩm thực phổ biến nhất thế giới, có ảnh hưởng mạnh ở nước ngoài.
Các dạng đồ ăn Địa Trung Hải là cơ sở của ẩm thực Ý, phong phú về mì ống, cá, rau quả và có đặc trưng là cực kỳ đơn giản và đa dạng, nhiều món ăn chỉ có bốn đến tám nguyên liệu. Quá trình nấu nướng của người Ý dựa chủ yếu vào chất lượng của nguyên liệu thay vì chuẩn bị công phu. Các món ăn và công thức chế biến thường bắt nguồn từ truyền thống địa phương và gia đình thay vì được các đầu bếp tạo ra, do đó nhiều phương pháp thích hợp cho nấu nướng tại nhà, đây là một trong các lý do chính đằng sau việc ẩm thực Ý ngày càng phổ biến trên toàn cầu, từ châu Mỹ đến châu Á. Các nguyên liệu và món ăn biến đổi nhiều theo khu vực.
Một yếu tố chủ chốt cho thành công của ẩm thực Ý là nó phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm truyền thống; Ý có nhiều đặc sản truyền thống nhất được bảo hộ theo pháp luật Liên minh châu Âu. Pho mát, salumi và rượu vang là các bộ phận chính của ẩm thực Ý, với nhiều biến hoá theo khu vực và chỉ dẫn bảo hộ địa lý, và cùng với cà phê (đặc biệt là espresso) tạo thành một phần rất quan trọng của văn hoá sành ăn Ý. Các món tráng miệng có truyền thống lâu dài trong việc kết hợp các hương vị địa phương như cam chanh, hồ trăn và hạnh đào với các loại pho mát ngọt như mascarpone và ricotta hoặc các vị ngoại lai như cacao, vani, quế. Gelato, tiramisu và cassata nằm trong số các món tráng miệng và bánh ngọt nổi tiếng nhất của Ý.
Xem thêm
Lịch sử Ý
Văn hóa Ý
Ẩm thực Ý
Chú thích
Đọc thêm
Hibberd, Matthew. The media in Italy (McGraw-Hill International, 2007)
Sarti, Roland, ed. Italy: A reference guide from the Renaissance to the present (2004)
Sassoon, Donald. Contemporary Italy: politics, economy and society since 1945 (Routledge, 2014)
Liên kết ngoài
Trang thông tin chính phủ
Trang chính thức của Nghị viện Ý
Trang chính thức của Tổng thống Ý
Giáo dục bậc cao tại Ý cho sinh viên quốc tế
Các công viên quốc gia và khu vực tại Ý
Trang du lịch chính thức của Ý
Trang tin của Bộ Kinh tế và Tài chính
Ý trên BBC News
Ý trên UCB Libraries GovPubs
Ý trên Encyclopædia Britannica
Ý tại trang thông tin của OECD
Ý trên trang thông tin của Liên minh châu Âu
Key Dự báo phát triển cho Ý từ International Futures
Quốc gia Nam Âu
Cộng hòa
Quốc gia thành viên NATO
Quốc gia G7
Thành viên G20
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia G8
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ý
Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải
Quốc gia và vùng lãnh thổ Rôman
|
25197
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ukraina
|
Ukraina
|
Ukraina (phát âm tiếng Việt: U-crai-na; , ) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu. Ukraina giáp với Nga về phía Đông, Belarus về phía Bắc, Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây, România và Moldova về phía Tây Nam và biển Đen cùng biển Azov về phía Nam. Thủ đô là thành phố Kyiv.
Ukraina bao gồm 24 tỉnh, một nước Cộng hòa tự trị (Krym) và hai thành phố có địa vị pháp lý đặc biệt là thủ đô Kiev và Sevastopol. Ukraina theo thể chế cộng hòa tổng thống.
Lịch sử Ukraina bắt đầu từ khoảng thế kỷ IX của Công Nguyên khi vùng đất này trở thành trung tâm của nền văn minh Đông Slav với quốc gia Rus Kyiv hùng mạnh tồn tại đến thế kỷ XII. Khi đế quốc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy và bành trướng, Rus Kyiv bị Mông Cổ chinh phục và chịu cảnh nô lệ trong suốt nhiều thế kỷ. Sau khi Mông Cổ suy yếu, lãnh thổ của Ukraina lại bị phân chia giữa nhiều thế lực khác nhau tại Châu Âu, cụ thể là Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Đến thế kỷ XIX, khi Nga bành trướng và đánh bại hai địch thủ còn lại, hầu hết lãnh thổ của Ukraina nằm trong Đế quốc Nga. Năm 1922, Ukraina trở thành một nước đồng sáng lập Liên bang Xô viết đồng thời trở thành một nhà nước cộng hòa theo thể chế Xã hội chủ nghĩa nằm trong Liên Xô. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Ukraina lại trở thành một quốc gia độc lập. Từ đó đến nay, Ukraina tiến hành mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường và trở thành quốc gia có trình độ phát triển cao ở Đông Âu. Tuy nhiên trong những năm gần đây, khủng hoảng chính trị, tham nhũng cùng chiến tranh với Nga đã làm Ukraina mất quyền kiểm soát ở một số vùng lãnh thổ trọng yếu, khiến cho tình hình đất nước đi xuống trầm trọng.
Từ nguyên
Tên gọi "Ukraina" lần đầu tiên được sử dụng để xác định một phần lãnh thổ của Rus' Kyiv vào thế kỷ thứ 12.
Lịch sử
Buổi đầu lịch sử
Khu định cư của con người trong lãnh thổ Ukraina ít nhất có từ năm 4500 trước Công Nguyên, khi nền văn hoá Cucuteni thời kỳ Đồ đá mới phát triển tại một khu vực lớn bao phủ nhiều vùng của Ukraina hiện đại gồm Trypillia và toàn bộ vùng Dnieper-Dniester. Trong thời kỳ đồ sắt, vùng đất này được cư trú bởi người Cimmeria, Scythia, và Sarmatia. Từ năm 700 trước Công Nguyên tới 200 trước Công Nguyên nó là một phần của Vương quốc Scythian, hay Scythia. Sau này, các thuộc địa của Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, và Đế chế Đông La Mã, như Tyras, Olbia, và Hermonassa, đã được thành lập, bắt đầu ở thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên, trên bờ phía đông bắc Biển Đen, và trở nên thịnh vượng trong thế kỷ thứ VI Công Nguyên. Người Goths sống trong vùng nhưng nằm dưới sự thống trị của người Hung từ những năm 370 của Công Nguyên. Ở thế kỷ thứ VII, lãnh thổ đông Ukraina là trung tâm của Đại Bulgaria Cổ. Cuối thế kỷ đó, đa số các bộ tộc Bulgar di cư theo nhiều hướng và vùng đất lại rơi vào tay người Khazar.
Thời kỳ huy hoàng của Kyiv, sự khai sinh Nga, Belarus và Ukraina
Trong thế kỷ thứ IX, hầu hết lãnh thổ Ukraina ngày nay là nơi sinh sống của các bộ tộc người Rus', hình thành nhà nước liên minh bộ tộc Kyiv Rus'. Lãnh thổ Kyiv Rus' thời cực đại bao gồm hầu như toàn bộ lãnh thổ Ukraina, Belarus và một phần khá lớn trong phần lãnh thổ châu Âu của nước Nga hiện nay. Trong thế kỷ thứ X và XI, nhà nước này đã phát triển thành một nhà nước liên minh bộ tộc lớn nhất và hùng mạnh nhất ở Đông Âu. Trong những thế kỷ tiếp sau, nó đặt nền móng cho tính đồng nhất quốc gia của người Ukraina và người Nga. Kyiv, thủ đô của Ukraina hiện đại, đã trở thành thành phố quan trọng nhất của người Rus'. Theo Biên niên sử Đầu tiên, giới thượng lưu Nga ban đầu gồm những người Varangian từ Scandinavia. Người Varangian sau này bị đồng hoá vào xã hội cư dân Slavơ địa phương và trở thành một phần của triều đại Nga đầu tiên là nhà Ryurik. Kiev Rus' gồm nhiều công quốc do các vương công nhà Ryurik có quan hệ huyết thống với nhau cai trị. Khu vực Kyiv, công quốc thịnh vượng và có ảnh hưởng nhất, trở thành mục tiêu tranh giành giữa các vương công nhà Ryurik và là đích tối thượng cho cuộc tranh giành quyền lực của họ.
Thời kỳ huy hoàng của nước Rus Kyiv bắt đầu với sự cai trị của Vladimir Vĩ đại (980–1015), ông đã đưa Rus' theo Thiên Chúa giáo Byzantine. Trong thời cầm quyền của con trai ông, Yaroslav Thông thái (1019–1054), nhà nước Kyiv Rus' đạt tới cực điểm phát triển văn hoá và quyền lực quân sự. Tiếp sau đó là sự tan rã ngày càng nhanh của quốc gia khi các cường quốc trong vùng lại xuất hiện. Sau một cuộc nổi dậy cuối cùng dưới thời cai trị của Vladimir Monomakh (1113–1125) và con trai ông Mstislav (1125–1132), nước Rus Kyiv cuối cùng tan rã thành nhiều công quốc sau cái chết của Mstislav.
Trong thế kỷ XI và XII, những cuộc xâm lược thường xuyên của các bộ tộc Turk du mục như Pechenegs và Kipchak, gây ra những cuộc di cư lớn của dân cư Slavơ tới những vùng an toàn và có nhiều rừng cây hơn ở phía bắc. Thế kỷ XIII, cuộc xâm lược của Mông Cổ đã tàn phá nước Rus Kyiv. Kyiv bị phá huỷ hoàn toàn năm 1240. Trên lãnh thổ Ukraina, nhà nước Kyiv Rus' được kế tục bởi các công quốc Galich (Halych) và Volodymyr-Volynskyi, chúng sáp nhập thành nhà nước Galicia-Volhynia.
Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Rus Kyiv, theo thời gian các xứ này dần phát triển và trở thành nước Nga ngày nay. Trong khi đó, các vùng miền tây bị Đại công quốc Lietuva và Ba Lan chiếm giữ. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kyiv đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarus và người Ukraina ở phía tây.
Như vậy, 3 quốc gia Nga, Belarus và Ukraina đều chia sẻ chung một cội nguồn là xứ Rus Kyiv của người Rus'. Cho tới nay, 3 quốc gia này tuy độc lập với nhau nhưng có rất nhiều điểm chung về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo.
Sự đô hộ của nước ngoài
Giữa thế kỷ XIV, Galicia-Volhynia bị Kazimierz III của Ba Lan chinh phục, tuy vùng đất trung tâm của Nga, gồm cả Kyiv, rơi vào tay Đai vương công Lietuva là Gediminas sau Trận đánh trên Sông Irpen'. Sau năm 1386 Liên minh Krevo, một liên minh các triều đại giữa Ba Lan và Litva, hầu hết lãnh thổ Ukraina bị giới quý tộc Litva địa phương ngày càng Ruthenia hoá cai trị như một phần của Lãnh địa Đại công tước Litva. Ở thời điểm này, thuật ngữ Ruthenia và người Ruthenia như các phiên bản La tinh hoá của "Rus'", bắt đầu được áp dụng rộng rãi cho vùng đất và con người Ukraina.
Tới năm 1569, Liên minh Lublin thành lập Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, và một phần lớn lãnh thổ Ukraina được chuyển từ quyền cai trị chủ yếu Litva sang cho bộ máy hành chính Ba Lan, như nó đã được chuyển giao cho Vua Ba Lan. Dưới áp lực văn hoá và chính trị của quá trình Ba Lan hoá đa phần thượng Ruthenia chuyển theo Cơ đốc giáo và trở nên không thể phân biệt với giới quý tộc Ba Lan. Vì thế, những người thường dân Ukraina, mất đi những người bảo hộ địa phương của mình trong giới quý tộc Ruthenia, quay sang tìm kiếm sự bảo hộ của người Cossack, họ luôn kiên quyết trung thành với chính thống giáo và có khuynh hướng quay sang dùng bạo lực chống lại những kẻ mà họ cho là kẻ thù, đặc biệt là nhà nước Ba Lan và những đại diện của nó.
Giữa thế kỷ XVII, một quân đội kiểu nhà nước của người Cossack, Đạo quân Zaporozhia được thành lập bởi những người Cossack sông Dnieper và các nông dân Ruthenia chạy trốn chế độ nông nô Ba Lan. Ba Lan ít có quyền kiểm soát thực tế với vùng đất này, quả thực họ thấy rằng người Cossack là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu chống lại người Thổ và người Tatar, ở những thời điểm hai lực lượng liên kết trong các chiến dịch quân sự. Tuy nhiên, quá trình tiếp tục nông nô hoá các nông dân của giới quý tộc Ba Lan được tăng cường thêm bởi tham muốn mãnh liệt khai thác nguồn nhân lực, và quan trọng nhất, là sự đàn áp Nhà thờ Chính thống được thúc đẩy bởi tham muốn của người Cossack rời bỏ Ba Lan. Mong muốn của họ là có đại diện trong Sejm, công nhận các truyền thống Chính thống và sự mở rộng dần dần của Cossack Registry. Tất cả chúng đều bị giới quý tộc Ba Lan kịch liệt phản đối. Cuối cùng người Cossack quay sang tìm kiếm sự bảo hộ của Chính thống giáo Nga, một quyết định sau này sẽ dẫn tới sự sụp đổ của nhà nước Ba Lan-Litva, và sự bảo tồn Nhà thờ Chính thống và tại Ukraina.
Năm 1648, Bohdan Khmelnytsky lãnh đạo những cuộc nổi dậy lớn nhất của người Cossack chống lại Khối thịnh vượng chung và vua Ba Lan Jan II Kazimierz Waza. Bờ tả Ukraina cuối cùng sáp nhập vào Nga như Cossack Hetmanate, sau Hiệp ước Pereyaslav năm 1654 và cuộc Chiến tranh Nga Ba Lan sau đó. Sau cuộc phân chia Ba Lan ở cuối thế kỷ XVIII bởi Phổ, nhà Habsburg của Áo, và Nga, Tây Ukraina Galicia bị Áo chiếm, trong khi phần còn lại của Ukraina dần bị sáp nhập vào Đế quốc Nga. Từ đầu thế kỷ XVI tới cuối thế kỷ XVII các nhóm cướp phá của người Tatar vùng Krym hầu như đột nhập hàng năm vào các vùng đất nông nghiệp Slavơ bắt người để bán làm nô lệ. Sau sự sáp nhập Khả hãn quốc Crimea năm 1783, vùng này là nơi định cư của những người du cư từ các vùng khác của Ukraina. Dù có những lời hứa trao cho Ukraina quyền tự trị trong Hiệp ước Pereyaslav, giới lãnh đạo Ukraina và người Cossack không bao giờ có tự do và tự trị mà họ chờ đợi từ Đế quốc Nga. Tuy nhiên, bên trong Đế chế, người Ukraina lên được những chức vụ cao nhất của nhà nước Nga, và Nhà thờ Chính thống Nga. Ở giai đoạn sau này, chính quyền Sa hoàng tiến hành chính sách Nga hoá các vùng đất Ukraina, cấm sử dụng ngôn ngữ Ukraina trong xuất bản và công cộng.
Cách mạng và Chiến tranh thế giới thứ nhất
Ukraina bước vào Chiến tranh thế giới thứ nhất bên cạnh cả phe Liên minh, với đế quốc Áo-Hung, và phe Hiệp ước, với Nga. 3.5 triệu người Ukraina chiến đấu trong Quân đội Đế quốc Nga, trong khi 250,000 người chiến đấu cho Quân đội Áo-Hung. Trong cuộc chiến, chính quyền Áo-Hung thành lập Quân đoàn Ukraina để chiến đấu chống lại Đế quốc Nga. Quân đoàn này là nền tảng của Quân đội Galician Ukraina chiến đấu chống lại cả những người Bolshevik và Ba Lan trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919–23). Những người bị nghi ngờ có các tình cảm thân với Nga tại Áo bị đối xử tàn nhẫn. Lên tới 5,000 người ủng hộ Đế quốc Nga thuộc Galicia bị giam giữ và đưa vào các trại tập trung Áo tại Talerhof, Styria, và trong các khu rừng tại Terezín (hiện ở Cộng hoà Séc).
Với sự sụp đổ của Đế quốc Nga và Áo-Hung sau chiến tranh và cuộc Cách mạng Nga năm 1917, một phong trào quốc gia Ukraina đòi quyền tự quyết tái xuất hiện. Trong giai đoạn 1917–20, nhiều Quốc gia Ukraina riêng biệt xuất hiện trong một giai đoạn ngắn: Cộng hòa Nhân dân Ukraina, Hetmanate, Tổng cục Ukraina và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina (hay Xô viết Ukraina, được đảng Bolshevik giúp đỡ) liên tiếp được thành lập trong các lãnh thổ cũ của Đế quốc Nga; đồng thời Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina xuất hiện một thời gian ngắn trong lãnh thổ của Áo-Hung cũ. Trong bối cảnh cuộc Nội chiến, một phong trào vô chính phủ được gọi là Hắc quân lãnh đạo bởi Nestor Makhno cũng phát triển ở miền Nam Ukraina. Tuy nhiên với sự thất bại của Tây Ukraina trong Chiến tranh Ba Lan-Ukraina tiếp theo là sự thua trận của cuộc tấn công của Ba Lan bị những người Bolshevik đẩy lùi. Theo Hiệp ước Hoà bình Riga được ký kết giữa người Xô viết và Ba Lan, tây Ukraina chính thức bị sáp nhập vào Ba Lan đổi lại Ba Lan công nhận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina vào tháng 3 năm 1919, sau này trở thành một thành viên sáng lập Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết hay Liên xô tháng 12 năm 1922.
Ukraina Xô viết giữa hai cuộc chiến
Sau cuộc cách mạng, chính phủ Xô viết phải đối đầu với sự tàn phá Ukraina. Hậu quả của chiến tranh là 1.5 triệu người chết và hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Xô viết Ukraina phải đối mặt với nạn đói năm 1921. Chứng kiến một xã hội đang kiệt quệ, chính phủ Xô viết trở nên rất mềm dẻo trong thập kỷ 1920. Vì thế, Văn hoá Ukraina và ngôn ngữ đã có sự phục hồi, bởi sự Ukraina hoá trở nên một phần địa phương của việc áp dụng chính sách Korenisation (nghĩa đen bản xứ hoá) trên khắp Liên xô. Người Bolshevik cũng cam kết thực hiện chăm sóc y tế phổ thông, cung cấp các lợi ích giáo dục và an sinh xã hội, cũng như quyền làm việc và có nhà ở. Các quyền của phụ nữ được tăng cường mạnh thông qua các bộ luật mới có mục đích loại bỏ những sự bất bình đẳng từ nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, cách chính sách kinh tế của Lenin đã bị đảo ngược hồi đầu thập niên 1930 sau khi Iosif Stalin dần củng cố quyền lực để trên thực tế trở thành người lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản và Liên bang Xô viết.
Bắt đầu từ cuối thập niên 1920, Ukraina tham gia vào cuộc công nghiệp hoá Liên xô và sản phẩm công nghiệp của nước cộng hoà đã tăng gấp bốn lần trong thập niên 1930. Tuy nhiên, cuộc công nghiệp hoá khiến tầng lớp nông dân phải trả giá đắt, về nhân khẩu họ là xương sống của quốc gia Ukraina. Để đáp ứng nhu cầu của quốc gia về nguồn lương thực ngày càng tăng, và để cung cấp tài chính cho cuộc công nghiệp hoá, Stalin tiến hành một chương trình tập thể hoá nông nghiệp khi nhà nước công hữu hóa ruộng đất và gia súc của nông dân vào trong các trang trại tập thể và ép buộc thực hiện các chính sách bằng quân đội thường trực và cảnh sát. Những người chống đối bị bắt giữ và trục xuất và hạn ngạch sản xuất gia tăng lại được đặt lên vai người nông dân. Stalin tin rằng các nông trường quốc doanh rộng lớn trang bị máy nông nghiệp cơ khí hóa sẽ làm tăng năng suất, nhưng sự tập thể hoá vội vã quá mức thực tế lại gây tác động xấu với sản xuất nông nghiệp. Bởi các thành viên của các nông trang tập thể không được phép nhận bất kỳ hoa lợi nào cho tới khi đạt mức hạn ngạch nộp thuế, sự thiếu ăn đã xảy ra. Trong năm 1932–33, khi hạn hán xảy ra, cả triệu người đã chết trong một nạn đói được gọi là Holodomor. Các học giả đang tranh cãi liệu nạn đói này có thích hợp với định nghĩa diệt chủng, nhưng nghị viện Ukraina và hơn 10 quốc gia khác công nhận nó là như vậy.
Những thời gian công nghiệp hoá và Holodomor cũng trùng với cuộc tấn công của Liên xô vào giới lãnh đạo chính trị và văn hoá quốc gia thường bị buộc tội "chệch hướng quốc gia". Hai làn sóng thanh trừng chính trị và truy tố của Stalin tại Liên bang Xô viết (1929–34 và 1936–38) đã bắt giữ gần bốn phần năm giới lãnh đạo Ukraina và ba phần tư toàn bộ sĩ quan cao cấp của quân đội.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau cuộc Xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939, quân đội Đức và Liên Xô phân chia lãnh thổ Ba Lan. Vì thế, Đông Galicia và Volhynia với dân số Ukraina ở đó được tái thống nhất với phần còn lại của Ukraina. Sự thống nhất Ukraina lần đầu tiên trong lịch sử được hoàn thành và là sự kiện mang tính quyết định trong lịch sử đất nước.
Sau khi Pháp đầu hàng Đức, Rumani nhượng Bessarabia và bắc Bukovina theo các yêu cầu của Liên Xô. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina sáp nhập các quận phía bắc và phía nam của Bessarabia, bắc Bukovina, và vùng chiếm đóng Hertsa của Liên Xô. Nhưng nó nhượng lại phần phía tây Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tự trị Moldavia cho nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia mới được thành lập. Toàn bộ những lãnh thổ giành được đó đều được quốc tế công nhận theo Các Hiệp ước Hoà bình Paris năm 1947.
Quân đội Đức xâm lược Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941, khởi động một cuộc chiến tranh tổng lực kéo dài trong bốn năm liền. Liên minh phe Trục ban đầu tiến nhanh trước những nỗ lực tuyệt vọng nhưng không hiệu quả của Hồng quân. Trận bao vây Kyiv, thành phố được ca ngợi như một "Thành phố anh hùng", diễn ra bởi lo ngại sự kháng cự của Hồng Quân và dân chúng địa phương Hơn 600,000 binh sĩ Xô viết (hay một phần tư của Mặt trận phía Tây) bị giết hay bị bắt giữ tại đó. Dù đại đa số người Ukraina chiến đấu bên cạnh Hồng quân và cuộc kháng chiến Xô viết, một số thành phần quốc gia Ukraina bí mật lập ra một phong trào quốc gia chống Liên Xô tại Galicia, Quân đội Nổi dậy Ukraina (1942) chiến đấu cùng các lực lượng Phát xít và tiếp tục chiến đấu với Liên bang Xô viết trong những năm hậu chiến. Sử dụng các chiến thuật chiến tranh du kích, những người nổi dậy thực hiện ám sát và khủng bố những người họ cho là đại diện, hay hợp tác ở bất kỳ mức độ nào với nhà nước Xô viết. Cùng lúc ấy một phong trào quốc gia khác chiến đấu bên cạnh quân Phát xít. Tổng cộng, số người Ukraina chiến đấu trong mọi cấp bậc Quân đội Liên xô được ước tính từ 4.5 triệu tới 7 triệu. Cuộc kháng chiến du kích của quân kháng chiến ủng hộ Liên xô tại Ukraina ước tính ở con số 47,800 người từ đầu cuộc xâm lược lên tới đỉnh điểm 500,000 người năm 1944; với khoảng 50 phần trăm trong số họ là người Ukraina. Nói chung, các con số lính của Quân đội Nổi dậy Ukraina rất không đáng tin cậy, thay đổi trong khoảng từ 15,000 tới 100,000 chiến binh.
Ban đầu, người Đức được đón nhận như những người giải phóng bởi một số người gốc Ba Lan ở tây Ukraina, họ chỉ mới gia nhập Liên Xô năm 1939. Tuy nhiên, sự cai trị hà khắc của người Đức tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng cuối cùng đã khiến những người ủng hộ họ quay sang chống đối sự chiếm đóng. Các viên chức Phát xít tại các vùng lãnh thổ Liên Xô đã bị chiếm đóng ít có nỗ lực để khai thác sự bất mãn của dân chúng trong lãnh thổ Ukraina với các chính sách kinh tế và chính trị của Stalin. Thay vào đó, Phát xít duy trì hệ thống trang trại tập thể, tiến hành một cách có hệ thống các chính sách diệt chủng chống lại người Do Thái, bắt những người khác tới làm việc tại Đức, và bắt đầu một cuộc di dân có hệ thống tại Ukraina để chuẩn bị cho việc thực dân hoá của Đức, gồm cả phong toả lương thực với Kyiv.
Đại đa số trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra tại Mặt trận phía Đông, và theo nguồn thống kê mang tính thổi phồng của Liên Xô thì Phát xít Đức chịu 93 phần trăm thương vong tại đây (dù tỷ lệ thực tế cũng khá cao là khoảng 75%). Tổng cộng thiệt hại với dân số Ukraina trong cuộc chiến được ước tính trong khoảng năm tới tám triệu người, gồm hơn một nửa triệu người Do thái bị Einsatzgruppen giết hại, thỉnh thoảng với sự giúp đỡ của những kẻ cộng tác người địa phương. Trong ước tính 8.7 triệu lính Xô viết hi sinh trong chiến đấu chống Phát xít, 1.4 triệu là người Ukraina. Vì thế tới ngày nay, Ngày Chiến thắng được coi là một trong mười ngày lễ quốc gia của Ukraina.
Hậu Chiến tranh thế giới thứ hai
Nước cộng hoà bị thiệt hại nặng trong chiến tranh, và cần những nỗ lực to lớn để khôi phục. Hơn 700 thành phố và thị trấn và 28,000 ngôi làng bị phá huỷ. Tình hình càng nghiêm trọng hơn bởi một nạn đói năm 1946–47 do hạn hán và hư hỏng cơ sở hạ tầng khiến hàng chục nghìn người chết.<ref>Kulchytsky, Stanislav, "Demographic losses in Ukraine in the twentieth century", October October 2-8 2004. Available online in Russian and in Ukrainian .</ref>
Năm 1945 Ukraina là một trong những thành viên sáng lập tổ chức Liên hiệp quốc. Máy tính đầu tiên của Liên Xô MESM được chế tạo tại Viện kỹ thuật điện Kyiv và đi vào hoạt động năm 1950.
Theo các con số thống kê, tới ngày 1 tháng 1 năm 1953, người Ukraina đứng thứ hai chỉ sau người Nga trong số người lớn "bị trục xuất đặc biệt", chiếm 20% tổng số. Ngoài người Ukraina, hơn 450,000 người thuộc sắc tộc Đức từ Ukraina và hơn 200,000 người Tatar Crimea là những nạn nhân của những cuộc di cư bắt buộc.
Sau cái chết của Stalin năm 1953, Nikita Khrushchev trở thành lãnh đạo mới của Liên bang Xô viết. Là Thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina trong giai đoạn 1938-49, Khrushchev rất gần gũi với nước cộng hoà sau khi nắm quyền trên toàn liên bang, ông bắt đầu nhấn mạnh tình hữu nghị giữa quốc gia Ukraina và Nga. Năm 1954, kỷ niệm lần thứ 300 Hiệp ước Pereyaslav được tổ chức khắp nơi, và đặc biệt, Krym được chuyển từ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga cho Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina.
Tới năm 1950, nước cộng hoà đã vượt qua mức sản xuất công nghiệp thời tiền chiến. Trong kế hoạch năm năm 1946-1950 gần 20 phần trăm ngân sách Liên xô được đầu tư vào Ukraina Xô viết, tăng 5% so với các kế hoạch tiền chiến. Nhờ thế lực lượng lao động Ukraina tăng 33.2% từ 1940 tới 1955 trong khi sản lượng công nghiệp tăng 2.2 lần trong cùng thời kỳ. Xô viết Ukraina nhanh chóng trở thành một nước dẫn đầu châu Âu về sản xuất công nghiệp. Nó cũng trở thành một trung tâm quan trọng của ngành công nghiệp vũ khí và nghiên cứu kỹ thuật cao của Liên xô. Vai trò quan trọng đó dẫn tới một ảnh hưởng to lớn tới giới tinh hoa địa phương. Nhiều thành viên ban lãnh đạo Liên xô tới từ Ukraina, đáng chú ý nhất là Leonid Brezhnev, người sau này đã lật đổ Khrushchev và trở thành lãnh đạo Liên Xô từ năm 1964 tới năm 1982, cũng như nhiều vận động viên thể thao, nhà khoa học, nghệ sĩ ưu tú khác của Liên xô. Ngày 26 tháng 4 năm 1986, một lò phản ứng của Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl nổ, dẫn tới thảm hoạ Chernobyl, tai nạn lò phản ứng hạt nhân nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Ở thời điểm vụ tai nạn bảy triệu người đang sống tại các vùng lãnh thổ bị ô nhiễm, gồm 2.2 triệu người tại Ukraina. Sau vụ tai nạn, một thành phố mới, Slavutych, được xây dựng bên ngoài khu vực cấm làm nơi ở và hỗ trợ cho các nhân viên của nhà máy chất dứt công việc năm 2000. Một báo cáo do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Tổ chức Y tế Thế giới cho rằng 56 thiệt mạng trực tiếp do vụ tai nạn và ước tính có thể có tới 4,000 ca chết vì ung thư khác.
Độc lập
Ngày 16 tháng 7 năm 1990, một nghị viện mới thông qua Tuyên bố Quốc gia Ukraina có Chủ quyền. Tuyên bố lập ra các nguyên tắc tự quyết của Quốc gia Ukraina, nền dân chủ, sự độc lập chính trị và kinh tế và sự ưu tiên của luật pháp Ukraina trong lãnh thổ Ukraina so với luật pháp Liên Xô. Một tháng trước đó, một tuyên bố tương tự đã được nghị viện Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga thông qua. Các sự kiện trên khởi đầu một giai đoạn ngắn có sự bất đồng giữa chính quyền trung ương Liên Xô và các chính quyền Cộng hoà mới. Tháng 8 năm 1991, Ủy ban Khẩn cấp Nhà nước chỉ huy một số sư đoàn Hồng quân, KBG cùng chính phủ Xô viết các nước Belarus và Azerbaijan tiến hành một cuộc đảo chính để loại bỏ Mikhail Gorbachev và tái lập quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi cuộc đảo chính thất bại, ngày 24 tháng 8 năm 1991 nghị viện Ukraina thông qua Luật Độc lập trong đó nghị viện tuyên bố Ukraina là một nhà nước dân chủ độc lập. Một cuộc trưng cầu dân ý và bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra ngày 1 tháng 12 năm 1991. Ngày hôm đó, hơn 90% người dân Ukraina thể hiện sự ủng hộ Luật Độc lập, và họ bầu chủ tịch nghị viện, Leonid Kravchuk trở thành Tổng thống đầu tiên của đất nước. Tại cuộc gặp gỡ ở Brest, Belarus ngày 8 tháng 12, tiếp sau là cuộc gặp tại Alma Ata ngày 21 các lãnh đạo Belarus, Nga, và Ukraina chính thức giải tán Liên bang Xô viết và lập ra Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS).
Ban đầu Ukraina được coi là một nước cộng hoà có nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế so với các vùng khác của Liên Xô. Tuy nhiên, nước này rơi vào tình trạng giảm phát kinh tế sâu hơn một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ khác. Trong thời kỳ giảm phát, Ukraina mất 60% GDP từ 1991 tới 1999, và có tỷ lệ lạm phát ở mức năm con số. Bất mãn với các điều kiện kinh tế, cũng như tình trạng tội phạm và tham nhũng, người dân Ukraina tiến hành các cuộc biểu tình và bãi công có tổ chức.
Nền kinh tế Ukraina ổn định vào cuối thập niên 1990. Một đồng tiền tệ mới, hryvnia, được đưa vào lưu thông năm 1996. Từ năm 2000, nước này đã có tăng trưởng kinh tế thực bền vững khoảng 7% hàng năm. Một Hiến pháp Ukraina mới được thông qua năm 1996, biến Ukraina thành một nhà nước cộng hoà bán tổng thống và thiết lập một hệ thống chính trị ổn định. Tuy nhiên, Kuchma bị phe đối lập chỉ trích vì tập trung quá nhiều quyền lực vào tay mình, tình trạng tham nhũng, chuyển tài sản vào tay giới đầu sỏ trung thành, không khuyến khích tự do ngôn luận và gian lận bầu cử.
Cách mạng Cam
Năm 2004, Viktor Yanukovych, khi ấy là Thủ tướng, được tuyên bố là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, đã gian lận ở diện rộng, như Toà án Tối cao Ukraina tuyên bố sau này. Các kết quả dẫn tới một sự phản đối của công chúng ủng hộ ứng cử viên đối lập, Viktor Yushchenko, người không thừa nhận kết quả của cuộc bầu cử và lãnh đạo cuộc Cách mạng Cam hoà bình. Cuộc cách mạng đưa Viktor Yushchenko và Yulia Tymoshenko lên nắm quyền lực, biến Viktor Yanukovych thành phe đối lập. Tuy nhiên Yanukovych lại trở thành Thủ tướng năm 2006 cho tới cuộc bầu cử đột xuất vào tháng 9 năm 2007 đưa Tymoshenko lên làm Thủ tướng trở lại.
Các cuộc xung đột với Nga về giá khí tự nhiên (ngắn) đã ngừng toàn bộ nguồn cung cấp khí tự nhiên cho Ukraina năm 2006 và 2009, dẫn tới những thiếu hụt khí đốt tại nhiều nước châu Âu khác (cả hai lần).Q&A: Russia-Ukraine gas row, BBC News (ngày 20 tháng 1 năm 2009)
Vào cuộc bầu cử tổng thống 2010, Viktor Yanukovych đã đánh bại Tymoshenko trong vòng nhì với tỷ lệ 48%-45%.
Euromaidan và Cách mạng 2014
Phong trào Euromaidan là một làn sóng biểu tình ở Ukraina bắt đầu vào đêm 21 tháng 11 năm 2013. Việc này xảy ra khi trước đó cùng ngày chính phủ Ukraina tuyên bố hoãn việc ký kết một thỏa thuận hợp tác và thương mại tự do với Liên minh châu Âu "nhằm đảm bảo an ninh quốc gia" thay vào đó lựa chọn việc thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với Liên bang Nga Kiev protesters gather, EU dangles aid promise , Reuters (ngày 12 tháng 12 năm 2013). Những người biểu tình cho rằng động thái của chính phủ Ukraina là không dân chủ, ảnh hưởng đến đời sống của họ, họ cổ vũ cho quan hệ gần gũi hơn với EU. Rất đông người Ukraina đã xuống đường biểu tình để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với phong trào Euromaidan . Trong khi đó, ở phần đông lãnh thổ của Ukraina nơi mà Người Nga chiếm đa số, một phần lớn dân số tại đây đã bày tỏ sự phản đối của họ đối với Euromaidan, thay vào đó họ ủng hộ chính phủ thân Nga của Yanukovych .
Chẳng bao lâu thì phong trào Euromaidan đã lan rộng ra kêu gọi Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych và chính phủ của thủ tướng Azarov từ chức cũng như phải thả cựu Thủ tướng Ukraina Yulia Tymoshenko. Các cuộc biểu tình được tiến hành bất chấp việc cảnh sát tăng cường lực lượng trấn áp, và số lượng tham gia các cuộc biểu tình ngày càng tăng nhất là từ giới sinh viên đại học. Các cơ quan thực thi pháp luật, cụ thể là Berkut (một đơn vị thuộc Bộ nội vụ) dù không bị khiêu khích đã tấn công một cách tàn bạo đối với những người biểu tình và các phóng viên vào ngày 30 tháng 11 năm 2013. Khoảng 10.000 người biểu tình đã tập trung tại Kyiv vào đêm 29 tháng 11 năm 2013. Cảnh sát đã dùng hơi cay trấn áp người biểu tình khiến nhiều người bị thương. Việc gia tăng bạo lực từ các lực lượng chính quyền đã làm cho số người tham dự biểu tình càng tăng thêm, ước lượng khoảng từ 350.000 – 700.000 người phản đối biểu tình lúc cao điểm tại Kyiv vào ngày 1 tháng 12.. Ngày 8 tháng 12 năm 2013, những người biểu tình quá khích đã giật đổ tượng đài Lenin tại Quảng trường Độc lập ở thủ đô Kyiv, dùng búa đập phá tượng đã có từ năm 1946 này và trương cờ Liên minh châu Âu trên bệ tượng..
Đến giữa tháng 2 năm 2014, những cuộc đàm phán giữa Tổng thống Viktor Fedorovych Yanukovych và phe đối lập đã thất bại. Ukraina đứng trên bờ vực tai họa của một cuộc nội chiến. Ông Yanukovych đã bị Quốc hội Ukraina thông qua bỏ phiếu bãi bỏ tư cách tổng thống vào ngày 22 tháng 2 với 328 trên 340 phiếu thuận. Chủ tịch Quốc hội Oleksander Turchynov cho biết ông Yanukovych đã "từ bỏ trách nhiệm theo hiến pháp, đe dọa chức năng của nhà nước, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraina". Petro Poroshenko, một người thân EU, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sau đó với hơn 50% số phiếu để trở thành Tổng thống mới của Ukraina
Khủng hoảng Crimea và sự can thiệp của Nga
Tại Crimea (hay Krym), các cuộc biểu tình đã được tổ chức bởi các nhóm dân tộc chủ yếu là người gốc Nga phản đối các cuộc biểu tình Euromaidan ở Kyiv và muốn quan hệ gần gũi hoặc sáp nhập Krym vào nước Nga, ngoài việc quyền tự chủ mở rộng hoặc khả năng độc lập cho Krym. Các nhóm khác tại Crimea, bao gồm cả người Tatar thì ngược lại, tuyên bố ủng hộ Euromaidan.
Nhân cơ hội Tổng thống Yanukovych bị lật đổ và tình hình chính trị rối ren đang xảy ra ở Ukraina, Tổng thống Nga Vladimir Putin bắt đầu lên kế hoạch để sáp nhập Crimea trở lại nước Nga vào ngày 23 tháng 2 năm 2014. Bốn ngày sau, vào ngày 27/2/2014, một nhóm người có vũ trang trùm mặt đã chiếm các tòa nhà chính quyền và quốc hội của Krym và cắm quốc kỳ Nga trên các tòa nhà này. Một nhóm khác mặt quân phục nhưng không đeo quân hiệu có vũ trang cũng đã chiếm hai sân bay ở Krym. Tổng thống tạm thời của Ukraina là Oleksandr Turchynov đã cáo buộc Nga triển khai quân đội tại bán đảo Krym để kích động một "cuộc xung đột vũ trang" nhưng phía Nga phủ nhận cáo buộc này. Ngày 1 tháng 3, Thượng viện Nga đã chấp thuận một kiến nghị của Tổng thống Nga Putin cho phép ông được quyền đưa quân vào Ukraina hỗ trợ chính quyền mới do Sergey Aksyonov đứng đầuUkraine crisis: Crimea leader appeals to Putin for help BBC Retrieved on ngày 1 tháng 3 năm 2014 Ngày 2 tháng 3 năm 2014, một số căn cứ quân sự Ukraina đã bị vây hãm hoặc bị tấn công. Ukraina tuyên bố cảnh báo chiến đấu và ra lệnh tổng động viên trên cả nước. Các nước G7 (Hoa Kỳ, Đức Nhật Bản, Canada, Pháp, Ý và Vương quốc Anh) lên án hành động của Nga tại bán đảo Krym, trong một bài tuyên bố chung được công bố bởi phủ tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 02.03.2014, rõ ràng là đã vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Ukraina.,,,. Sau khi quân đội Nga tiến vào Crimea, một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi đã được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 năm 2014 và kết quả chính thức là 97% nguòi dân Crimea đồng ý sáp nhập vùng lãnh thổ này vào Liên bang Nga . Ngày 18 tháng 3 năm 2014, Nga và Cộng hòa Crimea tự xưng đã ký một hiệp ước chính thức tuyên bố Cộng hòa Crimea và Sevastopol gia nhập Liên bang Nga.
13 thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã lên án cuộc bỏ phiếu tại Crimea là bất hợp pháp. Trung Quốc cũng không thể hiện sự ủng hộ cho Nga khi chỉ bỏ phiếu trắng. Samantha Power, Đại sứ Mỹ nói "đó là thời khắc buồn và đáng nhớ". Bà Samantha cũng gọi Nga là quốc gia "cô lập, cô đơn và sai trái". Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý không hợp lệ, và sự sáp nhập Crimea vào Nga là bất hợp pháp..
Sau đó, các cuộc biểu tình của các nhóm thân Nga ở vùng Donbass của Ucraina đã leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang giữa chính phủ Ucraina và lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn tại Donetsk và Lugansk. Vào tháng 4 năm 2014, những người ly khai Ukraina tự tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Cộng hòa Nhân dân Lugansk đồng thời tổ chức trưng cầu dân ý vào ngày 11 tháng 5 năm 2014; những người ly khai đã tuyên bố gần 90% bỏ phiếu ủng hộ độc lập . Cuộc nội chiến giữa một bên là quân đội Ukraina và các tiểu đoàn tình nguyện ủng hộ Ukraina, một bên là các lực lượng của Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Lugansk được Nga hỗ trợ, đã ngày càng trở nên quyết liệt tại Donbass. Vào tháng 12 năm 2014, hơn 6.400 người đã chết trong cuộc xung đột này và theo số liệu của Liên Hợp Quốc, đã có hơn nửa triệu người phải di tản trong cuộc nội chiến Ukraina và hơn 200.000 người tị nạn chạy sang các nước láng giềng Half a million displaced in eastern Ukraine as winter looms, warns UN refugee agency, United Nations (ngày 5 tháng 12 năm 2014)UN Says At Least 6,400 Killed In Ukraine's Conflict Since April 2014, RFE/RL (ngày 1 tháng 6 năm 2015). Đến tháng 12 năm 2015, hơn 9.100 người đã chết (phần lớn là dân thường) trong cuộc chiến tại Donbass, theo số liệu từ Liên hợp quốc
Nga tấn công vào Ukraina
Vào mùa xuân năm 2021, Nga bắt đầu xây dựng lực lượng quân đội dọc biên giới với Ukraina. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2022, Tổng thống Vladimir Putin đã ra lệnh cho các lực lượng quân sự Nga tiến vào các nước cộng hòa ly khai của Ukraina là Donetsk và Luhansk, gọi hành động này là một "sứ mệnh gìn giữ hòa bình". Putin cũng chính thức công nhận Donetsk và Luhansk là các quốc gia có chủ quyền, hoàn toàn độc lập với chính phủ Ukraina. Phản ứng trước những quyết định này, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tuyên bố bắt đầu thực hiện "các biện pháp trừng phạt tài chính nặng nề của Mỹ" đối với Nga và hứa sẽ có các biện pháp trừng phạt tài chính bổ sung nếu quân đội Nga tràn sang Ukraina thích hợp. Các cơ quan tình báo Mỹ đã ước tính rằng lực lượng binh lính Nga ở gần biên giới Ukraina là 150.000 người.
Vào đầu giờ ngày 24 tháng 2 năm 2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố một "hoạt động quân sự đặc biệt" nhằm phi quân sự hóa Ukraina. Sau đó cùng ngày, chính phủ Ukraina thông báo rằng Nga đã nắm quyền kiểm soát Chernobyl, thành phố từng hứng chịu thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử.
Chính trị
Ukraina là một nước cộng hoà bán tổng thống với các nhánh lập pháp, hành pháp, và tư pháp riêng biệt. Tổng thống được bầu bởi các cử tri phổ thông với nhiệm kỳ năm năm là lãnh đạo chính thức của nhà nước.
Nhánh lập pháp Ukraina là nghị viện đơn nhất gồm 450 ghế, tiếng Ukraina gọi là Verkhovna Rada, có nghĩa là "Hội đồng tối cao" Bên cạnh chức năng lập pháp, Nghị viện còn có trách nhiệm phê chuẩn việc thành lập cơ quan hành pháp (Nội các) do Thủ tướng lãnh đạo, được Tổng thống chỉ định.
Luật, đạo luật của nghị viện và nội các, nghị định tổng thống, và đạo luật của nghị viện Crimea có thể bị Toà án Hiến pháp huỷ bỏ, nếu chúng vi phạm Hiến pháp Ukraina. Các đạo luật có tính quy phạm khác cũng là đối tượng xem xét lại của nhánh tư pháp. Toà án Tối cao là cơ quan chính trong hệ thống toà án của tư pháp chung.
Việc tự quản lý của địa phương được chính thức đảm bảo. Các hội đồng địa phương và các thị trưởng thành phố được dân chúng bầu ra và thực hiện quyền kiểm soát với ngân sách địa phương. Các lãnh đạo vùng và các cơ quan hành chính quận được tổng thống chỉ định.
Ukraina có rất nhiều đảng chính trị, nhiều đảng trong số đó có ít thành viên và không được công chúng biết tới. Các đảng nhỏ thường tham gia vào các liên minh đa đảng (khối bầu cử) cho mục tiêu tham gia vào bầu cử nghị viện.
Quân đội
Sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, Ukraina được thừa hưởng một lực lượng quân sự 780,000 lính trên lãnh thổ của mình, được trang bị kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới. Tháng 5 năm 1992, Ukraina ký Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược (START) theo đó nước này đồng ý trao mọi vũ khí hạt nhân cho Nga và gia nhập Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân như một quốc gia phi hạt nhân. Ukraina phê chuẩn hiệp ước năm 1994, và tới năm 1996 nước này không còn sở hữu vũ khí hạt nhân. Quân đội Ukraina hiện tại lớn thứ hai ở châu Âu, sau Nga.
Ukraina đã thực hiện các bước kiên quyết nhằm cắt giảm các vũ khí quy ước. Họ đã ký Hiệp ước về Các lực lượng Vũ trang Quy ước tại châu Âu, kêu gọi giảm bớt số lượng xe tăng, pháo và các phương tiện thiết giáp (các lực lượng quân đội được giảm xuống 300,000 người). Nước này có kế hoạch chuyển chế độ nghĩa vụ quân sự sang một chế độ quân sự tự nguyện không chậm hơn năm 2011.
Ukraina đã đóng một vai trò ngày càng quan trọng hơn trong các chiến dịch gìn giữ hoà bình. Quân Ukraina đã được triển khai tại Kosovo như một phần của Tiểu đoàn Ukraina-Ba Lan. Một đơn vị Ukraina đã được triển khai tại Liban, như một phần của Lực lượng Lâm thời Liên hiệp quốc đảm bảo việc thực hiện thoả thuận ngừng bắn. Cũng có một tiểu đoàn bảo dưỡng và huấn luyện được triển khai tại Sierra Leone. Năm 2003–05, một đơn vị Ukraina được triển khai tại Iraq, như một phần của Lực lượng Đa quốc gia tại Iraq dưới quyền chỉ huy của Ba Lan. Tổng cộng số quân Ukraina được triển khai trên khắp thế giới là 562 người.
Sau khi độc lập, Ukraina tự tuyên bố mình là một nhà nước trung lập. Nước này đã có sự đối tác quân sự hạn chế với Nga, các quốc gia thành viên Hội đồng các quốc gia độc lập khắc và một đối tác của NATO từ năm 1994. Trong những năm 2000, chính phủ nước này nghiêng về phía NATO, và một sự hợp tác sâu hơn với liên minh đã được thiết lập theo Kế hoạch Hành động NATO-Ukraina được ký kết năm 2002. Sau đó nước này đã đồng ý rằng vấn đề gia nhập NATO phải được giải quyết bằng một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Tuy vậy nó đã bị xóa khỏi chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của chính phủ khi tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych được bầu lên vào năm 2010.
Phân cấp hành chính
Hệ thống phân chia hành chính Ukraina phản ánh vị thế quốc gia như một nhà nước đơn nhất (như đã được ghi trong hiến pháp nhà nước) với các chế độ pháp lý và hành chính thống nhất cho mỗi đơn vị.
Nếu như tính cả Sevastopol và Crimea đã được sáp nhập vào Liên Bang Nga từ năm 2014 thì Ukraina được chia thành 24 tỉnh (oblast) và một nước cộng hoà tự trị (), Krym. Ngoài ra, các thành phố Kyiv và Sevastopol đều có vị thế pháp lý đặc biệt. 24 oblast và Krym được chia thành 136 huyện (), là đơn vị hành chính cấp hai.
Các vùng đô thị (thành phố) hoặc có thể phụ thuộc vào các cơ quan hành chính nhà nước (như trong trường hợp của Kyiv và Sevastopol), tỉnh hoặc huyện, phụ thuộc vào dân số và tầm quan trọng kinh tế xã hội của nó. Đơn vị hành chính thấp hơn là hromada, gồm các khu định cư kiểu đô thị, tương tự như các cộng đồng nông nghiệp nhưng đô thị hoá hơn, gồm các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở giáo dục và các kết nối giao thông, và các làng.
Tổng cộng, Ukraina có 457 thành phố, trước năm 2020 thì 176 trong số đó được xếp hạng thuộc tỉnh, 279 nhỏ hơn là các thành phố thuộc huyện (), và hai thành phố có vị thế pháp lý đặc biệt. Tiếp theo đó là 886 khu định cư kiểu đô thị và 28.552 làng.
{| border=0 cellspacing=0 cellpadding=2 style="text-align:left; border:1px solid #ddd; font-size:90%; " summary="links to Ukraine's oblasts and their capital cities"
|+ style="vertical-align:bottom; text-align:left; font-size:111%; font-weight:bold; padding:.5em 0;" |
|- style="background:#ddd; vertical-align:top;"
! style="text-align:left; font-weight:normal;" | Tỉnh
! style="text-align:left; font-weight:normal;" | Tiếng Ukraina
! style="text-align:left; font-weight:normal;" | Tên cũ
! style="text-align:left; font-weight:normal;" | Tỉnh lỵ(trung tâm)
|- style="vertical-align:top;"
| Cherkasy
| Черкаська область Čerkas'ka oblast| Черкащина Čerkaščyna
| Cherkasy
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Chernihiv
| Чернігівська область Černihivs'ka oblast| Чернігівщина Černihivščyna
| Chernihiv
|- style="vertical-align:top;"
| Chernivtsi
| Чернівецька область Černivec'ka oblast| Чернівеччина Černiveččyna
| Chernivtsi
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Dnipropetrovsk
| Дніпропетровська область Dnipropetrovs'ka oblast| Дніпропетровщина Dnipropetrovščyna
|Dnipro
|- style="vertical-align:top;"
| Donetsk
| Донецька область Donec'ka oblast| Донеччина Doneččyna
| Donetsk
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Ivano-Frankivsk
| Івано-Франківська область Ivano-Frankivs'ka oblast| Івано-Франківщина Ivano-Frankivščyna
| Ivano-Frankivsk
|- style="vertical-align:top;"
| Kharkiv
| Харківська область Charkivs'ka oblast| Харківщина Charkivščyna, o Слобожанщина Slobožanščyna
| Kharkiv
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Kherson
| Херсонська область Chersons'ka oblast| Херсонщина Chersonščyna
| Kherson
|- style="vertical-align:top;"
| Khmelnytskyi
| Хмельницька областьChmel'nyc'ka oblast| Хмельниччина Chmel'nyččyna
| Khmelnytskyi
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Kyiv
| Київська область Kyïvs'ka oblast'''
| Київщина Kyïvščyna| Kyiv
|- style="vertical-align:top;"
| Kirovohrad
| Кіровоградська область Kirovohrads'ka oblast
| Кіровоградщина Kirovohradščyna|Kropyvnytskyi
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Luhansk
| Луганська область Luhans'ka oblast
| Луганщина, Лугань Luhanščyna, Luhan'| Luhansk
|- style="vertical-align:top;"
| Lviv
| Львівська область L'vivs'ka oblast
| Львівщина L'vivščyna| Lviv
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Mykolaiv
| Миколаївська область Mykolaïvs'ka oblast
| Миколаївщина Mykolaïvščyna| Mykolaiv
|- style="vertical-align:top;"
| Odesa
| Одеська область Odes'ka oblast
| Одещина Odeščyna| Odesa
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Poltava
| Полтавська область Poltavs'ka oblast
| Полтавщина Poltavščyna| Poltava
|- style="vertical-align:top;"
| Rivne
| Рівненська область Rivnens'ka oblast
| Рівненщина Rivnenščyna| Rivne
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Sumi
| Сумська область Sums'ka oblast
| Сумщина Sumščyna| Sumi
|- style="vertical-align:top;"
| Ternopil
| Тернопільська область Ternopil's'ka oblast
| Тернопільщина Ternopil'ščyna
| Ternopil
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Vinnytsia
| Вінницька область Vinnyc'ka oblast| Вінниччина Vinnyččyna
| Vinnytsia
|- style="vertical-align:top;"
| Volyn
| Волинська область Volyns'ka oblast| Волинь Volyn'''
| Lutsk
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Zakarpatsk
| Закарпатська область Zakarpats'ka oblast
| Закарпаття Zakarpattja| Uzhhorod
|- style="vertical-align:top;"
| Zaporizhia
| Запорізька область Zaporiz'ka oblast
| Запоріжчина Zaporižčyna| Zaporizhia
|- style="vertical-align:top; background:#f0f0f0; "
| Zhytomyr
| Житомирська область Žytomyrs'ka oblast| Житомирщина Žytomyrščyna
| Zhytomyr
|}
Địa lý
Với diện tích 603,700 km2 và bờ biển rộng 2782 km2, Ukraina là nước lớn thứ 44 trên thế giới (sau Cộng hoà Trung Phi, trước Madagascar). Nó là nước nằm toàn bộ ở châu Âu lớn nhất và nước lớn thứ hai ở châu Âu (sau phần châu Âu của Nga, trước Mẫu quốc Pháp).
Phong cảnh Ukraina gồm chủ yếu là các đồng bằng phì nhiêu (hay thảo nguyên) và các cao nguyên, bị cắt ngang bởi các con sông như Dnieper (), Seversky Donets, Dniester và Southern Buh khi chúng chảy về phía nam vào Biển Đen và Biển Azov nhỏ hơn. Ở phía tây nam, đồng bằng Danube tạo thành biên giới với Romania. Vùng núi duy nhất của nước này là Núi Carpathian ở phía tây, trong đó đỉnh cao nhất là Hora Hoverla ở độ cao 2061 m, và những ngọn núi trên bán đảo Krym, ở cực nam dọc theo bờ biển.
Ukraina chủ yếu có khí hậu ôn hoà và lục địa, dù một kiểu khí hậu mang nhiều đặc điểm khí hậu Địa Trung Hải hơn có tại bờ biển nam Crimea. Lượng mưa phân bố không đều; cao nhất ở phía tây và phía bắc và thấp nhất ở phía đông và đông nam. Tây Ukraina, có lượng mưa khoảng 1200mm hàng năm, trong khi Krym có lượng mưa khoảng 400mm. Những mùa đông từ mát dọc Biển Đen tới lạnh ở sâu hơn trong lục địa. Nhiệt độ trung bình năm trong khoảng từ 5.5–7 °C (42–45 °F) ở phía bắc, tới 11–13 °C (52–55.4 °F) ở phía nam.
Kinh tế
Trong thời Xô viết, kinh tế Ukraina lớn thứ hai bên trong Liên xô, là một thành phần công nghiệp và nông nghiệp quan trọng trong nền kinh tế kế hoạch của đất nước. Với sự sụp đổ của hệ thống Xô viết, nước này chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Quá trình chuyển tiếp rất khó khăn cho hầu hết dân cư và đa số họ rơi vào tình trạng nghèo khổ. Kinh tế Ukraina giảm phát nghiêm trọng trong những năm sau sự sụp đổ của Liên xô. Cuộc sống hàng ngày cho người dân thường sống tại Ukraina là một cuộc chiến đấu. Một số lớn công dân tại các vùng nông thôn Ukraina sống bằng lương thực tự trồng, thường làm hai hay nhiều việc và có được các nhu yếu phẩm thông qua trao đổi.
Năm 1991, chính phủ tự do hoá hầu hết giá cả để giải quyết sự thiếu hụt hàng hoá trên diện rộng, và đã thành công. Cùng lúc ấy, chính phủ tiếp tục bao cấp cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp do nhà nước quản lý bằng các khoản tiền công khai. Các chính sách tiền tệ lỏng lẻo đầu thập niên 1990 đẩy lạm phát lên các mức độ siêu lạm phát. Năm 1993, Ukraina giữ kỷ lục thế giới về mức lạm phát trong một năm. Những người sống nhờ thu nhập cố định gặp khó khăn nhiều nhất. Giá cả chỉ ổn định lại sau khi đồng tiền tệ mới ra đời, đồng hryvnia, năm 1996.
Nước này cũng chậm chạm trong việc áp dụng các cải cách cơ cấu. Sau khi giành độc lập, chính phủ đã thành lập một cơ cấu pháp lý cho việc tư nhân hoá. Tuy nhiên, sự chống đối lan rộng với các cải cách bên trong chính phủ và từ một phần đông dân chúng nhanh chóng làm đóng băng các nỗ lực cải cách. Một số lớn doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đã bị loại khỏi quá trình tư nhân hoá. Cùng lúc ấy, tới năm 1999, GDP đã rơi xuống thấp hơn 40% so với mức năm 1991, nhưng đã hồi phục tới hơn 100% ở cuối năm 2006. Đầu những năm 2000, nền kinh tế cho thấy sự tăng trưởng mạnh 5 tới 10% và dựa nhiều vào xuất khẩu với sản xuất công nghiệp tăng trưởng hơn 10% mỗi năm. Ukraina đã bị tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 vào tháng 11 năm 2008, IMF đã thông qua một khoản vay khẩn cấp $16.5 tỷ cho nước này. Nền kinh tế của Ukraina đã vượt qua cuộc khủng hoảng nặng nề do xung đột vũ trang ở phần đông nam của đất nước. Sự mất giá lên tới mức 200% của đồng tiền hryvnia Ucraina (đồng tiền quốc gia) trong 2014-2015 đã làm cho hàng hóa và dịch vụ của Ucraina trở nên rẻ hơn và kém cạnh tranh hơn. Trong năm 2016, lần đầu tiên kể từ năm 2010, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng hơn 2%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mức tăng trưởng dự kiến là 2% vào năm 2017 và 3,5% vào năm 2018.
GDP (theo PPP) năm 2016 của Ukraina theo tính toán của IMF, xếp hạng 117 trên thế giới và ước tính ở mức $8,638 tỷ. GDP trên đầu người năm 2016 của nước này theo IMF ở mức $2,125 (theo PPP), xếp hạng 132 thế giới. GDP danh nghĩa (theo dollar Mỹ, được tính theo tỷ giá trao đổi thị trường) là $87.198 tỷ, xếp hạng 66 trên thế giới. Ở thời điểm tháng 7 năm 2008 lương danh nghĩa trung bình tại Ukraina đạt 1,930 hryvnias mỗi tháng. Dù vẫn ở mức thấp hơn các quốc gia trung Âu láng giềng, tăng trưởng thu nhập năm 2008 đứng ở mức 36.8%
Theo UNDP năm 2003 4.9% dân số Ukraina sống với dưới 2 dollar Mỹ mỗi ngày và 19.5% dân cư sống dưới ngưỡng nghèo quốc gia cùng trong năm ấy.
Ukraina chế tạo hầu như mọi kiểu phương tiện vận tải và tàu vũ trụ. Các máy bay Antonov và xe tải KrAZ đã được xuất khẩu tới nhiều quốc gia. Đa số xuất khẩu của Ukraina là sang Liên minh châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập. Từ khi độc lập, Ukraina đã duy trì cơ quan vũ trụ của riêng minh, Cơ quan Vũ trụ Quốc gia Ukraina (NSAU). Ukraina đã trở thành một bên tham gia tích cực vào việc thám hiểm khoa học vũ trụ và các phi vụ tìm kiếm từ xa. Trong giai đoạn 1991 tới 2007, Ukraina đã phóng sáu vệ tinh và 101 phương tiện phóng do họ tự chế tạo, và tiếp tục thiết kế tàu vũ trụ. Vì thế tới ngày nay, Ukraina được công nhận là nước hàng đầu thế giới trong việc chế tạo tên lửa và kỹ thuật liên quan tới tên lửa.
Nước này nhập khẩu hầu hết năng lượng, đặc biệt là dầu mỏ và khí tự nhiên, và ở mức độ lớn hơn phụ thuộc vào Nga trong năng lượng. Tuy 25% khí tự nhiên ở Ukraina có từ các nguồn nội địa, khoảng 35% đến từ Nga và số còn lại 40% từ Trung Á qua các đường vận chuyển thuộc quyền kiểm soát của Nga. Cùng lúc đó, 85% khí của Nga được chuyển tới Tây Âu qua Ukraina.. Trong năm 2014, gần 100% nguồn cung cấp khí tự nhiên của Ukraina đến từ Nga. Từ năm 2016, nguồn cung cấp dầu khí hầu như là đến từ các nước EU.
Ngân hàng Thế giới xếp hạng Ukraina là quốc gia có thu nhập trung bình. Các vấn đề lớn gồm cơ sở hạ tầng và vận tải kém phát triển, tham nhũng và quan liêu. Năm 2007 thị trường chứng khoán Ukraina ghi nhận mức tăng trưởng cao thứ hai thế giới với 130%. Theo CIA, năm 2006 tư bản hoá thị trường của thị trường chứng khoán Ukraina là $111.8 tỷ. Các lĩnh vực đang phát triển của kinh tế Ukraina gồm thị trường công nghệ thông tin (IT), đứng đầu các nước Trung và Đông Âu năm 2007, tăng trưởng khoảng 40%.
Du lịch
Ukraina đứng thứ 8 thế giới về số lượng khách du lịch, theo xếp hạng của Tổ chức Du lịch Thế giới.
Bảy kì quan Ukraina là bảy công trình lịch sử và văn hóa được bình chọn trong một cuộc thi vào tháng 7-2007, ở Ukraina.
Văn hoá
Các phong tục Ukraina bị ảnh hưởng nhiều bởi Thiên chúa giáo, là tôn giáo vượt trội trong nước. Các vai trò giới tính cũng thường có tính truyền thống hơn, và người ông đóng một vai trò lớn hơn trong giáo dục trẻ em so với tại phương Tây. Văn hoá Ukraina cũng đã bị ảnh hưởng bởi các nước láng giềng phía đông và phía tây, nó được phản ánh trong kiến trúc, âm nhạc và nghệ thuật Ukraina.
Thời kỳ cộng sản có một ảnh hưởng khá mạnh trong nghệ thuật và văn học Ukraina. Năm 1932, Stalin đã đưa ra chính sách nhà nước chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tại Liên xô khi ông ban hành nghị định "Về việc Xây dựng các Tổ chức Văn học và Nghệ thuật". Chính sách này đã kìm chế khả năng sáng tác rất nhiều. Trong thập niên 1980 chính sách glasnost (mở cửa) được đưa ra và các nghệ sĩ cùng nhà văn Liên xô đã được tự do thể hiện mình như họ muốn.
Truyền thống trứng Phục sinh, còn được gọi là pysanky, có nguồn gốc từ lâu ở Ukraina. Những quả trứng này được vẽ sáp để tạo ra một hình mẫu; sau đó, trứng được nhuộm màu để khiến nó có những màu sắc vui mắt, màu nhuộm không ăn lên những phần đã được vẽ sáp trước đó trên quả trứng. Sau khi toàn bộ quả trứng được nhuộm, lớp sáp bị loại bỏ chỉ để lại những mẫu hình màu sắc đẹp mắt. Truyền thống này đã có từ hàng nghìn năm, và có trước khi Thiên chúa giáo xuất hiện tại Ukraina. Tại thành phố Kolomya gần chân dãy các ngọn đồi dưới dãy núi Carpathian năm 2000 một bảo tàng Pysanka đã được xây dựng và nó được coi như một công trình hiện đại của Ukraina năm 2007, một phần của hoạt động xây dựng Bảy kỳ quan của Ukraina.
Món ăn truyền thống Ukraina gồm gà, lợn, bò, cá và nấm. Người Ukraina cũng thường ăn rất nhiều khoai tây, ngũ cốc rau tươi. Các món ăn truyền thống bình dân gồm (bánh bao hấp với nấm, khoai tây, dưa cải bắp, phó mát làm từ sữa gạn kem hay anh đào), borscht (súp nấu từ củ cải đường, cải bắp và nấm hay thịt) và (cải bắp cuộn với gạo, cà rốt và thịt). Các món đặc sản Ukraina còn gồm Gà Kyiv và Bánh Kyiv. Các món đồ uống Ukraina gồm quả hầm, các loại nước hoa quả, sữa, nước sửa (họ làm phó mát sữa gạn bằng thứ này), nước khoáng, trà và cà phê, bia, rượu và .
Ngôn ngữ
Theo Hiến pháp, ngôn ngữ nhà nước của Ukraina là tiếng Ukraina. Tiếng Nga, trên thực tế là ngôn ngữ chính thức của Liên xô, được sử dụng rộng rãi, đặc biệt tại phía đông và phía nam Ukraina. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, 67.5 phần trăm dân số tuyên bố tiếng Ukraina là tiếng mẹ đẻ và 29.6 phần trăm tuyên bố là tiếng Nga. Đa số người dùng tiếng Ukraina như tiếng mẹ đẻ biết tiếng Nga như một ngôn ngữ thứ hai.
Các chi tiết kết quả khác biệt nhau rất nhiều tuỳ theo từng cuộc điều tra, và thậm chí một câu hỏi chỉ hơi khác biệt cũng dẫn tới những câu trả lời khác từ một nhóm người khá lớn. Tiếng Ukraina chủ yếu được dùng ở phía tây và trung Ukraina. Ở phía tây Ukraina, tiếng Ukraina cũng là ngôn ngữ phổ biến trong các thành phố (như Lviv). Ở trung Ukraina, tiếng Ukraina và tiếng Nga được sử dụng như nhau trong các thành phố, tiếng Nga hơi phổ biến hơn ở Kyiv, trong khi tiếng Ukraina là ngôn ngữ chính tại các cộng đồng nông thôn. Tại phía đông và phía nam Ukrain, tiếng Nga được dùng chủ yếu trong các thành phố, tiếng Ukraina được dùng ở các vùng nông thôn.
Trong một phần lớn thời gian thời kỳ Xô viết, số người nói tiếng Ukraina giảm sút sau mỗi thế hệ, và tới giữa thập niên 1980, việc sử dụng tiếng Ukraina trong đời sống công cộng đã sụt giảm đáng kể. Sau khi giành độc lập, chính phủ Ukraina bắt đầu chính sách Ukraina hoá, để tăng cường việc sử dụng tiếng Ukraina, trong khi không khuyến khích tiếng Nga, vốn đã bị cấm hay hạn chế trên truyền thông và phim ảnh. Điều này có nghĩa các chương trình tiếng Nga phải được dịch hay chạy tít tiếng Ukraina, nhưng điều này không áp dụng với các tác phẩm truyền thông được thực hiện trong thời Xô viết.
Theo Hiến pháp của Cộng hoà Tự trị Krym, tiếng Ukraina là ngôn ngữ nhà nước duy nhất của nước cộng hoà. Tuy nhiên, hiến pháp nước cộng hoà đặc biệt công nhận tiếng Nga là một ngôn ngữ được đa số người dân của nó sử đụng và đảm bảo việc sử dụng tiếng Nga 'trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng'. Tương tự, tiếng Tatar Crimea (ngôn ngữ của 12% dân số Crimea) được đảm bảo một sự bảo hộ đặc biệt của nhà nước cũng như trong 'các ngôn ngữ của các sắc tộc khác'. Những người nói tiếng Nga chiếm đại đa số dân cư Crimea (77%), tiếng Ukraina chỉ chiếm 10.1%, và người nói tiếng Tatar Crimea chiếm 11.4%. Nhưng trong đời sống hàng ngày đa số người Tatar Crimea và người Ukraina ở Crimea sử dụng tiếng Nga.
Văn học
Lịch sử văn học Ukraina có từ thế kỷ XI, sau sự Thiên chúa giáo hóa Kyiv Rus’. Các tác phẩm thời gian này chủ yếu là về nghi thức tôn giáo và được viết bằng tiếng Nhà thờ Slavơ cổ. Các văn bản lịch sử thời gian này được gọi là biên niên sử, tác phẩm quan trọng nhất là Biên niên sử Đầu tiên. Hoạt động văn học bất thần suy tàn trong thời Mông Cổ xâm lược Rus'.
Văn học Ukraina lại bắt đầu phát triển một lần nữa ở thế kỷ XIV, và tiến bộ vượt bậc ở thế kỷ XVI với sự ra đời của kỹ thuật in và với sự khởi đầu của thời đại Cossack, dưới cả sự ảnh hưởng của Nga và Ba Lan. Người Cossack đã lập ra một xã hội độc lập và truyền bá một kiểu thơ sử thi mới, đánh dấu đỉnh cao của văn học truyền khẩu Ukraina. Những tiến bộ này mất đi trong thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, khi việc xuất bản bằng tiếng Ukraina bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị ngăn cấm. Tuy nhiên, tới cuối thế kỷ XVIII văn học hiện đại Ukraina cuối cùng đã xuất hiện trở lại.
Thế kỷ XIX khởi đầu một thời kỳ tiếng địa phương tại Ukraina, khởi đầu với tác phẩm của Ivan Kotliarevsky, tác phẩm xuất bản đầu tiên của Ukraina hiện đại. Tới thập niên 1830, chủ nghĩa lãng mạn Ukraina bắt đầu phát triển, và nhân vật văn hoá nổi tiếng nhất Ukraina là nhà thơ/họa sĩ lãng mạn Taras Shevchenko. Nếu Ivan Kotliarevsky được coi là người cha của văn học tiếng địa phương Ukraina; Shevchenko là người cha của sự hồi phục quốc gia Ukraina. Sau đó, vào năm 1863, việc sử dụng tiếng Ukraina trong in ấn đã hoàn toàn bị ngăn cấm bởi Đế quốc Nga. Điều này đã hoàn toàn hạn chế hoạt động văn học trong khu vực, và các tác giả Ukraina bị buộc hoặc phải xuất bản tác phẩm bằng tiếng Nga hoặc phát hành chúng tại vùng Galicia do Áo quản lý. Lệnh cấm chưa từng bị chính thức dỡ bỏ, nhưng nó đã mất nhiều hiệu lực sau cuộc cách mạng và khi những người Bolshevik lên nắm quyền.
Văn học Ukraina tiếp tục phát triển trong những năm đầu thời kỳ Xô viết, khi hầu hết mọi khuynh hướng văn học đều được cho phép. Những chính sách này đã thay đổi trong thập niên 1930, khi Stalin áp dụng chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Học thuyết này không đàn áp tiếng Ukraina, nhưng nó buộc các tác giả phải theo một số kiểu cách trong tác phẩm của mình. Các hoạt động văn học tiếp tục bị hạn chế ở một số điểm bởi đảng cộng sản, và chỉ tới khi Ukraina giành độc lập năm 1991 thì các tác giả mới có thể thể hiện mình như mình muốn.
Thể thao
Ukraina được hưởng lợi nhiều từ chính sách nhấn mạnh trên giáo dục thể chất thời Liên xô. Những chính sách này khiến Ukraina có hàng trăm sân vận động, bể bơi, phòng tập thể dục và nhiều cơ sở thể thao khác. Môn thể thao được ưa chuộng nhất là bóng đá. Giải chuyên nghiệp hàng đầu là Vyscha Liha, cũng được gọi là Ukrainian Premier League. Hai đội có nhiều thành tích nhất tại Vyscha Liha là hai đối thủ FC Dynamo Kyiv và FC Shakhtar Donetsk. Dù Shakhtar là nhà đương kim vô địch Vyscha Liha, Dynamo Kyiv có lịch sử giàu truyền thống hơn, đã giành hai UEFA Cup Winners' Cup, một UEFA Super Cup, một kỷ lục 13 lần vô địch Liên xô và kỷ lục 12 lần giành Ukrainian Championship; trong khi Shakhtar chỉ giành bốn Ukrainian championship. Nhiều cầu thủ Ukraina cũng đã chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, đáng chú ý nhất là Ihor Belanov và Oleh Blokhin, người giành giải Quả bóng vàng châu Âu danh giá cho cầu thủ hay nhất năm. Giải thưởng này chỉ được trao cho một người Ukraina sau khi Liên Xô tan rã, đó là Andriy Shevchenko, cựu thủ quân của đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina. Đội tuyển Ukraina lần đầu tiên có mặt tại 2006 FIFA World Cup, và lọt vào tới vòng tứ kết trước khi thua nhà vô địch sau đó, đội tuyển Ý. Người Ukraina cũng ưa thích đấm bốc, nơi hai anh em trai Vitali Klitschko và Vladimir Klitschko đang giữ nhiều chức vô địch quyền anh hạng nặng thế giới. Ukraina lần đầu tiên đồng đăng cai Euro 2012 (cùng với Ba Lan) và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại hai quốc gia thuộc Đông Âu.
Ukraina lần đầu tham dự Olympic tại Olympic Mùa đông năm 1994. Tuy nhiên, Ukraina có nhiều thành công hơn tại Olympic Mùa hè (96 huy chương cho bốn lần tham gia) so với Olympic Mùa đông (năm huy chương vàng cho bốn lần tham gia). Ukraina hiện xếp thứ 35 về số lượng huy chương vàng giành được tại tất cả các kỳ Olympic, nơi tất cả các nước xếp trên, ngoại trừ Nga, đều có số lần tham dự nhiều hơn. Bước mới của Ukraina trong thể thao thế giới là tham gia đăng cai tổ chức Olympic Mùa đông năm 2018. Chính phủ Ukraina đã đưa Bukovel - khu thể thao trượt tuyết mới nhất của Ukraina để làm nơi tổ chức năm 2018. Bên chiến thắng đã được thông báo năm 2011 tại cuộc họp thứ 123 của IOC tại Durban, Nam Phi là thành phố Pyeyongchang của Hàn Quốc.
Nhân khẩu
Theo Điều tra dân số Ukraina năm 2001, nước này khi đó có khoảng 48.5 triệu người nhưng đến 2019 chỉ còn 43.9 triệu, người Ukraina chiếm 77.8% dân số. Các nhóm sắc tộc lớn khác gồm người Nga (17.3%), người Belarus (0.6%), người Moldova (0.5%), người Tatar Crimea (0.5%), người Bulgari (0.4%), người Hungary (0.3%), người Romania (0.3%), người Ba Lan (0.3%), người Do Thái (0.2%), người Armenia (0.2%), người Hy Lạp (0.2%) và người Tatars (0.2%). Các vùng công nghiệp ở phía đông và đông nam có dân số đông đúc nhất, và khoảng 67.2% dân số sống tại các vùng đô thị.
Ukraina được coi là đang ở trong khủng hoảng nhân khẩu vì tỷ lệ tử cao và tỷ lệ sinh thấp. Tỷ lệ sinh hiện tại của Ukraina là 9.55 sinh/1,000 dân, và tỷ lệ tử là 15.93 tử/1,000 dân. Một yếu tố góp phần vào tỷ lệ tử cao là tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao trong nhóm nam ở độ tuổi làm việc từ các lý do có thể tránh được như nhiễm độc rượu và hút thuốc. Năm 2007, dân số nước này giảm ở tỷ lệ nhanh thứ tư thế giới.
Để giúp giải quyết tình trạng này, chính phủ tiếp tục tăng các khoản hộ trợ cho trẻ em. Chính phủ cung cấp khoản chi trả một lần 12,250 Hryvnia cho đứa trẻ thứ nhất, 25,000 Hryvnia cho đứa trẻ thứ hai và 50,000 Hryvnia cho đứa trẻ thứ ba và thứ tư, cùng với các khoản chi trả theo tháng là 154 Hryvnia cho mỗi đứa trẻ. Khuynh hướng nhân khẩu cho thấy các dấu hiệu cải thiện, bởi tỷ lệ sinh đã tăng vững chắc từ năm 2001. Tăng dân số thực trên chín tháng đầu tiên của năm 2007 được ghi nhận ở năm tỉnh (trong số 24 tỉnh), và sự hao hụt dân số cho thấy những dấu hiệu ổn định trên toàn quốc. Năm 2007 tỷ lệ sinh cao nhất thuộc các tỉnh phía tây.
Nhập cư lớn diễn ra ở những năm đầu tiên sau khi Ukraina độc lập. Hơn một triệu người đã tới Ukraina trong giai đoạn 1991–2, chủ yếu từ các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ. Tổng cộng, trong giai đoạn 1991 và 2004, 2.2 triệu người đã nhập cư vào Ukraina (trong số đó 2 triệu người tới từ các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ) và 2.5 triệu người di cư khỏi Ukraina (trong số đó 1.9 triệu người tới các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ). Hiện tại, người nhập cư chiếm khoảng 14.7% tổng dân số, hay 6.9 triệu người; đây là con số lớn thứ tư thế giới. Năm 2006, có ước tính 1.2 triệu người Canada có tổ tiên là người Ukraina, khiến Canada là nước đứng thứ ba thế giới về số người Ukraina sau Ukraina và Nga.
Tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu tại Ukraina là Chính thống giáo Đông phương, hiện thuộc về ba Giáo hội: Giáo hội Chính thống Ukraina - Tòa Thượng phụ Kyiv, Giáo hội Chính thống Ukraina (Tòa Thượng phụ Moskva) cơ quan nhà thờ tự quản thuộc Tòa Thượng phụ Moskva, và Giáo hội Chính thống Độc lập Ukraina. Giáo hội Chính thống giáo Ukraina hợp nhất được Tòa Thượng phụ Constantinopolis công nhận vào tháng 1 năm 2019.
Đứng thứ hai về số lượng tín đồ là Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina thuộc Nghi lễ Đông phương, thực hành truyền thống phụng vụ và tinh thần như Chính thống giáo Đông phương, nhưng hiệp thông với Toà thánh Vatican của Giáo hội Công giáo Rôma và công nhận vị trí lãnh đạo của Giáo hoàng như người lãnh đạo Hội Thánh.
Ngoài ra, có 863 cộng đồng Công giáo Rôma theo Nghi lễ Latin, và 474 giáo sĩ phục vụ khoảng một triệu tín đồ Công giáo Latin tại Ukraina. Nhóm này chiếm khoảng 2.19% dân số và chủ yếu gồm sắc tộc Ba Lan và Hungary, sống tại các vùng phía tây đất nước.Đạo Tin Lành cũng chiếm khoảng 2.19% dân số. Số tín đồ Tin lành đã tăng nhiều kể từ khi Ukraina giành độc lập. Liên đoàn Phúc âm Báp tít Ukraina là nhóm lớn nhất với hơn 150,000 thành viên và khoảng 3000 tăng lữ. Nhà thờ Tin lành đứng thứ hai là Hội thánh Đức tin Phúc Âm Ukraina (Phong trào Ngũ tuần) với 110000 thành viên và 1500 nhà thờ địa phương cùng hơn 2000 tăng lữ, nhưng cũng tồn tại các nhóm và liên hiệp Ngũ tuần khác tất cả là hơn 300,000 người với hơn 3000 nhà thờ địa phương. Tương tự có nhiều trường giáo dục cao học Ngũ tuần như Lviv Theological Seminary và Kyiv Bible Institute. Các nhóm khác gồm thuyết Canvin, Giáo hội Lutheran, Giám lý, Nhân chứng Jehovah và Giáo hội Cơ đốc Phục lâm. Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (Mormon) cũng tồn tại.
Có ước tính 500,000 tín đồ Hồi giáo tại Ukraina, và khoảng 300,000 trong số họ là người Tatar Crimea. Có 487 cộng đồng Hồi giáo có đăng ký, 368 trong số đó ở bán đảo Crimea. Ngoài ra, khoảng 50,000 người Hồi giáo sống tại Kiev; chủ yếu là người sinh ở nước ngoài. Cộng đồng Do Thái chỉ bằng một phần nhỏ cộng đồng có trước Thế chiến II. Các thành phố có đông người Do Thái nhất năm 1926 là Odessa, 154,000 hay 36.5% tổng dân số; và Kyiv, 140,500 hay 27.3%. Cuộc điều tra dân số năm 2001 cho biết có 103,600 người Do Thái tại Ukraina, dù các lãnh đạo cộng đồng tuyên bố dân Do Thái lên tới 300,000 người. Không có các con số thống kê về tỷ lệ người Do Thái Ukraina, nhưng Đạo Do Thái Chính thống có sự hiện diện mạnh nhất tại Ukraina. Các nhóm Cải cách và Bảo thủ (Masorti) cũng có tồn tại.
Giáo dục
Theo hiến pháp Ukraina, giáo dục miễn phí được cung cấp tới mọi công dân. Hoàn thành giáo dục cấp hai là bắt buộc tại các trường nhà nước và đại đa số học sinh đều qua cấp này. Giáo dục cao hơn miễn phí tại các cơ sở giáo dục nhà nước và vùng được cung cấp trên một cơ sở cạnh tranh. Cũng có một số nhỏ trường học và các cơ sở giáo dục cấp cao của tư nhân.
Vì sự nhấn mạnh của Liên xô trên tổng số người tiếp cận giáo dục trên toàn bộ dân số, vẫn tiếp tục đến ngày nay, tỷ lệ biết chữ được ước tính ở mức 99.4%. Từ năm 2005, một chương trình học mười một năm đã được thay thế bằng chương trình mười hai năm: giáo dục cấp một bốn năm (bắt đầu từ khi sáu tuổi), cấp hai năm năm; giáo dục cấp ba ba năm. Ở lớp 12, học sinh thực hiện các bài Kiểm tra Chính phủ, cũng được gọi là kỳ thi ra trường. Những bài kiểm tra này sau đó được sử dụng cho việc vào đại học.
Hệ thống giáo dục cao học Ukraina gồm các cơ sở giáo dục cao học, khoa học và phương pháp luận thuộc liên bang, địa phương và các cơ sở tự quản chịu trách nhiệm giáo dục. Tổ chức giáo dục cao học tại Ukraina được xây dựng theo cơ cấu giáo dục cao học của các nước phát triển trên thế giới, như được định nghĩa bởi UNESCO và UN.
Cơ sở hạ tầng
Đa phần hệ thống đường bộ Ukraina đã không được nâng cấp từ thời Xô viết, và hiện nay đã quá cũ. Chính phủ Ukraina đã cam kết xây dựng khoảng 4,500 km (2,800 dặm) đường cao tốc tới thời điểm năm 2012. Tổng cộng, đường trải nhựa tại Ukraina có chiều dài 164,732 km. Vận tải đường sắt tại Ukraina đóng vai trò quan trọng kết nối mọi vùng đô thị, cơ sở hải cảng và trung tâm công nghiệp quan trọng với các quốc gia láng giềng. Nơi tập trung nhiều mạng lưới đường sắt nhất là vùng Donbas của Ukraina. Mặc dù số lượng hàng hoá được vận chuyển bằng đường sắt đã giảm 7.4% năm 1995 so với năm 1994, Ukraina vẫn là một trong các quốc gia sử dụng đường sắt với mật độ cao nhất thế giới. Tổng chiều dài đường sắt tại Ukraina là 22,473 km, trong số đó 9,250 km đã được điện khí hoá.
Ukraina là một trong những quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn nhất Châu Âu; nước này sử dụng lượng điện gấp đôi Đức, trên mỗi đơn vị GDP. Một phần lớn lượng điện cung cấp tại Ukraina có từ các nhà máy điện hạt nhân, và nước này có được nguồn nguyên liệu hạt nhân chủ yếu từ Nga. Ukraina phụ thuộc nặng vào nguồn năng lượng nguyên tử của mình. Nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu, Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, nằm ở Ukraina. Năm 2006, chính phủ có kế hoạch xây dựng 11 lò phản ứng mới vào năm 2030, trên thực tế, hầu như tăng gấp đôi năng lực sản xuất điện hạt nhân. Lĩnh vực năng lượng Ukraina lớn hàng thứ 12 thế giới về công suất đã xây dựng, với 54 gigawatt (GW). Năng lượng tái tạo vẫn đóng một vai trò yếu kém trong sản xuất điện, vào năm 2005 lượng điện được đáp ứng từ các nguồn sau: hạt nhân (47%), nhiệt điện (45%), thủy điện và khác (8%).
Khác
Ghi chú a. Trong số những người Ukraina vươn lên các chức vụ cao nhất trong Đế quốc Nga là Aleksey Razumovsky, Alexander Bezborodko, Ivan Paskevich. Trong số những người Ukraina có ảnh hưởng lớn đến Giáo hội Chính thống giáo Nga trong thời kỳ này là Stephen Yavours, Feofan Prokopovich, Dimitry của Rostov.b. Xem bài viết Đại thanh trừng để biết thêm chi tiết.c. Ước tính số lượng tử vong khác nhau. Dữ liệu chính thức của Liên Xô không có sẵn vì chính phủ Liên Xô phủ nhận sự tồn tại của nạn đói. Xem bài viết Holodomor để biết chi tiết. Các nguồn khác nhau về việc diễn giải các tuyên bố khác nhau từ các chi nhánh khác nhau của các chính phủ khác nhau về việc liệu chúng có được công nhận chính thức về nạn đói là nạn diệt chủng của đất nước hay không. Chẳng hạn, sau tuyên bố do Latvian Sejm đưa ra vào ngày 13 tháng 3 năm 2008, tổng số quốc gia được đưa ra là 19 (theo người Ukraina BBC: ), 16 (theo Korrespondent, phiên bản tiếng Nga: ), "hơn 10" (theo Korr phóng viên, phiên bản tiếng Ukraina: ) Khôi phục ngày 27 tháng 1 năm 2008.d. Những con số này có khả năng cao hơn nhiều, vì chúng không bao gồm người Ukraina từ các quốc gia hoặc người Do Thái tại Ukraina, mà thay vào đó chỉ bao gồm người Ukraina, từ Ukraina Xô viết.e. Con số này không bao gồm các trường hợp tử vong POW.f. Theo dữ liệu chính thức điều tra 2001 (theo quốc tichh ; theo ngôn ngữ ) khoảng 75 phần trăm dân số Kiev đã trả lời 'tiếng Ukraina' cho câu hỏi điều tra dân số bằng tiếng mẹ đẻ (Ridna Mova) và khoảng 25 phần trăm trả lời "tiếng Nga". Mặt khác, khi câu hỏi "Bạn sử dụng ngôn ngữ nào trong cuộc sống hàng ngày?" đã được hỏi trong cuộc điều tra xã hội học năm 2003, câu trả lời của người Kiev được phân phối như sau: "chủ yếu là người Nga": 52%, "cả người Nga và người Ukraina với số đo bằng nhau": 32%, "chủ yếu là người Ukraina": 14%, "độc quyền tiếng Ukraina": 4,3%.g.' Những bài viết như vậy cũng là cơ sở cho văn học Nga và Belarus
Chú thích
Tham khảo
Edwards Mike: "Ukraine - Running on empty" National Geographic Magazine March 1993
Kuzio, Taras: Contemporary Ukraine: Dynamics of Post-Soviet Transformation, M.E. Sharpe, 1998, ISBN 0-7656-0224-5
Magocsi, Paul Robert, A History of Ukraine. University of Toronto Press, 1996 ISBN 0-8020-7820-6
Overy, Richard: The Dictators, W. W. Norton & Company, 2004, ISBN 0-393-02030-4
Piotrowski Tadeusz, Poland's Holocaust: Ethnic Strife, Collaboration with Occupying Forces and Genocide in the Second Republic, 1918-1947, McFarland & Company, 1998, ISBN 0-7864-0371-3
Shamshur O. V., Ishevskaya T. I., Multilingual education as a factor of inter-ethnic relations: the case of the Ukraine, in Language Education for Intercultural Communication, By D. E. Ager, George Muskens, Sue Wright, Multilingual Matters, 1993, ISBN 1-85359-204-8
Subtelny, Orest. Ukraine: A History, 1st edition. Toronto: University of Toronto Press, 1988. ISBN 0-8020-8390-0.
Weiner, Amir, Making Sense of War: The Second World War and the Fate of the Bolshevik Revolution, Princeton University Press, ISBN 0-691-09543-4, Part II
Wilson, Andrew, Ukrainian Nationalism in the 1990s: A Minority Faith, Cambridge University Press, ISBN 0-521-57457-9
Liên kết ngoài
Chính phủ
The President of Ukraine
Government Portal of Ukraine
The Parliament of Ukraine
Chief of State and Cabinet Members
Thông tin chung
Ukraine information from the United States Department of State
Portals to the World from the United States Library of Congress
Ukraine at UCB Libraries GovPubs''
Văn hoá Ukrainia
Ukrainian art. Most famous modern painters
Kyiv Rus'
Quốc gia châu Âu
Quốc gia Đông Âu
Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia và vùng lãnh thổ Slav
Cộng hòa
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ukraina
Nước cộng hòa thuộc Liên Xô
Nhà nước hậu Xô viết
|
25199
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%BAng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20t%E1%BB%B1%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Kalashnikov
|
Súng trường tự động Kalashnikov
|
{{Infobox weapon|name=AK-47|number=75 triệu khẩu AK-47 và 100 triệu biến thể của AK-47|feed=Hộp tiếp đạn cong 10, 20, 30, 40 viên Hộp tiếp đạn trống 75 và 100 viên (RPK)|range=|velocity=|rate=Tốc độ bắn lý thuyết:600 phát/phútTốc độ bắn chiến đấu:Phát một 40 phát/phútĐiểm xạ 100 phát/phút|action=Trích khí dàiKhóa nòng xoay|cartridge=7.62×39mm|part_length=Chiều dài tổng thể:Chiểu dài rãnh xoắn:|length=Báng gỗ: Báng xếp: |weight=Không có đạn:Băng đạn rỗng: (thép) (nhựa composite) (hợp kim nhẹ)|variants=Xem Các phiên bản|production_date=1948–nay|image=AK-47_assault_rifle.jpg|manufacturer=Tập đoàn Kalashnikov, Degtyaryov Plant (Nga)Norinco (Trung Quốc)Nhà máy Z111 (Việt Nam)...|design_date=1942–1947|designer=Mikhail Kalashnikov|wars=Xem chi tiết
Chiến tranh LạnhChiến tranh Việt NamChiến tranh biên giới Lào – Thái LanNội chiến LàoChiến tranh Nga-UkrainaNga xâm lược Ukraina 2022Khủng hoảng Nga–Ukraina 2021–2022Trận đánh Sievierodonetsk (2022)|used_by=Xem chi tiết
<li><li><li> Khối Warszawa<li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li></li/> Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|is_ranged=Yes|type=Súng trường tấn côngSúng tiểu liên |origin=|caption=AK-47 loại 3|image_size=300|sights=100–800m với điểm ruồi}}Súng trường tự động Kalashnikov (Автомат Калашникова (chữ Kirin) hoặc Avtomat Kalashnikov (chữ Latinh), viết tắt là АК hay AK) là một trong những súng trường tấn công (theo phân loại của NATO) hoặc súng tiểu liên (theo phân loại của khối xã hội chủ nghĩa) thông dụng nhất của thế kỷ XX, được thiết kế bởi Mikhail Kalashnikov. Tên gọi thông dụng của súng là AK-47. Theo phân loại của khối xã hội chủ nghĩa, AK-47 thuộc loại súng tiểu liên, họ súng máy. Theo phân loại của NATO, AK-47 thuộc loại súng trường tấn công, cũng thuộc họ súng máy.
Cho đến đầu thế kỷ 21, dù đã có hơn 70 năm tuổi thọ nhưng AK-47 và các phiên bản của nó vẫn là thứ vũ khí được ưa chuộng nhất, được lựa chọn là vũ khí tiêu chuẩn bởi trên 50 quân đội, ngoài ra nó còn phục vụ rất nhiều các lực lượng vũ trang, du kích khác tại hơn 100 quốc gia trên thế giới. Chi phí sản xuất, chi phí bảo dưỡng đều rất thấp, độ tin cậy, hiệu quả, độ bền bỉ rất cao trong điều kiện chiến đấu khắc nghiệt của loại súng này làm cho nó trở thành loại vũ khí cá nhân thông dụng nhất thế giới. Tầm bắn hiệu quả nhất của AK-47 trong khoảng 400 mét, chuyên dùng để tác chiến tầm ngắn và tầm trung., các phiên bản mới hơn có thể đạt tầm bắn hiệu quả xa hơn, khoảng 500 mét.
Với những ảnh hưởng của mình, AK-47 được gọi là một biểu tượng trong quân sự, một thứ vũ khí làm thay đổi bộ mặt chiến tranh. Hiện tại súng AK-47 đang là vũ khí cá nhân tiêu chuẩn cho quân đội của hơn 60 quốc gia trên thế giới. Rất nhiều quốc gia khác nữa sử dụng AK-47 cho các lực lượng cảnh sát, biên phòng. AK-47 còn là lựa chọn của các lực lượng nổi dậy và tội phạm trên khắp thế giới do độ bền rất cao và giá thành lại rẻ. Ngay cả ở Hoa Kỳ, nơi chế tạo ra loại súng đối thủ là M16, AK-47 cùng với các biến thể của nó (như mẫu shotgun như Saiga 12K) vẫn bán rất chạy trên thị trường súng dân sự Mỹ với số lượng hàng triệu khẩu đã được bán, tương đương số lượng súng AK-47 và các biến thể của nó mà quân đội Nga và cảnh sát Nga đang sở hữu
AK-47 là nền tảng để Liên Xô (sau này là Nga) nghiên cứu và phát triển thành các biến thể hiện đại hóa như: АKM, RPK, AK-74, RPK-74, AN-94, AK-103, AK-107, AK-12, RPK-16,... các phiên bản hiện đại hóa được làm bằng vật liệu nhẹ với công nghệ chế tạo hiện đại hơn và được trang bị thêm các phụ kiện như kính ngắm chấm đỏ, kính ngắm quang học, súng phóng lựu, nòng giảm thanh,.... Các quốc gia khác cũng phát triển một loạt mẫu súng mới dựa trên nền tảng của AK-47 như Galil ACE (Israel và Việt Nam), Rk 95 Tp (Phần Lan), Karabinek szturmowy wz. 1996 Beryl (Ba Lan), Zastava M21 (Serbia), K-56 (Trung Quốc và Việt Nam) và STL-1A, GK1, GK3 (Việt Nam).
Lịch sử
Bối cảnh
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc Xã phát triển mẫu súng trường tấn công, dựa vào nghiên cứu cho thấy đa số cuộc đấu súng xảy ra ở cự ly gần, trong vòng 350 mét. Uy lực của súng trường Karabiner 98k là quá mạnh (tầm bắn hiệu quả là 800m) nhưng tốc độ bắn lại quá chậm cho đa số cuộc đấu súng ở cự ly gần (tối đa 30 phát/phút). Súng tiểu liên MP-40 bắn nhanh, mật độ hỏa lực cao nhưng tầm bắn lại ngắn (chỉ khoảng 50 - 100 mét). Kết luận của các nhà quân sự Đức Quốc Xã là cần sáng chế một loại súng kết hợp giữa súng trường và súng ngắn liên thanh có các tính năng cơ bản như hộp tiếp đạn có sức chứa lớn, hỏa lực dày và chính xác với tầm bắn trung bình có hiệu quả đạt đến 350 mét. Súng tiểu liên StG 44 (MP-44) được ra đời, không dùng đạn nhẹ đầu tròn như MP-40 nữa mà chuyển sang dùng loại đạn 7,92x33 mm là loại đạn đầu nhọn có liều thuốc phóng lớn hơn.
Tuy nhiên, trong lịch sử, StG 44 không phải là loại súng đầu tiên có những tính năng này. Khẩu Fedorov ra đời trước đó (1916) đã mang trong mình thiết kế của súng trường tấn công. Fedorov sử dụng cỡ đạn trung bình 6,5x50mm giúp giảm giật, khiến cho khẩu súng bắn nhanh và có thể vừa chạy vừa bắn, nhưng vẫn đảm bảo sức công phá và tầm bắn hơn rất nhiều so với súng ngắn liên thanh. So với tiêu chuẩn của súng trường tấn công ngày nay, StG-44 vẫn chưa hoàn chỉnh: tầm bắn hiệu quả vào khoảng 300 mét (cao hơn súng tiểu liên nhưng thấp hơn súng trường tấn công tiêu chuẩn), không có ốp lót tay (xạ thủ phải nắm lấy băng đạn do không thể cầm vào phần đầu nòng súng dễ bị nóng khi bắn lâu, khiến việc lấy điểm ngắm ở cự ly xa trở nên khó khăn). Tuy nhiên, thiết kế của StG-44 là rất hoàn hảo trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai, tạo ra ưu thế cho lính Đức Quốc Xã trước các loại súng trường bắn phát một hoặc súng ngắn liên thanh thời đó của bộ binh đối phương. Điều này khiến ban lãnh đạo Liên Xô quyết định nghiên cứu, chế tạo ra mẫu súng trường tấn công của họ.
Vài nét về tác giả và quá trình sáng chế
Mikhail Timofeyevich Kalashnikov (Михаил Тимофеевич Калашников) bắt đầu sự nghiệp thiết kế súng từ năm 1942, khi ông đang dưỡng thương trong bệnh xá vào thời gian diễn ra chiến dịch Bryansk. Sau khi nhận thấy những bất ổn trong thiết kế súng tiểu liên, ông tham gia vào cuộc thi vũ khí mới sẽ sử dụng đạn 7,62x41 mm được phát triển bởi Elisarov và Semin vào năm 1943. Lúc đó, Hồng Quân đang mở một cuộc thi thiết kế một loại súng mới với yêu cầu là đáng tin cậy trong môi trường lầy lội, ẩm ướt và giá lạnh của Liên Xô, Kalashnikov tham gia.
Ông thiết kế một mẫu súng carbine dựa trên phần lớn thiết kế khẩu súng M1 Garand của Hoa Kỳ, và mẫu này thua mẫu của Sergei Gavrilovich Simonov (mẫu súng của Simonov sau này trở thành khẩu SKS/CKC). Cùng thời gian đó, quân đội Xô Viết cũng bắt đầu quan tâm với việc phát triển một loại súng trường tấn công thực thụ, sử dụng đạn M43 có kích thước ngắn hơn. Mẫu thiết kế đầu tiên của kiểu súng này được Aleksei Sudayev giới thiệu năm 1944 với tên AS-44. Tuy nhiên trong các cuộc thử nghiệm nó bị đánh giá là quá nặng nề và nòng súng của nó bị nóng lên rất nhanh. Sudayev qua đời vì bị ung thư dạ dày vào năm 1946, nên trước khi qua đời một thời gian, ông đã chỉ định Kalashnikov tiếp quản chương trình này. Một cuộc thi thiết kế khác được tổ chức vào hai năm sau đó, và lần này đội thiết kế của Kalashinkov lại tiếp tục đăng ký tham gia. Đó là một khẩu súng trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trích khí và khóa nòng mở để nạp đạn giống như mẫu carbine năm 1944 của ông, cùng với một hộp đạn cong chứa 30 viên.
Các mẫu súng của ông (ký hiệu AK-1 và AK-2) đã tỏ ra đáng tin cậy và vượt lên mẫu của các đối thủ khác, lọt vào vòng 2 của cuộc thi cùng với các mẫu thiết kế AB-47 của Bulkin và AD-47 của Dimentiev. Cuối năm 1946, khi các khẩu súng bắt đầu được thử nghiệm, một trong những trợ lý của Kalashnikov là Aleksander Zaytsev đề xuất một sự cải tổ lớn đối với thiết kế АК-1 của Kalashnikov với mục đích nâng cao độ tin cậy của súng. Lúc đầu, những người lính Hồng Quân nhận khẩu AK-1 từ Kalashnikov một cách miễn cưỡng. Họ đã quen đối phó với đối thủ bằng khẩu súng trường (hoặc súng tiểu liên) trong tay. Tuy nhiên, Aleksander Zaytsev đã thuyết phục được họ, kết quả là khẩu súng mới đã để lại một chùm lỗ thủng trên bia và vượt qua bài bắn kiểm tra tại trường bắn thử nghiệm. Cũng từ đây, súng trường tấn công Kalashnikov mẫu 1947 đã chứng tỏ được sự đáng tin cậy, tính đơn giản của nó và bắt đầu được trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949 với cái tên Súng trường tự động Kalashnikov (Автомат Калашникова), gọi tắt là AK, cỡ nòng 7,62mm.
Nguyên lý thiết kế
Mặc dù nhà thiết kế Mikhail Kalashnikov đã phủ nhận rằng khẩu AK-47 được ông thiết kế dựa trên khẩu StG 44 của người Đức Quốc Xã, nhưng một số người vẫn cho rằng AK-47 đã chịu ảnh hưởng từ thiết kế của StG-44 khi xét về mặt bề ngoài, cả hai khẩu súng này đều đặt ống trích khí ở ngoài ốp tay trên trong khi M-16 của Mỹ thì để trong ốp tay trên. Trên thực tế, cơ chế đóng khóa nòng của AK-47 khác biệt hoàn toàn so với StG 44. AK-47 sử dụng khóa nòng xoay còn StG-44 dùng khóa nòng trượt. Sau khi viên đạn bay ra khỏi nòng, cả AK-47, M-16 và StG-44 đều trích lại một phần khí, phần khí này sẽ đẩy bệ khóa nòng ra sau; đối với AK-47 và M-16, bệ khóa nòng sau khi bị đẩy ra sau sẽ làm xoay thoi đẩy trước khi thoi đẩy đẩy nạp viên đạn tiếp theo vào ổ súng; đối với StG-44, bệ khóa nòng bị đẩy về sẽ kéo thoi đẩy về cùng 1 lúc để tạo khoảng trống để viên đạn tiếp theo được nạp vào ổ súng. Về hệ thống lò xo, kim hỏa và cơ chế tháo lắp hộp khóa nòng thì StG-44 thậm chí còn giống M-16 của Hoa Kỳ hơn là giống AK-47.
AK-47 đúng là đã tích hợp được những đổi mới công nghệ súng trường so với trước đó: quá trình điểm hỏa được thực hiện bằng bệ khóa nòng lùi có lò xo đẩy về, sử dụng cụm khóa nòng kiểu then xoay như khẩu M1 Garand/M1 Carbine. Nhóm thiết kế của Kalashnikov có điều kiện tiếp cận tất cả các loại vũ khí này và họ không việc gì phải "sáng chế lại cái bánh xe".
Kalashnikov kể lại:
AK-47 được thiết kế với tiêu chí là độ tin cậy phải cao, bảo trì phải thật dễ dàng. Kể cả trong điều kiện chiến đấu rất khắc nghiệt, từ bùn lầy, cát bụi cho tới băng tuyết, xạ thủ vẫn chắc chắn rằng khẩu AK-47 của họ sẽ luôn khai hỏa được. Một câu chuyện nổi tiếng kể rằng: một viên trung tá quân đội Mỹ đi cùng nhà báo chiến trường David Hackworth tìm thấy một khẩu súng AK-47 bị chôn vùi dưới bùn đã hơn một năm, các bộ phận bằng kim loại của súng đã bị nước làm rỉ sét hoàn toàn, vậy mà nó vẫn khai hỏa được mà không bị kẹt đạn cũng như không cần chùi rửa gì.
Trong khi khẩu súng M16 của Mỹ cần những loại dầu cùng thiết bị bảo dưỡng đặc biệt thì việc bảo dưỡng khẩu AK-47 rất đơn giản. Chỉ cần lấy một sợi dây giầy, thắt vài nút, nhúng vào dầu máy và kéo qua nòng súng. Do vậy, AK-47 rất thích hợp với những đội quân "nhà nghèo" hoặc du kích, vốn không có điều kiện bảo dưỡng vũ khí thường xuyên.
Phát triển
Giai đoạn sản xuất ban đầu đã có những khó khăn. Trong mẫu súng đầu tiên, tấm kim loại mỏng của bộ phận đẩy khóa nòng thường hay bị bật ra. Khó khăn cũng xuất hiện khi thanh dẫn hướng được gia công bằng phương pháp hàn thường gây ra hiện tượng trượt lẫy. Những nhà sáng chế không dừng lại, họ thay tấm kim loại mỏng có tác dụng giảm giật bằng một khối kim loại nặng hơn. Quá trình thay thế này gây nên một số tốn kém nhất định nhưng bù lại, khi sử dụng bộ phận đẩy về bằng tay của khẩu Mosin-Nagant trước đây, nó vẫn hoạt động đủ nhanh và đủ chắc chắn. Bộ phận đẩy về của khẩu súng trường này được gia công lại và thay thế vào đó. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô không thể trang bị nhiều súng mới cho quân đội trước năm 1956. Trong thời gian này, súng trường CKC vẫn tiếp tục được sản xuất.
Một khi những khó khăn trong sản xuất đã được khắc phục, phiên bản thiết kế lại có tên AKM (M là chữ cái đầu tiên của từ "Modernizirovanniy", có nghĩa "hiện đại hoá" hoặc "nâng cấp" theo phiên âm tiếng Nga) được đưa vào sản xuất và trang bị năm 1959. Mẫu mới này sử dụng tấm kim loại che bộ phận đẩy về hình vát nghiêng, khuyết cạnh trên vị trí cuối nòng súng, lắp thêm bộ phận giảm giật ở miệng nòng. Ngoài ra, bộ phận hãm búa đập được chế tạo thêm để ngăn vỏ đạn không bắn vào xạ thủ khi chốt khóa nòng liên tục đóng mở trong chế độ bắn nhanh, tự động điểm hỏa. Đây là cũng là điều đôi khi xem như "giải pháp tình thế", hoặc là một "sự đánh đổi", có ảnh hưởng làm giảm nhịp bắn mỗi phút trong chế độ bắn tự động. Nó cũng làm cho súng nhẹ đi gần một phần ba so với mẫu trước đó.
Việc sản xuất AK ở nước ngoài kể cả có giấy phép và không có giấy phép diễn ra khá phổ biến, trong đó nhiều nhất là mẫu AKM. Một phần do thương hiệu sản phẩm dễ hấp dẫn khách hàng nên mẫu này thường có số lượng chế tạo lớn hơn. Tất cả súng trường dựa trên thiết kế súng AK thường bị quy là AK-47S ở miền Tây, mặc dù đây chỉ là sửa đổi súng trường với 3 sản phẩm ban đầu đã được đưa ra sử dụng. Ở đa số các quốc gia thuộc khối Đông Âu, hiểu biết về vũ khí đơn giản chỉ cần là "súng AK". Tấm hình phía trên bên phải minh họa sự khác biệt giữa kiểu sản phẩm thứ 2 nguyên bản và kiểu sản phẩm thứ 4 có thương hiệu, bao gồm sử dụng đinh tán chứ không phải là mối hàn trên sản phẩm có thương hiệu, cũng như cách tạo những gân sóng nhỏ trên ổ đạn làm cho ổ đạn có độ bền tốt hơn.
Vào năm 1978, Liên Xô bắt đầu thay AK-47 và AKM của họ bằng súng trường thiết kế mới hơn: khẩu AK-74. Loại súng trường mới này và đạn chỉ bắt đầu được xuất khẩu tại các quốc gia Đông Âu khi Liên Xô sụp đổ. Sự kiện nghiêm trọng này đã làm chậm lại việc sản xuất các vũ khí này của các nước trong khối Liên Xô cũ.
Các phiên bản của chủng loại súng АК
Các biến thể do Liên Xô và Nga sản xuất
Mặc dù thiết kế vào năm 1947 nhưng quân đội Liên Xô chính thức sử dụng AK-47 vào năm 1949, đến năm 1951 thì toàn bộ quân đội Xô Viết đã sử dụng AK-47. Sau đó, kiểu cải tiến của AK-47 là АKM ra đời vào năm 1959 và được sử dụng rộng rãi vào năm 1961. Năm 1974, kiểu AK-74 ra đời với nhiều cải tiến, đặc biệt là sử dụng cỡ đạn 5,45mm nhỏ hơn nhưng có trọng lượng phần sau đầu đạn lớn hơn phần trước để tăng sức sát thương đối mục tiêu mềm, thay cho cỡ đạn cũ là 7,62mm. Đến năm 1996, khi nhược điểm của loại đạn này thể hiện trong thực tế (sức xuyên phá kém hơn so với đạn 7,62mm), người Nga bắt đầu sản xuất các biến thể dùng lại cỡ đạn 7,62 mm với các mẫu AK mới từ phiên bản АK-103 và hiện nay là phiên bản АK-107.
Để phát triển công nghiệp vũ khí, từ năm 2001, Nga tiếp tục sản xuất song song hai phiên bản AK-107 và АK-108. Trong đó, АK-107 sử dụng đạn tiêu chuẩn Warsawa 5,45x39mm và phiên bản АK-108 có cấu tạo, tính năng như phiên bản АK-107 nhưng thay đổi đường kính nòng để sử dụng đạn tiêu chuẩn NATO 5,56x45mm.
Nhà sản xuất vũ khí lớn nhất của Nga Izhmash đã thiết kế mẫu súng trường Kalashnikov mới thay thế các khẩu АK đã cũ. Loại mới, được gọi là АK-12, có khả năng sử dụng linh hoạt hơn và có gần 20 chi tiết cải tiến so với loại cũ. Các quan chức của Izhmash cho biết, АK-12 có những tính năng đặc biệt, tạo ra sự khác biệt lớn với các loại súng khác và có thể trở thành mô hình cho sự phát triển của súng trường tấn công trong tương lai.
Bộ Nội vụ Nga đã tỏ ý quan tâm đến АK-12 và đã yêu cầu chế tạo hàng trăm khẩu để thử nghiệm. Bộ Quốc phòng Nga thì chưa tỏ ý quan tâm do còn tồn kho đến 7 triệu khẩu АK-74 nên sẽ không có kế hoạch đặt mua thêm bất kỳ loại súng nào trong năm 2012. Loại súng này đã gây ra các cuộc tranh luận vào thời điểm chưa có thông tin nào ngoài hình ảnh được công bố, điểm dễ nhận biết nhất của АK-12 so với AK-47 và АK-74 nhất là phần ray để gắn các phụ kiện nhưng báo chí Nga cho rằng chi tiết này chẳng có gì mới so với các súng trường tấn công M16 của Mỹ, IMI Negev của Israel hay các sản phẩm của Đức, và hỏi là loại súng này có cải tiến đủ nhiều và thêm các chức năng đủ để có thể được gọi là súng thế hệ thứ năm chưa nên một số báo chí Nga đã gọi АK-12 là một sự "lừa phỉnh" khi gọi АK-12 là súng thế hệ thứ năm. Còn hiện tại thì việc thử nghiệm АK-12 do Bộ Nội vụ tiến hành cho kết quả rất tốt.
Năm 2012, Hãng sản xuất AK của Nga Izhmash đã suýt chút nữa tuyên bố phá sản do tình hình tài chính bi đát. Vào năm 2011, Izmash lỗ hơn 80 triệu USD với sản lượng sản xuất giảm đến 45% về giá trị. Lý do quan trọng nhất là AK-47 bị sản xuất lậu ở khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn và rẻ hơn nhiều so với mua chính hãng tại Nga. Trên thị trường vũ khí toàn cầu thì tràn ngập AK được sản xuất lậu ở các nước như: Belarus, Bulgari, Romania, Serbia, ở các quốc gia châu Phi... và đặc biệt là ở Trung Quốc. Sau đó, công ty đã sáp nhập và trở thành một chi nhánh của tập đoàn nhà nước Rostexnology của Nga để tái cơ cấu và tiếp tục sản xuất cũng như tiếp tục nghiên cứu phát triển các mẫu mã mới.
Thông số cơ bản và tính năng của một số phiên bản AK
Mô tả cấu tạo, tính năng, thông số kỹ thuật
Ưu điểm chính của AK-47 chính là thiết kế đơn giản, kích thước nhỏ gọn và dễ sản xuất đại trà. Khẩu súng có chi phí sản xuất thấp, dễ lau chùi và bảo trì, đồng thời độ bền và độ tin cậy cao của nó đã trở thành huyền thoại.
Khẩu AK-47 ban đầu được thiết kế sao cho nó dễ dàng được sử dụng và sửa chữa bởi các binh sĩ Liên Xô đóng quân ở vùng Bắc Cực - đôi bàn tay phải mang những chiếc găng tay chống rét. AK có piston trích khí lớn, độ rơ rộng giữa các bộ phận chuyển động, ngay cả trong trường hợp các chuẩn mực chế tạo bị giảm so với thiết kế vẫn cho phép súng có thể chịu đựng được một lượng lớn tạp chất khi không có điều kiện bảo dưỡng định kỳ. Điều này làm cho độ chính xác trở nên thấp hơn, độ tản mát của các phát bắn trở nên cao hơn, nhưng thực ra vấn đề này không cần phải quan tâm, bởi AK-47 chuyên dùng để tấn công các mục tiêu cự ly dưới 400 mét bằng các loạt bắn liên thanh, ở cự ly này thì độ tản mát vài cm của các loạt đạn cũng chẳng gây ảnh hưởng đến khả năng bắn trúng mục tiêu. Đây là ảnh hưởng của học thuyết bộ binh Liên Xô trong thời gian đó, khi những súng trường tấn công được coi là một phần của sự tập trung hỏa lực bộ binh tầm gần chứ không phải độ chính xác ở tầm xa (nhiệm vụ bắn chính xác ở tầm xa đã có trung liên RPK, đại liên PK và súng bắn tỉa SVD Dragunov). Tuổi thọ của khẩu AK-47 dao động từ 20 đến 40 năm tùy theo môi trường sử dụng và công việc bảo trì vũ khí có thường xuyên hay không.
Một số đặc điểm cấu tạo
Các đặc điểm chính:
Rãnh xoắn: 4 rãnh, bước xoắn: 235 mm
Thước ngắm nằm ở phía đầu hộp khóa nòng (một số biến thể bố trí cuối hộp khóa nòng), có thể điều chỉnh dễ dàng bằng con chạy; được đúc liền với vai ngắm phía sau. Trên vai ngắm xẻ một khe ngắm hình chữ V ở chính giữa.
Đầu ruổi chỉ thị điểm ngắm có hai vách bảo vệ, có thể vặn vít lên cao, xuống thấp để hiệu chỉnh chi tiết về tầm bắn khi bắn chỉnh súng. Đầu ruồi được đặt trên một bệ đầu có chốt ngang dùng để chỉnh hướng. Khi đã chỉnh đúng hướng bắn, chốt này được cố định.
Lỗ trích khí ngang 1/3 nòng súng tính từ ngoài vào
Hệ thống thoi đẩy (pít-tông) liền khối với khóa nòng.
Búa đập quay, có lẫy hãm để bắn từng viên.
Thoi móc đạn kiểu rãnh xoay có tác dụng kéo vỏ đạn khỏi buồng đạn. Khi khóa nòng bị lực của khí trích đẩy lùi hoặc người bắn dùng tay kéo khóa nòng lùi, móc đạn vừa xoay vừa kéo vỏ đạn ra, lực kéo phân chia đều và xoay quanh vành vỏ đạn. So với cơ chế kéo thẳng vào vành vỏ đạn tại một điểm ở một số loại súng, cách xoay kéo vỏ đạn này làm giảm tối đa hiện tượng tắc đạn do không hất được vỏ đạn ra khỏi buồng đạn.
Tính năng
Tốc độ bắn lý thuyết: 600 phát/phút
Tốc độ bắn trong chiến đấu: 40 phát/phút khi bắn phát một và 100 phát/phút khi bắn liên thanh.
Chế độ điểm xạ 2 phát liên tiếp:
Do cấu tạo của súng không có chế độ điểm xạ 3 phát liên tiếp như M16 hoặc AR-15, nhưng do nhịp bắn chậm hơn hai loại súng này nên xạ thủ có thể tập luyện việc bóp cò, nhả cò đúng lúc để hai viên đạn liên tiếp được bắn ra. Phương pháp này được nhiều xạ thủ giỏi của Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng lần đầu trong Chiến tranh Việt Nam, hiện nay đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới mà không phụ thuộc vào tính năng của súng. Một xạ thủ cấp I có thể bắn điểm xạ hai viên AK-47 trúng bia số 7 ở khoảng cách 100 m với hai điểm chạm chỉ cách nhau 10 đến 15 cm.
Tầm bắn hiệu quả:
Chế độ bắn phát một: 800 m
Chế độ bắn liên thanh: 400 m (góc tà bằng 0 hoặc góc tà dương không quá 10 độ); 200 m (góc tà âm không quá 15 độ), có độ chụm cao nhất ở 300 m với góc tà bằng 0.
Trong thực tế thì loại súng này thường được đặt thước ngắm ở cự ly 300m tương ứng với tầm bắn thẳng và xạ thủ tự chỉnh đường ngắm đúng lên trên hoặc xuống dưới so với mục tiêu tùy theo mục tiêu ở trong hay ngoài khoảng cách này. Những xạ thủ giỏi thường cảm nhận được mức độ nảy lên của nòng súng khi điểm hỏa để điều chỉnh lực giữ súng trên ốp che tay cho phù hợp, bảo đảm loạt đạn bắn ra có độ tản mát nhỏ nhất.
Sự phổ biến
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các quốc gia Liên Xô, CHND Trung Hoa, Hoa Kỳ đã cung cấp và viện trợ hàng loạt vũ khí cũng như các công nghệ quân sự cho các tổ chức và quốc gia đồng minh với mình. Lúc đó, các loại súng sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ như M14, M16 rất đắt tiền, vì vậy Hoa Kỳ chủ yếu viện trợ các vũ khí dư thừa thuộc thế hệ cũ hơn cho các đồng minh. Trong khi đó, chi phí sản xuất thấp của súng AK khiến cho Liên Xô có thể chế tạo vũ khí này với số lượng rất lớn và cung cấp cho các đồng minh của họ thay cho các vũ khí thừa thuộc thế hệ cũ. Kết quả là trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, khẩu AK được Liên Xô và Trung Hoa viện trợ với số lượng lớn (thậm chí là cho không) đến các quốc gia và tổ chức đồng minh cộng sản của họ, ví dụ như Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam ở Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Sandinista ở Nicaragua. Những khẩu súng AK đã có mặt trong quân đội của hơn 60 quốc gia và hàng trăm tổ chức bán quân sự khác.
Sau nhiều lần hoàn thiện, AK-47 được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến tranh. Trong toàn bộ thời kỳ chiến tranh lạnh và trong các cuộc xung đột lớn nhỏ trên toàn cầu hiện nay, AK-47 vẫn là loại súng phổ biến nhất thế giới, được rất nhiều lực lượng quân đội, các lực lượng vũ trang của trên thế giới cho đến các tổ chức tội phạm, tổ chức khủng bố sử dụng vì tính năng độ tin cậy rất cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn. Thậm chí, khi vớt khỏi bùn, chỉ cần tháo ra, dùng nước rửa sạch các bộ phận, lắp ráp lại là có thể bắn được. Các nguyên vật liệu để chế tạo súng tương đối phổ cập, chủ yếu là thép và gỗ. Trong điều kiện công nghệ phát triển không cao nhưng nhiều nước đang phát triển và cả một số nước kém phát triển cũng đã chế tạo được khẩu súng này với giá thành rẻ. Theo số liệu của nhà kinh tế Phillip Killicoat, Đại học Oxford, Anh, giá trung bình của một khẩu AK-47 bán vào năm 2005 là 534 USD. Trong khi đó, riêng ở châu Phi, súng AK-47 được bán với giá rẻ hơn khoảng 200 USD (chỉ bằng 1/8 so với giá của 1 khẩu M-16), các khẩu АК có nguồn gốc trôi nổi có thể còn rẻ hơn nữa.
Do cấu tạo không quá phức tạp, dễ tháo lắp, chỉ cần một số dụng cụ cơ khí đơn giản (búa, kìm, đột, tống chốt, giũa, chổi con sâu), xạ thủ có thể bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ dễ dàng. Các bộ phận phụ: ốp che tay, báng, tay nắm bóp cò đều làm bằng gỗ nên rất dễ tự chế theo mẫu. AK có thể chịu được tuyết, bùn, băng giá, nước, cát bụi; rất phù hợp với những chiến trường có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.. Ở Việt Nam, AK-47 được Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam sử dụng liên tục và phổ biến trong Chiến tranh Việt Nam từ giữa thập niên 1960 cho đến hiện tại với số lượng hàng triệu khẩu.
Tính đến giữa năm 2012, thì nhu cầu về súng AK-47 trên thị trường thế giới vẫn rất lớn với hơn 100 triệu khẩu đã được chế tạo trên khắp thế giới. Ngay cả dân Hoa Kỳ cũng đổ xô đi mua và sưu tầm súng AK-47 với số lượng tương đương số lượng mà lực lượng quân đội và cảnh sát Nga sở hữu và được đánh giá là "chất lượng và tính linh hoạt vượt xa bất cứ thứ gì khác trên thị trường". Đến nay, mỗi khi ra chiến trường thì lính Mỹ luôn mang theo băng đạn AK để sẵn sàng cho việc khi khẩu M4 Carbine của họ hết đạn thì họ sẽ nhặt AK của phiến quân khủng bố lên sử dụng tiếp.
Các quốc gia sản xuất AK ngoài Liên Xô
Danh sách này chỉ tính các quốc gia sản xuất AK-47 chỉ với mục đích cung cấp cho quân đội. Tất nhiên AK-47 còn được sản xuất ở những nơi khác và mục đích khác. Một phiên bản AKM nâng cấp vẫn còn được sản xuất ở Nga.
Bản quyền
Nga lâu nay luôn khẳng định rằng một lượng lớn súng AK-47 được sản xuất mà không được cấp phép từ Izmash. Vì vậy, trên lý thuyết, việc những xưởng sản xuất khác ngoài Izhevsk tự tiện sản xuất AK được xem như là bất hợp pháp. Tuy nhiên, hiện nay gần một triệu khẩu AK-47 đã được sản xuất trái phép mỗi năm.
Việc buôn bán trái phép các khẩu súng AK
Khẩu AK và các biến thể của nó là một trong những vũ khí cầm tay thịnh hành nhất trong thị trường chợ đen trên toàn thế giới, nó đã được bán trái phép cho các chính quyền, các phiến quân, các tổ chức tội phạm và các cá nhân với sự giám sát rất lỏng lẻo. Ở một số quốc gia, giá của khấu AK rất rẻ; tại Pakistan, Somalia, Rwanda, Mozambique, CHDC Congo và Ethiopia, giá cả dao động từ 30 đến 125 USD mỗi khẩu và càng ngày càng thấp trong những thập niên gần đây do vô số các sản phẩm nhái của khẩu AK gốc đã được sản xuất. Khi Moisés Naím khảo sát một thị trấn nhỏ của Kenya năm 1986, một khẩu AK-47 có giá bằng 15 con bò nhưng vào năm 2005 giá giảm xuống chỉ còn bốn con bò, việc này có nghĩa là nguồn cung cấp súng AK rất phong phú. AK-47 đã xuất hiện trong các cuộc xung đột vũ trang tại bán đảo Balkan, tại Iraq, Afghanistan và Somalia.
Tổ chức Ngân hàng Thế giới đã ước tính: trong số 500 triệu vũ khí cầm tay được lưu hành trên thế giới, có đến 100 triệu là các vũ khí thuộc họ Kalashnikov, và 75 triệu là các khẩu AK-47. Vì được sử dụng quá rộng rãi nên thương vong do AK-47 gây ra cũng vượt xa các loại vũ khí khác. Người ta ước tính rằng số thương vong do súng trường AK-47 gây ra nhiều hơn số người chết do các loại pháo binh, không kích và rocket cộng lại. Mỗi năm có khoảng 1 triệu người chết do trúng đạn từ súng trường Kalashnikov với nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau.
Trong một hội nghị của Liên Hợp Quốc về việc giải quyết những vấn nạn gây ra bởi các vũ khí được buôn bán trái phép vào năm 2006, Mikhail Kalashnikov nói rằng ông đánh giá cao vai trò của súng AK-47 trong lĩnh vực quốc phòng, nhưng việc những sản phẩm nhái lại khẩu AK, việc những kẻ buôn lậu lợi dụng thương hiệu Kalashnikov để bán loại súng này cho các thành phần khủng bố và những kẻ tội phạm đã khiến ông rất tức giận.
Ảnh hưởng của AK-47 trong văn hóa
Biểu tượng của một số quốc gia và một số tổ chức sử dụng hình dạng của khẩu AK-47 như một yếu tố hình tượng bên cạnh các yếu tố hình tượng khác. Hình ảnh của khẩu AK-47 đã xuất hiện trong Quốc kỳ và quốc huy của Mozambique, một sự thừa nhận rằng các nhà lãnh đạo của các quốc gia này giành được quyền lực phần nào nhờ vào việc sử dụng hiệu quả các khẩu AK-47. AK-47 cũng xuất hiện trên quốc huy Zimbabwe và Đông Timor, quốc huy của Burkina Faso những năm 1984-1997, cờ của tổ chức Hezbollah, và biểu trưng của lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran.
Vào năm 2006, nhạc sĩ kiêm nhà hoạt động hòa bình người Colombia César López đã chế tạo một nhạc cụ mang tên escopetarra, thực chất đây là một chiếc đàn ghi-ta được làm từ một khẩu súng AK. Một cây đàn như thế này đã được bán với giá 17,000 USD trong một buổi gây quỹ từ thiện nhằm giúp đỡ những nạn nhân của mìn. Một cây đàn khác đã được trưng bày tại Hội nghị giải trừ quân bị của Liên Hợp Quốc.
Biểu tượng của quốc gia có hình khẩu AK-47
Xem thêm
Vũ khí dòng AK
AK-12
AK-74
AK-101
AK-103
AK-105
AK-107/108
Khác
Danh sách vũ khí chịu ảnh hưởng từ thiết kế của Kalashnikov
Chú thích
Tham khảo
Bolotin, D.N, "Soviet Small-Arms and Ammunition"
Cutshaw, Charlie; Shilin, Valery. Legends and Reality of the АК: A Behind-the-Scenes Look at the History, Design, and Impact of the Kalashnikov Family of Weapons. Boulder, CO: Paladin Press, 2000 (paperback, ISBN 1-58160-069-0).
(Before his death, Ezell was the curator of military history at the Smithsonian Museum.)
Hodges, Michael. АК47: the Story of the People's Gun. Luân Đôn: Sceptre, 2007 (hardcover, ISBN 0-340-92104-8).
Kahaner, Larry. АК-47: The Weapon that Changed the Face of War. Hoboken, NJ: Wiley, 2006 (hardcover, ISBN 0-471-72641-9).
Kalashnikov, Mikhail. The Gun that Changed the World. Cambridge: Polity Press, 2006 (hardcover, ISBN 0-7456-3691-8; paperback, ISBN 0-7456-3692-6).
Long, Duncan. АК47: The Complete Kalashnikov Family Of Assault Rifles. Boulder, CO: Paladin Press, 1888 (paperback, ISBN 0-87364-477-8).
Walter, John. Kalashnikov (Greenhill Military Manuals). Luân Đôn: Greenhill Books, 1999 (Hardcover, ISBN 1-85367-364-1).
Liên kết ngoài
АК-47 Museum virtual tour
Vũ khí Liên Xô
Súng trường Nga
Súng trường tấn công
Súng 7,62 mm
Vũ khí trong Chiến tranh Việt Nam
Phát minh của Nga
Phát minh của Liên Xô
Kalashnikov
Súng của Nhà máy Kalashnikov
Kalashnikov
|
25201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20d%E1%BB%AF%20li%E1%BB%87u
|
Siêu dữ liệu
|
Siêu dữ liệu (metadata) là dạng dữ liệu mô tả thông tin chi tiết về dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu, metadata là các sửa đổi dạng biểu diễn khác nhau của các đối tượng trong cơ sở dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu quan hệ thì metadata là các định nghĩa của bảng, cột, cơ sở dữ liệu, view và nhiều đối tượng khác. Trong kho dữ liệu, metadata là dạng định nghĩa dữ liệu như: bảng, cột, một báo cáo, các luật doanh nghiệp hay những quy tắc biến đổi. Metadata bao quát tất cả các phương diện của kho dữ liệu. Trong quản lý tập tin, metadata chứa các thông tin thuộc tính của tập tin đó như: tên tập tin, mô tả tóm tắt, kích cỡ, ngày tạo ra,...
Metadata phải chứa những thông tin:
Cấu trúc của dữ liệu
Thuật toán sử dụng để tổng hợp dữ liệu
Ánh xạ xác định sự tương ứng dữ liệu từ môi trường tác nghiệp sang kho dữ liệu
Metadata là dữ liệu để mô tả dữ liệu. Khi dữ liệu được cung cấp cho người dùng cuối, thông tin metadata sẽ cung cấp những thông tin cho phép họ hiểu rõ hơn bản chất về dữ liệu mà họ đang có. Những thông tin này sẽ giúp cho người dùng có được những quyết định sử dụng đúng đắn và phù hợp về dữ liệu mà họ có.
Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng khác nhau, từng loại dữ liệu khác nhau mà cấu trúc và nội dung dữ liệu metadata có thể có những sự khác biệt. Song, nhìn chung sẽ bao gồm một số loại thông tin cơ bản sau:
Thông tin mô tả về bản thân dữ liệu metadata
Thông tin về dữ liệu mà metadata mô tả
Thông tin về cá nhân, tổ chức liên quan đến dữ liệu metadata và dữ liệu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Understanding Metadata: What is metadata, and what is it for? — NISO, 2017
"A Guardian guide to your metadata" — The Guardian, 2013.
Quản trị dữ liệu
Quản lý kỷ lục
Biểu diễn tri thức
Phân loại và biên mục thư viện
Truyền thông kỹ thuật
Kinh doanh thông minh
|
25216
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20D%E1%BB%A5c%20Thanh
|
Trường Dục Thanh
|
Dục Thanh Học hiệu (viết tắt của: Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một ngôi trường do các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận sáng lập vào năm 1907 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ.
Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã dừng chân dạy học một thời gian trước khi vào Sài Gòn trong chuyến xuất ngoại.
Thành lập và hoạt động
Đầu thế kỷ 20, Bình Thuận là nơi hội tụ nhiều sĩ phu yêu nước, ban đầu do phong trào tị địa ở miền Nam, sau đó do sự sách nhiễu của các quan lại phong kiến ở các tỉnh miền Trung, nên vào năm 1905, khi Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp ghé qua Bình Thuận trong một chuyến Nam du, thì hạt giống Duy Tân mọc rễ ở đây.
Với sự giới thiệu của Trương Gia Mô, ba cụ đã gặp các ông Nguyễn Trọng Lội (hay Lợi), Nguyễn Quý Anh (là hai con trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông), Hồ Tá Bang và truyền bá tư tưởng Duy Tân của mình. Với sự góp mặt thêm của các ông Ngô Văn Nhượng, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, sáu ông đứng ra sáng lập ra 3 tổ chức với các nhiệm vụ chính trị - văn hoá - kinh tế gắn liền nhau, tương ứng với cương lĩnh hành động 3 điểm "Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh" của phong trào Duy Tân hồi bấy giờ:
Dục Thanh Học Hiệu: mở trường dạy cho con em người yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, được thành lập năm 1907.
Liên Thành Thư Xã: truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước, được thành lập năm 1905.
Liên Thành Thương Quán: làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân, được thành lập năm 1906.
Liên Thành Thương Quán hoạt động có hiệu quả, bí mật đóng góp một phần tài chính cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và các phong trào giải phóng dân tộc về sau. Liên Thành thư xã do Nguyễn Hiệt Chi phụ trách mời nhiều diễn giả đến diễn thuyết, trong đó có Phan Châu Trinh, gây được tiếng vang sôi nổi. Đặc biệt Dục Thanh học hiệu đã đào tạo được một lớp trẻ học tập theo sách vở và tinh thần mới.
Trường Dục Thanh được xây dựng năm 1907 (cùng năm xây dựng với trường Đông Kinh Nghĩa Thục) ngay trên đất nhà thờ họ Nguyễn ở làng Thành Đức (ngày nay là nhà số 39 phố Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa, Phan Thiết). Cấu trúc chính của trường gồm 2 nhà lớn bằng gỗ dùng làm phòng học, một ngôi nhà lầu nhỏ - Ngoạ Du Sào - là nơi bàn việc, tiếp khách quý, luận đàm văn thơ và nhà Ngự làm nơi ở chung của các thầy và trò xa nhà.
Kinh phí hoạt động của trường nhờ vào 2 nguồn: huê lợi từ 10 mẫu nhất đẳng điền do ông Huỳnh Văn Đẩu - một phú gia có lòng ái quốc ở địa phương - hiến cho và tài trợ của Liên Thành Thương Quán. Nhờ đó học sinh ăn học không phải trả tiền, thầy giáo chỉ nhận trợ cấp mà không hưởng lương.
Trường do ông Nguyễn Quý Anh làm Giám Hiệu, với hai giảng viên chính là Nguyễn Hiệt Chi và Trần Đình Phiên. Trường có 4 lớp học, số học sinh lúc cao nhất vào khoảng 100 học sinh, từ Sài Gòn ra, từ Đà Nẵng, Hội An vào, và nhiều nơi khác ở Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ, do nhiều bà con của các thân sỹ gửi gắm trọ học. Chương trình dạy của trường do Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội biên khảo, chú giải, được gửi vào Phan Thiết qua ông Đình nguyên hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, bạn thân giao của Trần Lệ Chất.
Trường có nội quy rất nghiêm cho tất cả học sinh. Buổi sáng hàng ngày từ lúc 6 giờ sáng, chiều lúc 17 giờ, sau khi tập thể dục xong, học sinh xếp hàng thật ngay ngắn đi vào lớp. Vào lớp rồi, tất cả học sinh xếp tay vòng trước ngực hát bài ca ái quốc, dựa theo Bài thơ "Quốc Hồn Ca" do Phan Chu Trinh viết vào năm 1907, được chọn làm bài học thuộc lòng cho mỗi môn sinh.
Trường Dục Thanh và Nguyễn Tất Thành
Tháng 8 năm 1910, Nguyễn Tất Thành được ông nghè Trương Gia Mô - vốn là bạn đồng liêu cũ của cụ Nguyễn Sinh Sắc - giới thiệu với Hồ Tá Bang đến Phan Thiết dạy học tại ngôi trường này. Một trong những học sinh của trường là Nguyễn Kinh Chi con cụ Nguyễn Hiệt Chi, về sau là Bác sĩ, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội khóa I - IV, là học trò trực tiếp của thầy Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy Chữ Quốc ngữ và Hán văn, ngoài ra, còn kiêm nhiệm dạy môn thể dục. Trong thời gian này, ngoài những nội dung được phân công giảng dạy, Nguyễn Tất Thành còn truyền bá lòng yêu quê hương đất nước, nòi giống tổ tiên cho học sinh. Trong những giờ học ngoại khóa hay những lúc rảnh, Nguyễn Tất Thành còn dẫn học sinh của mình du ngoạn cảnh đẹp ở Phan Thiết như bãi biển Thương Chánh, động làng Thiềng, Đình làng Đức Nghĩa.
Tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh vào Sài Gòn với giấy thông hành tên Văn Ba do Trần Lệ Chất và Hồ Tá Bang lo giúp.
Cuối năm 1911, ông Nguyễn Quý Anh chuyển vào Sài Gòn đảm trách Đổng lý phân cuộc Liên Thành ở Chợ Lớn, không còn ai giám hiệu và vì nhiều lý do khách quan khác nên trường đóng cửa vào năm 1912. Liên Thành Thư xã cũng đóng cửa ít lâu trước đó, chỉ còn công ty Liên Thành thì vẫn hoạt động mãi đến hiện tại. Hiện di tích Trường Dục Thanh thành phố Phan Thiết đã được tỉnh Bình Thuận phục dựng theo mô tả của các học trò cũ của trường vào thời điểm thầy giáo Nguyễn Tất Thành tham gia giảng dạy, là một địa điểm văn hóa du lịch của cả nước. Phần di tích cũ còn lại nguyên vẹn gồm có cây khế mà Nguyễn Tất Thành đã chăm sóc và giếng nước mà Nguyễn Tất Thành mỗi ngày lấy nước tưới cây.
Xem thêm
Công ty Liên Thành
Đông Kinh Nghĩa Thục
Phong trào Duy Tân
Phong trào Đông Du
Chú thích
Tham khảo
Liên Thành Thông Sử - Achevé d'imprimer le 25 janvier 1984. Imprimerie Funam a Gennevilliers pour Dr. Hô-Ta-Khanh
Liên kết ngoài
Phan Thiết
Hồ Chí Minh
Trường trung học tại Bình Thuận
|
25218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1
|
Bóng đá
|
Bóng đá (hay còn gọi là túc cầu, đá banh, đá bóng; tiếng Anh-Anh: association football hoặc ngắn gọn là football, tiếng Anh-Mỹ: soccer) là một môn thể thao đồng đội được chơi với quả bóng hình cầu giữa hai đội bao gồm 11 cầu thủ mỗi bên. Môn thể thao này có khoảng hơn 250 triệu người chơi ở hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, khiến môn này trở thành môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới. Môn này chơi trên một mặt sân hình chữ nhật được gọi là sân bóng đá với một khung thành ở mỗi đầu. Mục tiêu là ghi bàn vào khung thành đối phương. Đội nào có số bàn thắng nhiều hơn sẽ giành chiến thắng.
Bóng đá được chơi theo một bộ luật gọi là Luật bóng đá. Quả bóng có chu vi . Hai đội thi nhau đưa bóng vào khung thành đội đối thủ (giữa cột dọc và dưới xà ngang), qua đó ghi bàn. Các cầu thủ không được phép dùng tay hoặc chạm tay vào bóng khi đang chơi, ngoại trừ thủ môn trong vòng cấm. Những cầu thủ khác chủ yếu dùng chân để tấn công hoặc chuyền bóng, nhưng cũng có thể sử dụng bất kỳ bộ phận nào khác trên cơ thể ngoại trừ bàn tay và cánh tay. Đội nào ghi nhiều bàn thắng hơn vào cuối trận là đội chiến thắng; nếu cả hai đội ghi được số bàn thắng bằng nhau, tỷ số hòa được công nhận hoặc trận đấu sẽ bước vào hiệp phụ hay loạt sút luân lưu tùy theo thể thức thi đấu. Mỗi đội được dẫn dắt bởi một đội trưởng, người chỉ có trách nhiệm chính thức theo quy định của Luật bóng đá: đại diện cho đội của họ tung đồng xu trước khi bắt đầu trận đấu hoặc đá luân lưu.
Bóng đá thế giới được điều hành bởi Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA; ), tổ chức các kỳ World Cup cho cả nam và nữ bốn năm một lần. Giải vô địch bóng đá nam thế giới bắt đầu diễn ra kể từ năm 1930, ngoại trừ năm 1942 và 1946 đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ hai. Khoảng 190–200 đội tuyển quốc gia tham gia thi đấu trong các trận đấu vòng loại thuộc phạm vi từng liên đoàn châu lục để giành được một suất tham dự vòng chung kết. Vòng chung kết, được tổ chức bốn năm một lần, có sự tham gia của 32 đội tuyển quốc gia tranh tài trong thời gian bốn tuần (con số này tăng lên 48 đội vào năm 2026). Đây là giải đấu bóng đá nam danh giá nhất thế giới cũng như là sự kiện thể thao có lượng người xem và theo dõi nhiều nhất trên thế giới, vượt qua Thế vận hội Mùa hè. Tương tự, Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức lần đầu kể từ năm 1991 mặc dù môn thể thao này đã được chơi bởi phụ nữ kể từ khi nó tồn tại. Kỷ lục có 1,12 tỷ người xem giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 tại Pháp.
Những giải đấu danh giá nhất của các câu lạc bộ châu Âu là UEFA Champions League và UEFA Women's Champions League, thu hút lượng khán giả truyền hình đông đảo trên toàn thế giới. Trận chung kết của giải nam, trong những năm gần đây, là sự kiện thể thao thường niên được theo dõi nhiều nhất trên thế giới. Năm giải bóng đá vô địch quốc gia nam hàng đầu châu Âu là Premier League (Anh), La Liga (Tây Ban Nha), Bundesliga (Đức), Serie A (Ý) và Ligue 1 (Pháp). Thu hút hầu hết các cầu thủ xuất sắc nhất thế giới, mỗi giải đấu có tổng chi phí tiền lương vượt quá 600 triệu bảng/763 triệu euro/1,185 tỷ đô la Mỹ.
Tổng quan
Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi theo các quy tắc đề ra trong Luật bóng đá (tiếng Anh: Laws of the Game). Các vận động viên tham gia chơi bóng đá được gọi là các cầu thủ, họ sử dụng một trái bóng hình cầu được gọi đơn giản là quả bóng đá, trái bóng hoặc trái banh. Trong trận đấu bóng đá, hai đội, mỗi đội gồm 11 cầu thủ sẽ tìm cách đưa trái bóng vào khung thành (còn gọi là cầu môn), đội nào đưa bóng vào khung thành đối phương nhiều hơn (ghi được nhiều bàn thắng hơn) sẽ là đội giành chiến thắng, nếu hai đội có số lần đưa bóng vào khung thành đối phương như nhau, hoặc không đội nào làm được việc này thì trận đấu sẽ kết thúc với kết quả hòa.
Quy tắc cơ bản nhất của môn bóng đá là các cầu thủ, trừ người bảo vệ khung thành (được gọi là thủ môn), được phép sử dụng bất cứ bộ phận nào trên cơ thể để chơi bóng trừ hai cánh tay và bàn tay của họ (tuy nhiên cầu thủ phải dùng tay để thực hiện việc ném biên). Trong một trận đấu thông thường, cầu thủ có thể chơi ở bất cứ vị trí nào và có thể đưa quả bóng theo bất cứ hướng nào trên sân, trừ trường hợp cầu thủ rơi vào thế việt vị thì không thể nhận bóng. Dựa vào các quy tắc cơ bản này, cầu thủ thường dùng chân để thực hiện các động tác kỹ thuật như rê bóng, dắt bóng, lừa bóng, chuyền bóng cho đồng đội, sút bóng, với mục đích chính là tìm cách đưa bóng vào khung thành đối phương và ngăn không cho đối phương đưa bóng vào khung thành đội nhà. Cầu thủ hai đội có thể va chạm nhau thông qua các pha tranh bóng, tắc bóng nhưng tuyệt đối không được phạm những lỗi ghi trong luật như chuồi bóng từ phía sau, đẩy người, tiểu xảo. Điều khiển trận đấu là tổ trọng tài bao gồm một trọng tài chính và hai trọng tài biên, trọng tài chính sử dụng một chiếc còi cùng hai loại thẻ, thẻ vàng và thẻ đỏ, và có trách nhiệm bắt đầu, kết thúc hoặc tạm dừng trận đấu. Một trận đấu bóng đá thông thường có hai hiệp, mỗi hiệp 45 phút với khoảng thời gian 15 phút nghỉ giữa hai hiệp.
Tên gọi
Bóng đá là một môn thể thao xuất hiện từ những trận đấu khác nhau trên khắp thế giới từ thời cổ đại. Trong tiếng Anh, nó thường được gọi là "football" ở Vương quốc Anh và hầu hết Ulster ở bắc Ireland. Tuy nhiên, trong các khu vực và quốc gia khác, như Úc, Canada, South Africa, most of Ireland (excluding Ulster), Canada, Nam Phi, phần lớn Ireland (ngoại trừ Ulster) và Hoa Kỳ, nó được biết đến với tên gọi "soccer" theo các quy tắc và mã bóng đá phổ biến khác. Ở Nhật Bản, trò chơi này chủ yếu được gọi là (), xuất phát từ thuật ngữ "soccer". Một ngoại lệ đáng chú ý là New Zealand, nơi trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21, bất chấp sự thống trị của quy tắc bóng bầu dục, "football" đã trở nên phổ biến nhờ tác động của truyền hình quốc tế.
Thuật ngữ "soccer" xuất phát từ ngôn ngữ lóng "Oxford "-er"", được sử dụng phổ biến tại Đại học Oxford ở Anh từ khoảng năm 1875, và được cho là đã được mượn từ ngôn ngữ lóng của Trường Rugby. Ban đầu được viết là "assoccer", sau đó được rút gọn thành cách viết hiện đại. Hình thức lóng này cũng tạo ra các từ "rugger" để chỉ bóng bầu dục, "fiver" và "tenner" để chỉ tờ tiền 5 bảng và 10 bảng của Anh, và từ cũ "footer" cũng là một tên gọi khác cho bóng đá. Từ "soccer" đã đạt được hình thức cuối cùng vào năm 1895 và được ghi nhận lần đầu vào năm 1889 với hình thức trước đó là "socca".
Lịch sử
Các môn thể thao tương tự bóng đá hiện đại (với mục đích đá bóng vào khung thành đối phương) đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới từ rất lâu. Theo FIFA thì dạng bóng đá cổ xưa nhất bao gồm đầy đủ các kỹ thuật chơi bóng có lẽ xuất phát từ Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 2 hoặc 3 TCN, môn xúc cúc (蹴鞠, đá bóng). Ở La Mã cổ đại cũng xuất hiện một môn thể thao chơi bóng có những nét giống bóng đá, đó là môn harpastum.
Môn bóng đá với các luật chơi gần như ngày nay bắt đầu phổ biến từ giữa thế kỷ 19 tại các trường học trên nước Anh. Bộ luật bóng đá hiện đại cổ nhất mà ta biết là bộ luật mà ngày nay thường được biết đến dưới tên Bộ luật Cambridge (tiếng Anh: Cambridge Rules). Sở dĩ có tên gọi này vì chính trong khuôn viên Trinity College thuộc Đại học Cambridge, đại diện của năm trường Eton, Harrow, Rugby, Winchester và Shrewsbury đã tổ chức họp mặt để thống nhất một luật chơi đầu tiên cho môn bóng đá. Cũng trong thập niên 1850, các đội bóng nghiệp dư bắt đầu được thành lập và thường mỗi đội xây dựng cho riêng họ những luật chơi mới của môn bóng đá, trong đó đáng chú ý có câu lạc bộ Sheffield F.C.. Việc mỗi đội bóng có luật chơi khác nhau khiến việc điều hành mỗi trận đấu giữa họ diễn ra rất khó khăn. Nỗ lực đáng kể nhất trong việc chuẩn hóa luật chơi môn bóng đá là việc thành lập Hiệp hội bóng đá Anh (The Football Association, thường viết tắt là FA) vào ngày 26 tháng 10 năm 1863 tại Great Queen Street, Luân Đôn. Sau 5 cuộc họp diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12, bộ luật đầy đủ và toàn diện đầu tiên của môn bóng đá gồm 13 điều đã được FA thông qua dưới sự chủ trì của Ebenezer Cobb Morley. Hiện nay cơ quan chịu tránh nhiệm quản lý và theo dõi luật bóng đá trên thế giới là Ủy ban bóng đá quốc tế (International Football Association Board, thường viết tắt là IFAB). IFAB được thành lập năm 1886 tại Manchester trong một Schoolbuổi họp với sự có mặt của đại diện FA, Hiệp hội bóng đá Scotland (Scottish Football Association), Hiệp hội bóng đá xứ Wales (Football Association of Wales) và Hiệp hội bóng đá Ireland (Irish Football Association).
Giải thi đấu bóng đá đầu tiên, Cúp FA (FA Cup), được C. W. Alcock tổ chức lần đầu cho các câu lạc bộ bóng đá Anh vào năm 1872. Trận thi đấu bóng đá cấp quốc tế đầu tiên giữa đội tuyển Anh và Scotland cũng diễn ra vào năm 1872 tại Glasgow. Nước Anh cũng là quê hương của giải đấu liên đoàn đầu tiên, The Football League, liên đoàn này được thành lập năm 1888 theo sáng kiến của giám đốc câu lạc bộ Aston Villa, ông William McGregor. Giải đấu này bao gồm 12 câu lạc bộ thuộc miền Trung và miền Bắc nước Anh.
Cơ quan quản lý bóng đá thế giới, FIFA (Fédération Internationale de Football Association, Liên đoàn bóng đá quốc tế) được thành lập vào năm 1904 tại Paris với chủ tịch đầu tiên là ông Robert Guérin, một người Pháp, ngay từ khi thành lập FIFA đã tuyên bố sử dụng và tôn trọng bộ luật bóng đá do FA đưa ra. Từ năm 1913, cơ quan theo dõi luật bóng đá IFAB bắt đầu bổ sung các thành viên là đại diện của FIFA. Hiện nay ban điều hành của IFAB bao gồm 4 đại diện của FIFA và 4 đại diện đến từ các liên đoàn khai sinh luật bóng đá là Anh, Scotland, Ireland và xứ Wales. Tính cho đến năm 2008, FIFA có 208 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có đại diện là thành viên, nhiều hơn Ủy ban Olympic Quốc tế 3 thành viên và nhiều hơn Liên Hợp Quốc 16 thành viên.
Ngày nay, bóng đá đã được chơi ở cấp độ chuyên nghiệp trên khắp thế giới với hàng triệu người đến sân theo dõi các trận đấu cũng như hàng tỷ người theo dõi qua truyền hình. Theo một cuộc thăm dò do FIFA tiến hành năm 2001, có trên 240 triệu người từ trên 200 quốc gia thường xuyên chơi bóng đá. Không chỉ là môn thể thao phổ biến nhất thế giới, bóng đá còn có ảnh hưởng lớn đến nền thể thao và xã hội nhiều quốc gia, hãng truyền hình ESPN từng cho rằng chính đội tuyển Bờ Biển Ngà đã giúp ngăn chặn nguy cơ một cuộc nội chiến tại nước này vào năm 2005, ngược lại cũng chính một trận bóng đá đã khởi đầu cho một cuộc chiến với cái tên Chiến tranh bóng đá xảy ra năm 1969 giữa El Salvador và Honduras.
Bóng đá nữ
Phụ nữ có thể đã tham gia vào bóng đá từ thời điểm trò chơi này ra đời. Có bằng chứng cho thấy rằng trong triều đại nhà Hán (25-220 CN), phụ nữ đã chơi một trò chơi cổ xưa tương tự như cuju hoặc tsu chu, được mô tả trong các bức tranh vẽ từ thời kỳ đó Ngoài ra, cũng có báo cáo về các trận đấu bóng đá hàng năm do phụ nữ ở Midlothian, Scotland, chơi vào những năm 1790.
Bóng đá đã ghi nhận sự tham gia của phụ nữ từ rất sớm. Năm 1863, quy tắc chung được đưa ra để giảm bạo lực trên sân, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia. Trận đấu bóng đá nữ đầu tiên được ghi nhận ở Scotland vào năm 1892 và ở Anh vào năm 1895. Bóng đá nữ có truyền thống từ thiện và rèn luyện thể chất, đặc biệt là ở Vương quốc Anh.
Năm 1894, Nettie Honeyball thành lập Câu lạc bộ bóng đá nữ Anh nhằm chứng minh vai trò quan trọng của phụ nữ. Mặc dù gặp phản đối từ các hiệp hội bóng đá Anh, Honeyball và các nữ cầu thủ khác đã mở đường cho sự phát triển của bóng đá nữ. Sự phản kháng này có thể được giải thích bởi sự đe dọa đối với sự "nam tính" của trò chơi.
Bóng đá nữ trở nên phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất khi phụ nữ tham gia ngành công nghiệp nặng, và điều này thúc đẩy sự phát triển của môn thể thao này, tương tự như nam giới 50 năm trước đó. Đội Dick, Kerr Ladies FC của Preston, Anh, đã trở thành đội thành công nhất trong thời kỳ này. Họ đã chơi một trong những trận đấu quốc tế nữ đầu tiên với đội tuyển Pháp XI vào năm 1920 và cũng đối đầu đội tuyển nữ Scotland XI cùng năm đó, giành chiến thắng với tỷ số 22-0.
Mặc dù bóng đá nữ ở Anh trở nên phổ biến hơn và thu hút đến 53.000 khán giả trong một trận đấu năm 1920, vào năm 1921, nó đã gặp một trở ngại lớn khi Hiệp hội bóng đá cấm các trận đấu nữ trên sân của các câu lạc bộ thành viên. Lý do được đưa ra là "trò chơi bóng đá không phù hợp với nữ giới và không nên được khuyến khích". Cầu thủ và nhà văn bóng đá đã cho rằng lệnh cấm này thực tế là do sự ghen tị với sự hút khán giả lớn mà bóng đá nữ thu hút, và FA không kiểm soát được doanh thu từ các trận đấu nữ. Lệnh cấm này đã dẫn đến việc thành lập Hiệp hội bóng đá nữ Anh và trận đấu chuyển sang sân bóng bầu dục.
Từ cuối thế kỷ 19, bóng đá nữ vẫn được tiếp tục chơi bởi phụ nữ. Vào tháng 12 năm 1969, Hiệp hội bóng đá nữ được thành lập ở Anh và vào năm 1971, UEFA đã chính thức công nhận bóng đá nữ. Trong cùng năm 1971, lệnh cấm bóng đá nữ trên sân các câu lạc bộ thành viên của Hiệp hội bóng đá đã được bãi bỏ. Trong những năm cuối thập kỷ 1960 và đầu thập kỷ 1970, bóng đá nữ đã được tổ chức ở Anh và trở thành môn thể thao đồng đội nổi bật nhất cho phụ nữ Anh. Tuy nhiên, bóng đá nữ cũng bị cấm ở một số quốc gia khác. Đáng chú ý là ở Brazil từ 1941 đến 1979, Pháp từ 1941 đến 1970 và Đức từ 1955 đến 1970.
Bóng đá nữ vẫn đối mặt với nhiều thách thức, nhưng sự phát triển toàn cầu của nó đã thể hiện qua việc tổ chức các giải đấu quan trọng cả ở cấp quốc gia và quốc tế, tương tự như bóng đá nam. Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức lần đầu vào năm 1991 và diễn ra mỗi bốn năm kể từ đó. Bóng đá nữ cũng trở thành môn thể thao Olympic kể từ năm 1996. Bắc Mỹ là khu vực thống trị bóng đá nữ, với đội tuyển Hoa Kỳ giành được nhiều chức vô địch thế giới và Olympic. Châu Âu và Châu Á xếp sau với thành công quốc tế, trong khi bóng đá nữ ở Nam Mỹ đã có sự cải thiện đáng kể.
Luật thi đấu
Hiện nay Luật bóng đá chính thức có 17 điều được áp dụng cho mọi cấp độ chơi bóng và chỉ có một vài sửa đổi nhỏ cho phù hợp với bóng đá nữ hay bóng đá trẻ,....
Cầu thủ, trang phục và trọng tài
Mỗi trận đấu bóng đá bao gồm hai đội, mỗi đội gồm có 11 cầu thủ thi đấu chính thức trên sân kể cả 1 thủ môn. Thủ môn là người duy nhất được phép chơi bóng bằng tay, tuy nhiên việc này cũng chỉ được giới hạn trong khu cấm địa phía trước khung thành do thủ môn trấn giữ. Tùy theo từng vị trí mà còn có những tên gọi khác nhau, ví dụ như hậu vệ, tiền vệ, tiền đạo,... và còn một số vị trí khác nữa. Bên cạnh số cầu thủ chính thức mỗi đội cũng còn một số cầu thủ dự bị để thay thế khi cần thiết, thông thường trong một trận bóng đá thi đấu chính thức, mỗi đội chỉ được phép thay đổi 3 cầu thủ. Cầu thủ sau khi được thay ra sẽ không được quay trở lại sân thi đấu. Người chỉ đạo chiến thuật cho đội bóng là huấn luyện viên, vị trí này không phải là quy định bắt buộc được ghi trong Luật bóng đá.
Trang phục thi đấu của các cầu thủ thường bao gồm áo thi đấu (có cánh tay), quần đùi (quần soóc), tất cao đến đầu gối, giày và bảo vệ ống đồng. Cầu thủ thi đấu trên sân bị cấm mặc, đeo hoặc mang theo các đồ vật có thể gây nguy hiểm cho cầu thủ đối phương như vòng, dây chuyền hoặc đồng hồ đeo tay. Do là vị trí được sử dụng tay và thường xuyên phải bay người theo bóng, thủ môn được trang bị kĩ hơn các cầu thủ khác, họ thường mặc áo thi đấu dài tay, đeo bảo vệ ống đồng và bảo vệ khuỷu tay và đeo găng tay thủ môn khi thi đấu, tuy vậy họ thường phải mặc áo khác màu với các cầu thủ còn lại trong đội và các cầu thủ của đội đối phương để trọng tài phân biệt việc dùng tay chơi bóng giữa thủ môn và các cầu thủ khác. Đội trưởng của một đội bóng thông thường rất dễ nhận diện bằng cách đeo một chiếc băng quấn quanh tay áo của anh/cô ấy, được gọi là "băng đội trưởng". Giống như nhiều môn thể thao đồng đội khác, môn bóng đá cũng sử dụng hệ thống số áo để các cầu thủ được nhận diện tốt hơn. Thông thường hệ thống số từ 1 đến 11 sẽ được sử dụng phổ biến hơn, tuy vậy vẫn có nhiều giải đấu hay đội bóng cho phép các cầu thủ có thể lựa chọn số áo từ 1 đến 99. Thủ môn thường được trao chiếc áo số 1 để thi đấu.
Điều khiển trận đấu là tổ trọng tài bao gồm 1 trọng tài chính và 2 trọng tài biên, những người này có toàn quyền điều khiển trận đấu theo các quy định của Luật bóng đá, quyết định của trọng tài chính dù đúng hoặc sai cũng đều thường là quyết định cuối cùng và không thể bị thay đổi. Ngoài ba trọng tài làm việc trên sân còn có một trọng tài thứ tư (còn gọi là trọng tài bàn) quản lý việc thay người, theo dõi thời gian đá bù giờ và thay thế trọng tài trên sân trong trường hợp cần thiết.
Sân thi đấu
Do được hình thành ở Anh, luật bóng đá trước đây quy định các kích thước theo hệ đo lường Anh tuy nhiên hiện nay các số đo này đã được đổi sang hệ SI cho phù hợp với sự phổ biến của bóng đá trên thế giới. Một sân bóng đá tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế có dạng chữ nhật với chiều dài nằm trong khoảng từ 100 đến 110 mét, chiều rộng từ 64 đến 75 m. Còn đối với các trận đấu ở cấp độ thấp hơn, sân bóng có thể có chiều dài nằm trong khoảng từ 90 đến 120 m (100–130 yd) và rộng từ 45 đến 90 m (50–100 yd). Hai cạnh dài của sân bóng được gọi là hai đường biên dọc, hai cạnh còn lại là đường biên ngang. Ở chính giữa hai đường biên ngang là khung thành có dạng chữ nhật với chiều dài 7,32 m và chiều cao 2,44 m. Khung thành thường được giăng lưới để dễ phân biệt tình huống bóng vào khung thành hay ra ngoài, tuy nhiên điều này không nằm trong quy định chính thức của Luật bóng đá.
Phía trước mỗi khung thành là khu cấm địa. Khu vực này cũng có dạng chữ nhật với chiều dài dọc theo đường biên ngang của sân với kích thước 40,3 m dài, 16,5 m rộng. Ở giữa khu cấm địa, cách khung thành 11 m là điểm đá phạt đền, nơi các cầu thủ thực hiện các cú sút phạt đền (do cầu thủ đối phương phạm lỗi trong khu vực cấm địa). Khu cấm địa cũng là nơi duy nhất thủ môn được phép chơi bóng bằng tay. Ở phía trong khu cấm địa có một hình chữ nhật nhỏ hơn với chiều dài dọc theo đường biên ngang có kích thước 18,3 m dài, 5,5 m rộng (thường được gọi là khu 5 mét 50), đây là nơi cầu thủ đối phương tham gia tấn công không được phép va chạm trực tiếp với thủ môn đang trấn giữ khung thành.
Thời gian thi đấu
Một trận thi đấu bóng đá thông thường diễn ra trong hai hiệp chính thức liên tiếp, mỗi hiệp gồm 45 phút ngăn cách bằng 15 phút nghỉ giữa giờ. Sau khi hiệp 1, hai đội bóng sẽ phải đổi sân cho nhau để có sự công bằng trong vòng 1 phút. Người có quyền bắt đầu và kết thúc trận đấu là trọng tài chính. Trong các tình huống phải dừng bóng hoặc bóng ra ngoài sân, trọng tài sẽ tính thêm giờ, thời gian chết này sẽ được chơi bù vào cuối mỗi hiệp đấu (được gọi là những phút bù giờ), thời gian bù giờ là ít hoặc nhiều đều hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của trọng tài chính, kể cả trường hợp nó khác biệt so với thời gian bù giờ do trọng tài thứ tư công bố trên bảng điện tử. Quy định về thời gian đá bù xuất hiện sau trận đấu năm 1891 giữa Stoke và Aston Villa, khi chỉ còn 2 phút là hết giờ, trong tình thế bị dẫn trước 1–0, đội Stoke bất ngờ được hưởng một quả phạt đền, thủ môn của Aston Villa đã cản phá bóng ra khỏi sân và đến khi bóng trở lại sân thì đồng hồ đã điểm 90 phút và Stoke thua trận.
Trong các giải thi đấu vòng tròn, một trận đấu có thể kết thúc với tỉ số hòa, tuy nhiên trong các trận đá loại trực tiếp (như ở các giải Cúp hoặc các trận playoff), bắt buộc phải xác định được một đội giành chiến thắng. Trong trường hợp này, nếu kết thúc 90 phút của 2 hiệp chính hai đội vẫn hòa, họ sẽ phải thi đấu thêm 2 hiệp phụ liên tiếp, mỗi hiệp 15 phút không có nghỉ giữa giờ. Nếu hết 2 hiệp phụ mà kết quả vẫn hòa, hai đội sẽ phải thi đá luân lưu 11 m (hai đội thay phiên nhau thực hiện các quả đá phạt đền) để xác định đội giành chiến thắng. Các bàn thắng ghi được trong hai hiệp phụ sẽ được tính vào kết quả chung cuộc, tuy nhiên các bàn thắng ghi trong những loạt đá luân lưu 11 m sẽ không được tính (mà chỉ dùng để xác định kết quả thắng thua). Trong thập niên 1990 và 2000, IFAB đã cho thử nghiệm luật Bàn thắng vàng, theo đó nếu trong hiệp phụ có một đội ghi được bàn thắng trước, trận đấu sẽ lập tức kết thúc với kết quả thắng cho đội vừa ghi bàn. Luật bàn thắng vàng đã được sử dụng ở cấp độ thế giới trong World Cup 1998 và World Cup 2002 với Pháp là đội tuyển đầu tiên tận dụng được lợi thế này khi giành chiến thắng trước Paraguay bằng bàn thắng vàng của Laurent Blanc (năm 1998), Pháp cũng là đội vô địch ở giải đấu năm 1998. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996, đội tuyển bóng đá quốc gia Đức đã giành chức vô địch sau chiến thắng trước đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc bằng bàn thắng vàng của Oliver Bierhoff. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, luật bàn thắng vàng được thay thế bằng luật Bàn thắng bạc theo đó nếu kết thúc hiệp phụ đầu tiên mà có một đội dẫn trước về tỉ số, trận đấu sẽ kết thúc với chiến thắng dành cho đội có lợi thế về tỉ số. Tuy nhiên hiện nay IFAB đã bỏ việc thử nghiệm cả hai luật này.
Trong các trận đấu loại trực tiếp theo thể thức lượt đi-lượt về, thông thường người ta sẽ tính tới luật bàn thắng sân khách. Theo đó nếu sau hai trận mà hai đội có kết quả chung cuộc hòa nhau, đội nào ghi được nhiều bàn thắng hơn trên sân khách sẽ là đội giành chiến thắng. Tuy nhiên không phải giải đấu lớn nào cũng sử dụng lợi thế này, ví dụ như tại Copa Libertadores ở Nam Mỹ.
Trạng thái bóng trên sân
Theo luật bóng đá, có hai trạng thái bóng chính trên sân, đó là bóng sống và bóng chết. Thời gian bóng sống trong trận đấu được tính từ thời điểm các cầu thủ bắt đầu trận đấu bằng cú phát bóng giữa sân cho đến khi bóng rơi ra ngoài khu vực sân thi đấu hoặc trận đấu bị ngừng lại bởi quyết định của trọng tài (do cầu thủ phạm lỗi, chấn thương hoặc tình huống đặc biệt khác), khi đó bóng rơi vào trạng thái bóng chết. Trận đấu lúc này sẽ được khởi động lại bằng các cách chính sau:
Ném biên: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên dọc do tác động của một cầu thủ đội nhà (dù ở trên mặt sân hay bay trên không). Đội đối phương sẽ được hưởng quyền ném bóng từ vị trí trên đường biên dọc mà bóng rời sân. Từ quả ném biên, bàn thắng chỉ được công nhận khi chạm chân cầu thủ khác
Phát bóng: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ tấn công đối phương. Đội phòng ngự sẽ được hưởng quyền phát bóng lên. Từ quả phát bóng, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng được công nhận.
Phạt góc: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ phòng ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận đấu bằng cú đá từ điểm đá phạt góc (là điểm nối giữa đường biên dọc và đường biên ngang). Từ quả đá phạt góc, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng sẽ được tính.
Đá phạt gián tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nhẹ. Đội đối phương sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận đấu, nếu đá bóng trực tiếp vào cầu môn, bàn thắng không được công nhận. Bàn thắng chỉ được công nhận khi bóng chạm chân một cầu thủ khác
Đá phạt trực tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nặng (lỗi quy định trong điều 12 của Luật bóng đá, ví dụ bị phạm lỗi khi đang có lợi thế tấn công, bị phạm lỗi từ phia sau). Đội đối phương sẽ được quyền đưa bóng vào trận đấu và bàn thắng ghi vào cầu môn từ cú đá phạt này sẽ được tính.
Phạt đền: Khi có cầu thủ tấn công bị phạm lỗi trong khu vực cấm địa của đội phòng ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng cú đá phạt từ vị trí đá phạt 11 m, đây là cú đá chỉ có sự tham gia của một cầu thủ đội tấn công (người sút phạt đền) và thủ môn đội phòng ngự.
Thả bóng: Khi trận đấu bị dừng lại không phải do bóng ra ngoài sân hoặc có cầu thủ bị phạm lỗi (ví dụ bóng trúng người trọng tài, có cầu thủ bị chấn thương, cổ động viên nhảy vào sân,....), trọng tài sẽ là người cầm bóng và thả trước sự có mặt của một cầu thủ mỗi đội.
Phạm lỗi
Một lỗi xảy ra khi có cầu thủ vi phạm các điều ghi trong Luật bóng đá. Các lỗi vi phạm được quy định trong điều 12 của Luật bóng đá (đôi khi còn được gọi là "Luật 12"). Các lỗi trong bóng đá thường xuất hiện là câu giờ, đẩy người, kéo áo, xoạc sau, đánh cùi chỏ,.... Đội có cầu thủ vi phạm sẽ chịu cú đá phạt trực tiếp hoặc đá phạt đền từ phía đối phương.
Để cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi, trọng tài sẽ sử dụng biện pháp nhắc nhở, nặng hơn là phạt thẻ vàng và nặng nhất là phạt thẻ đỏ. Cầu thủ bị phạt 2 thẻ vàng hoặc 1 thẻ đỏ trực tiếp sẽ bị đuổi khỏi sân và không được thay thế bằng cầu thủ dự bị. Cầu thủ ngoài sân nếu có hành vi không đúng mực cũng sẽ bị trọng tài sử dụng thẻ vàng hoặc thẻ đỏ để cảnh cáo. Với các thành viên ban huấn luyện và huấn luyện viên trưởng, trọng tài thường không sử dụng thẻ vàng, thẻ đỏ mà có quyền đuổi trực tiếp người vi phạm ra khỏi sân. Trong tình huống xét thấy tiếp tục cho bóng động có lợi hơn cho đội bị phạm lỗi, trọng tài có quyền tiếp tục cho trận đấu diễn ra và tiến hành việc cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi sau khi bóng chết, tình huống này được gọi là phép lợi thế.
Luật phức tạp nhất của bóng đá là luật việt vị. Luật này đã có nhiều thay đổi kể từ ngày ra đời, theo quy định mới nhất thì một cầu thủ tấn công bị coi là việt vị khi so với đường biên ngang khung thành đội phòng ngự, cầu thủ này đứng thấp hơn 2 cầu thủ phòng ngự cuối cùng của đối phương (kể cả thủ môn).
Cầu thủ và trận đấu
Các hình thức chơi bóng
Với luật chơi đơn giản và trang bị không đòi hỏi cầu kỳ, đắt tiền, mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính khác nhau đều có thể chơi bóng đá như một môn thể thao để giải trí, rèn luyện sức khỏe... trong các sân bãi, tại các giờ học thể dục thể thao ở trường, lớp, ở các công viên, sân chơi, hay thậm chí là trên đường phố.... Tuy nhiên để thi đấu bóng đá chuyên nghiệp thì các cầu thủ thường phải được tuyển chọn vào các trung tâm đào tạo bóng đá trẻ (thường là trực thuộc các câu lạc bộ bóng đá) từ khi còn nhỏ để được huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật cơ bản của môn bóng đá. Tại các lò đào tạo này, các cầu thủ trẻ sẽ được rèn luyện cả về thể lực và kỹ thuật, chiến thuật cũng như được tham gia nhiều trận đấu, giải đấu theo từng lứa tuổi để tích lũy kinh nghiệm. Do tính cạnh tranh rất cao của bóng đá chuyên nghiệp, chỉ một phần khá nhỏ trong số các cầu thủ trẻ từ các cơ sở đào tạo mới có thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, số còn lại thì chấp nhận chơi bóng đá như một sở thích, hoặc tiếp tục sự nghiệp ở các câu lạc bộ bán chuyên nghiệp.
Để chơi trọn vẹn một trận đấu bóng dài 90 phút, cầu thủ cần một sức khỏe và độ bền lớn vì tùy theo vị trí, họ phải di chuyển (chủ yếu là chạy) trên quãng đường tổng cộng dài từ 6 đến 11 km. Bên cạnh đó, cầu thủ bóng đá còn bị đe dọa bởi các chấn thương rất dễ xảy ra trong trận đấu hoặc trong lúc tập luyện, chấn thương thường xảy ra với họ ở chân, ví dụ chấn thương gân khoeo, chấn thương gót chân và đôi khi thậm chí là gãy chân. Những cái chết trên sân đấu hoặc sân tập, tuy khá hiếm gặp nhưng cũng vẫn thường xảy ra trong môn bóng đá (nhất là trong bóng đá chuyên nghiệp), một trường hợp điển hình là cái chết của cầu thủ Antonio Puerta người Tây Ban Nha, anh đã chết trong bệnh viện sau khi bị ngừng tim ngay trong một trận đấu thuộc giải Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha (La Liga) vào ngày 25 tháng 8 năm 2007 giữa Sevilla (đội của anh) và Getafe. Vì sự tiêu tốn thể lực và các mối đe dọa này, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiếm khi có đủ 100% khả năng để thi đấu suốt một mùa giải dài 9 tháng, họ thường có chiến thuật phân bổ sức lực chú trọng cho các trận đấu lớn. Cũng như nhiều môn thể thao hiện đại khác, hiện tượng doping cũng xuất hiện trong bóng đá. Sau một thời gian dài không chấp nhận hợp tác với Ủy ban chống doping quốc tế (AMA), FIFA vào năm 2006 đã đồng ý với đề nghị của IOC về việc tất cả các liên đoàn bóng đá phải ký công ước quốc tế về chống sử dụng doping. Tuy nhiên FIFA vẫn giữ quyền tự quyết định hình thức xử phạt với cầu thủ bị phát hiện dùng doping.
Một trong những đặc điểm hấp dẫn của môn bóng đá là tính bất ngờ của kết quả trận đấu, về mặt này bóng đá và bóng chày được coi là hai môn thể thao đồng đội có tính bất ngờ cao nhất. Có thể kể tới trường hợp của Đan Mạch vốn tham dự Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992 với tư cách đội thay thế Nam Tư bị cấm vận nhưng cuối cùng lại vượt qua nhiều đội mạnh để trở thành nhà vô địch châu Âu, hay chiến thắng 3-2 tại chung kết World Cup 1954 của Tây Đức trước Hungary, đội trước đó đã thắng họ tới 8-3 tại vòng đấu bảng. Có thể tóm tắt sự bất ngờ trong môn bóng đá bằng câu nói nổi tiếng của huấn luyện viên Sepp Herberger của đội tuyển Đức vô địch World Cup 1954:
Môi trường thi đấu
Những cầu thủ bóng đá hiện đại đầu tiên thường là các sinh viên, sau đó mới đến giới thượng lưu và công nhân. Ban đầu họ chỉ là các cầu thủ nghiệp dư và lấy bóng đá như một thú giải trí. Một thời gian dài đầu thế kỷ 20, việc chơi bóng một cách chuyên nghiệp cho các câu lạc bộ của những ông chủ lớn bị coi như hành động "đi làm nô lệ" vì đồng lương thấp và điều kiện thi đấu tồi, ví dụ cầu thủ quốc tế người Pháp Thadée Cisowski được nhận lương mỗi tháng 400 franc vào năm 1961, chỉ nhiều hơn 30% so với mức lương tối thiểu của Pháp (SMIC). Tuy các liên đoàn cầu thủ đã được thành lập ở Anh từ đầu thế kỷ 20, các tổ chức này thực tế đã không đấu tranh được nhiều cho việc cải thiện tình trạng tồi tệ đó. Từ thập niên 1960, điều kiện thi đấu của bóng đá chuyên nghiệp bắt đầu thay đổi, từ năm 1969 cầu thủ bắt đầu được ký hợp đồng có kỳ hạn ở Pháp, ở Anh là từ năm 1978.
Từ thập niên 1970, những "nô lệ đá bóng" bắt đầu trở thành "lính đánh thuê" với điều kiện kinh tế cao hơn khi họ có sự tư vấn của những người hoặc cơ quan đại diện. Tuy nhiên ngay cả mức lương của các ngôi sao tại các giải bóng đá lớn vẫn còn thua kém so với mức lương của các ngôi sao Công thức 1, NBA hoặc quyền Anh chuyên nghiệp. Ví dụ siêu sao Diego Maradona được câu lạc bộ SSC Napoli trả 7,5 triệu franc Pháp mỗi năm trong khi tay đấm Larry Holmes nhận được hơn 45 triệu vào cùng thời gian tương ứng. Theo bảng xếp hạng năm 2006 các vận động viên chuyên nghiệp có thu nhập cao nhất của tạp chí Sports Illustrated thì người có thu nhập cao nhất trong giới cầu thủ, Ronaldinho, nhận khoảng 32,7 triệu USD một năm, tương đương mức của ngôi sao quần vợt Roger Federer (31,3 triệu), nhưng vẫn còn thua xa tay golf Tiger Woods (111,9 triệu).
Cùng với sự gia tăng của lương cầu thủ, số tiền chuyển nhượng một cầu thủ từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ khác cũng tăng lên nhanh chóng, nếu như vào năm 1905, cầu thủ Anh Alf Common trở thành cầu thủ bóng đá đầu tiên được chuyển nhượng với giá 1000 bảng Anh thì vào năm 2001, vụ chuyển nhượng Zinedine Zidane từ Juventus sang Real Madrid đã lập kỷ lục thế giới với giá 76 triệu euro. Tại châu Âu có 2 mùa chuyển nhượng chính diễn ra vào khoảng thời gian giữa hai mùa giải kế tiếp (từ khoảng tháng 6 đến tháng 9 hàng năm) và khoảng thời gian nghỉ Đông của một mùa giải (từ tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm sau).
Cách mạng về chiến thuật
Từ thập niên 1880 đến khoảng năm 1925, chiến thuật phổ biến của các đội bóng là bố trí đội hình gồm 5 cầu thủ tấn công (tiền đạo), 3 cầu thủ chơi giữa sân (tiền vệ) và 2 cầu thủ phòng ngự (hậu vệ). Sở dĩ phải bố trí nhiều tiền đạo như vậy là vì luật việt vị thời gian này quy định tiền đạo phải đứng trên ít nhất 3 cầu thủ đối phương. Việc luật việt vị giảm số cầu thủ phải đứng trên từ 3 xuống còn 2 đã ảnh hưởng lớn đến chiến thuật và số lượng bàn thắng, ngay năm đầu tiên áp dụng luật mới, số bàn thắng ghi ở giải vô địch bóng đá Anh đã tăng từ 4.700 bàn lên 6.373 bàn. Để ứng dụng luật việt vị mới, huấn luyện viên Herbert Chapman đã đưa ra chiến thuật mang tính cách mạng đối với môn bóng đá, chiến thuật "WM" với 3 hậu vệ, 2 tiền vệ công và 3 tiền đạo (W), 2 tiền vệ phòng ngự (M). Bộ tứ tiền vệ ở trung tâm thường được gọi là ô vuông kỳ ảo vì họ đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết bóng, phát động tấn công cũng như ngăn chăn các pha phản công của đối phương.
Chiến thuật WM chính thức phá sản vào năm 1953 sau thất bại nổi tiếng của đội tuyển Anh trước đội tuyển Hungary ngay trên sân vận động Wembley. Với chiến thuật mới "4-2-4", người Hungary đã hạ người Anh với tỷ số 6-3. Sau 4-2-4, bóng đá hiện đại bắt đầu chuyển sang chiến thuật "4-3-3" rồi "4-4-2". Về mặt phòng ngự, bước tiến đáng kể về chiến thuật là đội hình Catenaccio do huấn luyện viên người Argentina Helenio Herrera đưa ra và được áp dụng phổ biến trong các đội bóng Ý. Tại Đức, đội hình phòng ngự lại thường sử dụng một cầu thủ phòng ngự tự do (được gọi là libero) với những đại diện nổi tiếng như Franz Beckenbauer hoặc Lothar Matthaus. Kết hợp việc phòng ngự và tấn công, huấn luyện viên người Hà Lan Rinus Michels đã đưa ra triết lý bóng đá tổng lực theo đó mọi cầu thủ cùng tham gia tấn công hoặc phòng ngự tùy theo tình huống bóng, chiến thuật này đã đem lại thành công cho câu lạc bộ Ajax Amsterdam và đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan trong thập niên 1970 và 1980.
Bóng đá hiện đại ngày nay thường sử dụng những đội hình chắc chắn thay vì chỉ tập trung tấn công hoa mỹ, vì vậy những đội hình thường được các đội bóng sử dụng là 4-4-2, 5-3-2, 4-5-1, 4-3-3, 3-4-3, 3-5-2 và đôi khi là 5-4-1 tùy theo đối thủ và điều kiện thi đấu.
Ngôi sao bóng đá
Bóng đá hiện đại sau hơn 1 thế kỷ hình thành và phát triển đã sản sinh ra nhiều cầu thủ lớn với khả năng và thành tích đặc biệt. Những người này thường được gọi là các ngôi sao bóng đá hay siêu sao bóng đá. Việc xác định một cầu thủ là siêu sao hoặc huyền thoại bóng đá thường gây nhiều tranh cãi, ví dụ danh sách FIFA 100 gồm 125 cầu thủ còn sống được coi là vĩ đại nhất do "vua bóng đá" người Brazil Pelé đưa ra cũng gặp nhiều chỉ trích vì bị cho là đã bỏ qua nhiều cầu thủ vĩ đại của quá khứ. Hàng năm người ta thường tổ chức các cuộc bầu chọn cầu thủ xuất sắc nhất ở cấp độ quốc gia, châu lục và quốc tế. Những giải thưởng cầu thủ được coi là uy tín nhất thế giới gồm giải Quả bóng vàng FIFA (từ năm 2010), giải Quả bóng vàng châu Âu của tạp chí France Football (từ năm 1956 đến năm 2009), giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (từ năm 1991 đến năm 2009), giải Quả bóng vàng châu Phi (từ năm 1970) và giải Cầu thủ Nam Mỹ xuất sắc nhất năm (từ năm 1971).
Tổ chức điều hành
Tổ chức điều hành và quản lý bóng đá toàn thế giới là Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) có trụ sở tại Zürich, Thụy Sĩ. Dưới FIFA có 6 liên đoàn bóng đá cấp châu lục gồm:
Châu Á: Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC)
Châu Âu: Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA)
Châu Đại Dương: Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC)
Bắc, Trung Mỹ và Caribe: Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF)
Nam Mỹ: Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL)
Châu Phi: Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF)
Mỗi một quốc gia thành viên FIFA đều có cơ quan điều hành riêng. Các cơ quan này có mối quan hệ chặt chẽ với FIFA cũng như liên đoàn cấp châu lục của quốc gia đó. Có một số ngoại lệ về quan hệ liên đoàn quốc gia-châu lục, ví dụ như Úc nằm ở Châu Đại Dương tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Úc từ năm 2006 đã chuyển về trực thuộc Liên đoàn bóng đá châu Á, hoặc như Israel thuộc khu vực Tây Á tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Israel lại trực thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu từ năm 1991.
Giải đấu chính
Cấp quốc tế
Giải đấu cấp quốc tế lớn nhất của bóng đá thế giới là World Cup. World Cup là giải đấu FIFA trao quyền tham dự cho các đội tuyển quốc gia vượt qua vòng loại của giải đấu này. Giải được tổ chức lần đầu tiên năm 1930 và đến nay đã trở thành giải thi đấu thể thao được nhiều người theo dõi nhất trên khắp thế giới, vượt qua cả Thế vận hội, một ví dụ là vòng chung kết World Cup 2006 tổ chức tại Đức đã thu hút 26,29 tỷ lượt khán giả xem truyền hình trong đó riêng trận chung kết đã thu hút 715,1 triệu khán giả trên khắp thế giới. World Cup được tổ chức theo thể thức 4 năm một lần với vòng đấu loại có sự tham gia của trên 190 quốc gia thành viên FIFA và vòng chung kết có sự góp mặt của 32 đội tuyển (trước năm 1982 là 16 đội, trước năm 1998 là 24 đội), vòng chung kết của World Cup 2014 được tổ chức tại Brasil.
Trong chương trình Thế vận hội Mùa hè cũng có hạng mục thi đấu của môn bóng đá kể từ năm 1900 (trừ Thế vận hội Mùa hè 1932 tổ chức tại Los Angeles). Cho đến trước Thế vận hội Mùa hè 1984, chỉ có các cầu thủ nghiệp dư được phép tham gia thi đấu (khác với World Cup vốn không phân biệt cầu thủ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư). Hiện nay hạng mục bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè chỉ dành cho các cầu thủ dưới 23 tuổi (với một số cầu thủ nhất định quá 23 tuổi).
Bên cạnh World Cup do FIFA tổ chức, các liên đoàn châu lục cũng có các giải đấu cấp độ châu lục của riêng họ, đó là Giải vô địch bóng đá châu Âu của UEFA, Cúp bóng đá Nam Mỹ của CONMEBOL, Cúp bóng đá châu Phi của CAF, Cúp bóng đá châu Á của AFC, Cúp bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe của CONCACAF và Cúp bóng đá châu Đại Dương của OFC. Các nhà vô địch của các giải đấu cấp châu lục cùng với đương kim vô địch World Cup sẽ gặp nhau tại Cúp Liên đoàn các châu lục, đây là giải đấu khởi động cho World Cup và được FIFA tổ chức trước World Cup 1 năm. Các câu lạc bộ bóng đá của từng châu lục cũng có các giải đấu riêng trong đó đáng chú ý nhất là UEFA Champions League ở châu Âu và Copa Libertadores de América ở Nam Mỹ. Các câu lạc bộ vô địch giải đấu cấp châu lục sẽ gặp nhau trong Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ do FIFA tổ chức.
Cấp quốc gia
Tại mỗi quốc gia, cơ quan điều hành bóng đá cấp quốc gia thông thường sẽ chia giải đấu liên đoàn cấp câu lạc bộ thành nhiều hạng trong đó đội vô địch hạng dưới có thể lên thi đấu tại hạng trên và đội xếp cuối hạng trên sẽ phải xuống thi đấu tại hạng dưới. Các giải đấu liên đoàn này thông thường được tổ chức thành hai lượt đi và về theo đó các câu lạc bộ trong cùng hạng sẽ gặp nhau 2 lần. Các đội đứng đầu giải đấu liên đoàn hạng cao nhất của mỗi quốc gia sẽ tham dự các giải đấu cấp châu lục. Bên cạnh các giải đấu liên đoàn có phân chia thứ hạng, thông thường mỗi quốc gia còn có một giải cúp theo thể thức đấu loại trực tiếp dành cho câu lạc bộ thuộc tất cả các hạng.
Tại một số giải vô địch quốc gia, cầu thủ bóng đá được trả lương rất cao, đặc biệt là các siêu sao bóng đá, có thể kể tới các giải đấu lớn ở châu Âu như La Liga (Tây Ban Nha), Premier League (Anh), Bundesliga (Đức), Serie A (Ý) và Ligue 1 (Pháp).
Bóng đá và truyền thông
Báo viết
Khi bóng đá mới ra đời, nó ít được đề cập đến trong báo chí nói chung và báo chí thể thao nói riêng vì bị coi là quá "bình dân". Thậm chí tờ The Field (xuất bản tại Anh từ năm 1853) vốn chuyên về các môn thể thao "quý tộc" như đánh golf, tennis, đua ngựa chỉ còn mở hẳn một cột báo nhỏ để chê bai và châm biếm môn bóng đá. Một ví dụ khác là tờ L'Auto của Pháp chỉ bắt đầu đăng tin về bóng đá từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tuy nhiên cùng với mức độ phổ biến của bóng đá trên thế giới, báo chí thể thao cũng bắt đầu dành mối quan tâm cho môn thể thao này. Hàng loạt báo và tạp chí chuyên về bóng đá ra đời, ví dụ các tờ A Bola, O Jogo và Record của Bồ Đào Nha, La Gazzetta dello Sport, Tuttosport và Corriere dello Sport - Stadio của Ý, Marca và As của Tây Ban Nha, Olé của Argentina và L'Équipe của Pháp. Những báo và tạp chí chuyên về bóng đá như vậy bắt đầu được xuất bản trong thời gian giữa 2 cuộc đại chiến thế giới, ngoài tờ tuần báo Le Football Association do chính FIFA xuất bản từ tháng 10 năm 1919 thì mãi đến năm 1929, tờ báo chuyên về bóng đá đầu tiên mới được xuất bản, đó là tuần báo Football của Pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tờ báo này được tiếp nối bằng tờ báo nổi tiếng France Football.
Báo viết không chỉ có vai trò quan trọng trong việc quảng bá môn bóng đá với công chúng mà còn tham gia tổ chức và duy trì các giải đấu. Giải đấu danh giá Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu đã được chính tờ L'Équipe của Pháp tổ chức lần đầu năm 1955. Một số câu lạc bộ cũng dần xuất bản những tờ báo của riêng họ, ví dụ câu lạc bộ Celtic FC cho ra đời tuần báo The Celtic View từ năm 1965 để chuyên đăng tin tức về câu lạc bộ Scotland này. Câu lạc bộ của Ý AS Roma cũng sở hữu tờ Il Romanista (xuất bản từ năm 2004) với số lượng khoảng 10.000 bản mỗi kỳ.
Truyền hình
Từ những năm 1920 các trận đấu bóng bắt đầu được tường thuật trực tiếp trên đài phát thanh. Buổi tường thuật lại một trận đấu lần đầu tiên được phát trên sóng phát thanh của Ý ngày 6 tháng 10 năm 1924. Nghề bình luận viên bóng đá cũng bắt đầu xuất hiện với những tên tuổi lớn như Georges Briquet, người được mệnh danh là "Vua bình luận trên đài" của phát thanh Pháp. Ngay cả sau khi truyền hình ra đời, việc tường thuật trận đấu trên sóng phát thanh cũng không vì thế mà lụi tàn vì nhiều người không có điều kiện xem truyền hình vẫn có nhu cầu nghe đài để theo dõi diễn biến trận đấu.
Ngày 16 tháng 9 năm 1937, buổi phát hình đầu tiên một trận đấu bóng đá được đài BBC thực hiện với trận đấu giữa Arsenal và đội dự bị của họ. Arsenal được chọn cho buổi phát hình này với lý do đơn giản là sân đấu của câu lạc bộ gần với trụ sở đài BBC trên Alexandra Palace. Ở cấp độ quốc tế, World Cup 1954 là giải đấu lớn đầu tiên được truyền hình. Ngay từ giai đoạn đầu mối quan hệ giữa truyền hình và bóng đá đã có nhiều xung đột. Matt Busby, huấn luyện viên của Manchester United đã tuyên bố vào năm 1957: "Các cầu thủ bóng đá phải được trả tiền cho giá trị của họ. Không có thù lao, không có phát sóng." Mâu thuẫn về quyền lợi đã dẫn đến việc các sân bóng không cho phép đài truyền hình mang máy quay vào tường thuật trận đấu. Mãi đến thập niên 1980 khi các đài truyền hình chấp nhận chia sẻ lợi nhuận với các câu lạc bộ, những trận đấu cấp câu lạc bộ mới bắt đầu được tường thuật thường xuyên hơn trên màn ảnh nhỏ.
Hiện nay, tiền bản quyền truyền hình đã trở thành một nguồn thu quan trọng của các đội bóng và giải đấu, vì vậy đôi khi lịch thi đấu của các đội phải được điều chỉnh cho phù hợp với giờ theo dõi thuận lợi của khán giả, ví dụ các trận cầu "đinh" của giải Serie A thường bao giờ cũng được tổ chức vào tối Chủ Nhật thay vì tối thứ Bảy như các trận đấu thông thường khác. Để giành quyền phát sóng các giải đấu quan trọng, các đài truyền hình lớn như Sky TV của Anh hay TF1 và Canal+ của Pháp cũng phải cạnh tranh nhau quyết liệt để đưa ra những số tiền bản quyền càng ngày càng tăng. Một ví dụ cho sự phổ biến của việc truyền hình các trận đấu là World Cup 2006, giải đấu này đã được tổng cộng 376 kênh truyền hình phát sóng trực tiếp trên khắp thế giới với tổng lượng khán giả lên tới 26,29 tỷ lượt, tức là trung bình mỗi trận có khoảng 506 triệu người trên Trái Đất theo dõi. Truyền hình không chỉ ảnh hưởng tới bóng đá về mặt kinh tế. Với công nghệ tường thuật ngày càng tiên tiến, các lỗi nhận định của trọng tài hoặc các pha tiểu xảo của cầu thủ trên sân dần không thể qua nổi mắt khán giả. Nghề trọng tài và luật 12 liên quan đến lỗi của cầu thủ vì thế cũng càng ngày càng được hoàn thiện.
Tương tự như báo viết, một số câu lạc bộ cũng bắt đầu thành lập cho riêng họ các kênh truyền hình. Middlesbrough FC là câu lạc bộ đầu tiên của Anh có kênh truyền hình của riêng mình, kênh Boro TV bắt đầu được phát sóng từ năm 2001. Một số kênh truyền hình của câu lạc bộ khác có thể kể tới OM TV, OL TV, Inter Channel, Milan Channel, Roma Channel, Manchester United TV, Real Madrid TV và Barca TV.
Lợi ích kinh tế
Việc khai thác các lợi ích kinh tế của bóng đá bắt đầu diễn ra ngay từ thập niên 1880 ở Anh. Tiền vé vào sân của mỗi trận bóng đá đã giúp các đội bóng tự nuôi sống và xây dựng các sân đấu. Trung bình một trận đấu tại mùa giải vô địch đầu tiên của bóng đá Anh (mùa 1888-1889) thu hút khoảng 4.639 khán giả, cho đến cuối thế kỷ 19 con số này đã tăng lên khoảng 10.000 người và đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất là 20.000 người.
Vé vào sân tiếp tục là nguồn thu chính cho các câu lạc bộ bóng đá cho đến thập niên 1990, sau đó dần được thay thế bằng tiền bản quyền truyền hình. Cùng với truyền hình, các hình thức quảng cáo gắn với đội bóng và trận đấu cũng được tận dụng triệt để. Việc các nhà tài trợ xuất hiện trên áo (thường là ở phần thân áo) cầu thủ bắt đầu xuất hiện ở Pháp từ năm 1969 với các câu lạc bộ đi tiên phong là Nîmes Olympique và Olympique de Marseille. Từ năm 1982, UEFA bắt đầu cho phép cầu thủ mặc áo có quảng cáo trong các giải đấu cấp câu lạc bộ trừ trận chung kết (giới hạn trận chung kết chỉ được dỡ bỏ từ năm 1995). Tuy nhiên việc quảng cáo trên thân áo cấp độ đội tuyển quốc gia cho đến nay vẫn chưa được FIFA chấp nhận.
Theo thống kê của mùa bóng 2006-2007 thì câu lạc bộ có doanh thu lớn nhất thế giới là Real Madrid của Tây Ban Nha với 351 triệu euro, sau đó là Manchester United của Anh (315,2 triệu), FC Barcelona của Tây Ban Nha (290,1 triệu), Chelsea FC và Arsenal FC cùng của Anh (283 và 263,9 triệu). Doanh thu tăng nhưng các câu lạc bộ cũng phải đối mặt với số tiền phải chi trả cho lương cầu thủ, đặc biệt là các ngôi sao của đội. Theo thống kê của mùa bóng 2007-2008, 20 câu lạc bộ của Giải vô địch bóng đá Ý đã phải chi tổng cộng 768,4 triệu euro tiền lương cầu thủ, tăng thêm 101,9 triệu euro chỉ sau một mùa.
Bên cạnh các mối lợi kinh tế trực tiếp, bóng đá cũng đem lại nguồn thu cho các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là du lịch. Ví dụ thành phố Auxerre của Pháp vốn rất nhỏ với chỉ hơn 40.000 dân nhưng nhờ có đội bóng AJ Auxerre có thành tích khá tốt tại giải vô địch Pháp nên kéo theo đó du lịch của thành phố này cũng phát triển. Một ví dụ khác là việc tổ chức World Cup 2006 chỉ trong vòng 1 tháng đã giúp lượng khách du lịch đến Đức trong cả năm 2006 tăng thêm 9%.
Bóng đá và chính trị
Không chỉ là một môn thể thao thông thường, bóng đá đôi khi còn có ảnh hưởng chính trị ở khu vực hoặc thậm chí là quốc tế. Một số câu lạc bộ bóng đá thành công thường được coi là biểu tượng cho địa phương hoặc chủ nghĩa dân tộc nơi đội bóng đóng quân, FC Barcelona được người Catalan coi là biểu tượng cho tinh thần tự trị của họ, hoặc như Athletic Bilbao là niềm tự hào của người dân xứ Basque với lý do tương tự. Ngược lại đôi khi bóng đá cũng được coi là liều thuốc đoàn kết tinh thần của một quốc gia, có thể kể tới chiến thắng của đội tuyển Pháp tại World Cup 1998 hay của Iraq tại Cúp bóng đá châu Á 2007, theo lời chủ tịch Liên đoàn bóng đá Iraq Hussein Saeed thì "người Iraq chỉ sống vì bóng đá, và đó là bí mật để họ có thể đối mặt với mọi khó khăn".
Ở mức độ quốc tế, lịch sử đã ghi nhận Chiến tranh Bóng đá vào năm 1969 là cuộc xung đột đầu tiên bắt nguồn từ một trận đấu bóng đá. Đó là chiến thắng 3-2 tại vòng loại World Cup 1970 của El Salvador trước Honduras. Những xung đột trong và sau trận đấu đã dẫn đến việc El Salvador đem quân tấn công Honduras, cuộc chiến đã khiến hơn 2.000 người thiệt mạng và càng làm trầm trọng sự mâu thuẫn giữa hai nước láng giềng này. Bóng đá cũng trở thành phương tiện tuyên truyền cho Mặt trận giải phóng Algérie trong thời gian Chiến tranh Algérie. Đôi khi bóng đá lại trở thành phương tiện để thúc đẩy hoặc hàn gắn quan hệ ngoại giao giữa các nước có mâu thuẫn, có thể kể tới trận đấu lịch sử giữa Mỹ và Iran tại vòng đấu loại bảng F World Cup 1998 hay World Cup 2002, giải đấu được Nhật Bản và Hàn Quốc, hai quốc gia vốn có nhiều mâu thuẫn lịch sử, tổ chức chung khá thành công.
Bóng đá trong văn hóa đại chúng
Văn hóa bóng đá
Bóng đá được nhiều nghệ sĩ coi là thứ "ngôn ngữ toàn cầu" với những đặc điểm thi đấu, luật lệ và truyền thống riêng của nó. Nhà văn Albert Camus, người từng một thời là thủ môn bóng đá, đã phát biểu rằng:
Tác phẩm văn học về bóng đá có thể kể tới Vua bóng đá của Aziz Nesin hay Fever Pitch (1992) của Nick Hornby,.... Âm nhạc, nhất là các bài hát tập thể, là một yếu tố không thể thiếu của các trận bóng. Các câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia thường có những bài đồng ca để cổ vũ tinh thần cầu thủ và huấn luyện viên. Đây có thể là những bài hát được sáng tác riêng cho câu lạc bộ như Leeds United (của Leeds Utd) hay Good old Arsenal (của Arsenal). Cũng có những bài hát không được viết riêng cho bóng đá nhưng lại trở thành ca khúc yêu thích của các cổ động viên, tiêu biểu là You'll Never Walk Alone, bài hát không chính thức của cổ động viên Liverpool FC. Ngược lại, một số nghệ sĩ cũng lấy cảm hứng từ các trận bóng để sáng tác các bài hát, có thể kể tới We Will Rock You và We Are the Champions của nhóm Queen.
Trong thế giới điện ảnh, bộ phim đầu tiên về bóng đá, Harry The Footballer, được đạo diễn người Anh Lewin Fitzhamon thực hiện từ năm 1911. Các tác phẩm điện ảnh về đề tài bóng đá có nội dung rất đa dạng, từ sự hâm mộ cuồng nhiệt của cổ động viên trong À mort l'arbitre (1984, đạo diễn Jean-Pierre Mocky) đến cái nhìn trào phúng về bóng đá trong Coup de tête (1979, đạo diễn Jean-Jacques Annaud) hay những trận đấu mang dấu ấn lịch sử trong Escape to Victory (1981, đạo diễn John Huston) hoặc Das Wunder von Bern (2003, đạo diễn Sönke Wortmann). Bóng đá đôi khi còn được "mượn" để nói tới các đề tài văn hóa khác, có thể kể tới vở kịch truyền hình Trận bóng của những triết gia do nhóm Monty Python thực hiện năm 1972.
Trò chơi
Bóng đá cũng là một trong những môn thể thao được chuyển thể thành các trò chơi (bởi vì nhờ lượng tín đồ vô cùng đông đảo của môn thể thao này mà nó có thể được coi là một "mảnh đất màu mỡ" cho các nhà làm game để tạo ra các tựa game bóng đá), từ các trò chơi cổ điển ví dụ như bóng đá bàn hay Subbuteo... đến các trò chơi điện tử hiện đại ví dụ như loạt EA Sports FC Mobile (tiền thân là FIFA Mobile) của hãng Electronic Arts, loạt Pro Evolution Soccer của hãng Konami (trò chơi điện tử bán chạy nhất tại Pháp năm 2006) hay loạt Dream League Soccer của hãng First Touch Games....
Cổ động viên
Bóng đá, môn thể thao được hâm mộ nhất thế giới, đã tạo riêng cho nó một nền văn hóa cổ động riêng biệt. Cổ động viên là những người đóng góp tài chính nhiều nhất cho câu lạc bộ hoặc đội tuyển họ yêu thích thông qua nhiều hình thức như mua vé vào sân, mua đồ lưu niệm của đội bóng hoặc tham gia các hội người hâm mộ do đội bóng tổ chức. Bên cạnh đó, các cổ động viên cũng là động lực (và cả sức ép) cho đội bóng trong và ngoài sân đấu, vì vậy đôi khi cổ động viên bóng đá được coi như "cầu thủ thứ 12" của đội bóng.
Tuy nhiên, có một số cổ động viên quá khích được gọi là các hooligan, trong lịch sử bóng đá, không ít trường hợp các hooligan đã bị cấm vào sân vận động vĩnh viễn và cũng không ít trường hợp, các cầu thủ và hooligan đã ẩu đả với nhau.
Các hội cổ động viên bóng đá bắt đầu được hình thành từ cuối thế kỷ 19 tại Anh. Ban đầu các hội này thường phụ thuộc trực tiếp vào các đội bóng nhưng kể từ thập niên 1940 họ bắt đầu tách riêng đứng độc lập. Các hội cổ động viên thường đứng ra tổ chức các hình thức cổ động trên sân, đặc biệt là trong các trận đấu "derby" giữa các đội bóng kình địch. Những trận "derby" giữa các đội bóng kình địch nổi tiếng thường trở thành màn trình diễn không chỉ của các siêu sao hai đội mà còn là của các hội cổ động viên, có thể kể tới các trận "derby" nổi tiếng thế giới như Derby della Madonnina giữa A.C. Milan và Inter Milan của Ý, El Clásico giữa Real Madrid và FC Barcelona của Tây Ban Nha hay El Superclásico giữa CA Boca Juniors và CA River Plate của Argentina và gần đây nhất là Derby Manchester giữa Manchester United và Manchester City (Sau khi Man City có được sự hậu thuẫn của các ông chủ Ả Rập, họ đang ngày càng mạnh lên và trở thành đối trọng với MU).
Thông thường các cổ động viên bóng đá thường cổ vũ trận đấu một cách hòa bình, tuy nhiên đôi khi bạo lực cũng bùng phát, đặc biệt là trong các trận đấu giữa những đội bóng kình địch. Bạo lực thậm chí đã biến một số trận đấu trở thành thảm kịch, ví dụ điển hình là thảm họa Heysel diễn ra trên sân vận động Heysel tại Bỉ năm 1985 đã khiến 39 cổ động viên thiệt mạng, hơn 600 người khác bị thương. Trong một số trường hợp khác, cổ động viên bóng đá quá khích lại tràn xuống sân làm gián đoạn các trận thi đấu, đây là trường hợp của trận giao hữu giữa đội tuyển Algérie và đội tuyển Pháp diễn ra năm 2001 tại Stade de France, các cổ động viên tràn vào sân đã làm trận đấu phải kết thúc sớm 15 phút.
Các loại hình bóng đá khác
Bóng đá thông thường được chơi với hai đội hình 11 người trên sân lớn, tuy nhiên đôi khi môn thể thao này cũng được biến đổi về số người chơi, luật lệ để phù hợp với các điều kiện chơi bóng khác nhau.
Bóng đá mini
Bóng đá mini (hay tiếng lóng là Bóng đá phủi) là một trong những loại hình khác của bóng đá, dành cho mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi thành phần,.... Mỗi trận đấu phải có hai đội, mỗi đội từ 5 đến 7 cầu thủ bao gồm cả thủ môn. Sự khác biệt khác với bóng đá thông thường bao gồm một sân nhỏ hơn, khung thành nhỏ hơn, thời lượng trận đấu giảm. Được chơi trong nhà hoặc ngoài trời, thường là trên sân cỏ nhân tạo, có thể được đặt trong một rào chắn hoặc "lồng" để ngăn bóng rời khỏi khu vực chơi và giữ cho trò chơi liên tục diễn ra. Khác so với bóng đá chuyên nghiệp, bất kỳ ai cũng có thể chơi bóng đá mini, từ học sinh, sinh viên, cho đến những người đã có nghề nghiệp, công ăn việc làm, đến cả những người đã nghỉ hưu,..., chỉ cần có đam mê bóng đá là có thể chơi được. Chính vì thế mà đây cũng là một dạng bóng đá không chuyên.
Futsal
Futsal hay Bóng đá trong nhà là môn thể thao tương tự bóng đá nhưng các trận đấu được diễn ra trong nhà với một số luật lệ được thay đổi cho phù hợp ví dụ kích thước sân và bóng được thu nhỏ, các cầu thủ đi giày đế bằng thay vì giày đinh như ở các trận đấu sân cỏ. Futsal ra đời vào năm 1930 tại Uruguay và liên tục phát triển dưới sự bảo trợ của FIFA. FIFA cũng là tổ chức điều hành Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới. Các đội tuyển quốc gia có truyền thống ở môn thể thao này có thể kể tới Tây Ban Nha, Ý, Argentina và Brasil. Ở châu Á thì Iran và Nhật Bản là hai quốc gia mạnh nhất và độc chiếm toàn bộ chức vô địch của giải AFC Futsal Asian Cup.
Bóng đá bãi biển
Bóng đá bãi biển (Beach Soccer) là môn bóng đá chơi trên bãi cát, thông thường là bãi biển. Các trận đấu bóng đá bãi biển có 2 đội, mỗi đội 5 người với quyền thay người không hạn chế. Các cầu thủ chơi trên một sân nhỏ kích thước 28x37 m trong 3 hiệp, mỗi hiệp 12 phút. Giải vô địch thế giới môn bóng đá bãi biển được FIFA tổ chức từ năm 1995. Trong môn thể thao này, đội tuyển thống trị nhiều năm qua là đội bóng đá bãi biển Brasil, đội này đã 14 lần vô địch thế giới kể từ năm 1995, thành tích vượt xa so với các đội đứng tiếp theo là Nga và Bồ Đào Nha (cùng 3 lần vô địch thế giới) và Pháp (1 lần vô địch thế giới).
Bóng đá đường phố
Loại hình khác
Bóng đá cho người khuyết tật có hai loại hình chính là bóng đá xe lăn (cho người khuyết tật chi) và bóng đá cho người khiếm thị (cho người có khuyết tật về mắt). Môn bóng đá cho người khiếm thị được đưa vào nội dung thi đấu của Paralympic kể từ năm 2004. Tại các loại hình bóng đá này thì những đội tuyển Nam Mỹ như Brasil và Argentina cũng là những người thống trị. Ngoài ra tại các thành thị còn thịnh hành loại bóng đá đường phố.
Bóng đá ba đội, một thể loại bóng đá mà trong mỗi trận đấu có ba đội tham gia thi đấu, đội để thủng lưới ít nhất là đội chiến thắng. Trong mỗi trận, các liên minh tạm thời giữa hai đội đang thủng lưới nhiều hơn sẽ dồn ép đội thủng lưới ít nhất, các liên minh thành lập và tan vỡ liên tục theo tỉ số trận đấu.
Ngoài những loại hình kể trên, cũng còn một số loại hình ít phổ biến hơn như môn jorkyball hay môn bóng đá tennis.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tổ chức
Trang chủ của liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá châu Á (AFC)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF)
Trang chủ của liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC)
Luật bóng đá trên trang của FIFA
Trang chủ của Tổ chức thống kê bóng đá (RSSSF)
Trang chủ của Hiệp hội thống kê bóng đá (AFS)
Trò chơi với bóng
Thuật ngữ bóng đá
Môn thể thao có nguồn gốc từ Anh
Môn thể thao Thế vận hội Mùa hè
Các môn bóng đá
Giáo dục thể chất
|
25250
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99
|
Tê giác Ấn Độ
|
Tê giác Ấn Độ hay tê giác một sừng lớn (Rhinoceros unicornis) là một loài tê giác có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Chúng được đánh giá là sắp nguy cấp và có trong sách đỏ IUCN, vì các quần thể bị chia cắt và giới hạn dưới 20.000 km2. Hơn thế nữa, mức độ, chất lượng của môi trường sống quan trọng nhất của tê giác là Xavan Terai-Duar phù sa, đồng cỏ và các rừng ven sông đang suy giảm do sự xâm lấn của con người và gia súc. Tính đến năm 2008, ước tính có tổng cộng 2.575 cá thể tê giác trưởng thành sống trong tự nhiên.
Tê giác Ấn Độ từng sinh sống trên toàn bộ đồng bằng Ấn-Hằng, nhưng nạn săn bắn quá mức và phát triển nông nghiệp đã làm giảm phạm vi của chúng xuống còn mười một nơi ở miền bắc Ấn Độ và miền nam Nepal. Vào những năm 1990, ước tính có khoảng 1.870 đến 1.895 con tê giác còn sống.
Phân bố
Tê giác một sừng sống ở vùng đồi thấp dưới chân dãy núi Himalaya thuộc Nepal và Ấn Độ.
Nét đặc trưng
Loài tê giác này có lớp da dày màu nâu ánh bạc tạo ra bởi nhiều lớp trên toàn bộ cơ thể chúng. Các chân trước và vai được che phủ bởi các bướu trông giống như mụn cơm.Chúng có rất ít lông. Con đực trưởng thành to lớn hơn con cái một cách rõ ràng, chúng cao tới 1,8 mét, nặng tới 2.270 kg và dài tới 3,6 mét. Tê giác một sừng có một sừng; sừng này có ở cả con đực và con cái, nhưng không có ở con non mới sinh. Sừng, giống như tóc ở người, được hình thành từ keratin tinh khiết và bắt đầu mọc ở con non sau khoảng 1 năm. Sừng có thể dài từ 20 đến 61 cm.
Chúng là những động vật bơi lội giỏi, có thể chạy với tốc độ 55 km/h trong một thời gian ngắn, có thính giác và khứu giác tốt nhưng thị giác lại kém.
Con đực bắt đầu có khả năng sinh sản ở độ tuổi 9 năm và ở con cái là 5 năm, chúng sinh lứa đầu tiên khi con cái ở độ tuổi từ 6 đến 8 năm. Con cái phát ra tiếng kêu vào mùa sinh sản để báo cho các con đực biết rằng nó đã sẵn sàng để giao phối. Chu kỳ mang thai kéo dài khoảng 16 tháng. Mỗi lần chúng chỉ sinh một con non duy nhất và khoảng thời gian giữa các lần sinh đẻ rơi vào khoảng 3 năm. Tê giác mẹ chăm sóc và bảo vệ con của chúng. Con non thường sống với mẹ trong vài năm. Tê giác mẹ và các con của chúng thường đi cùng nhau, nhưng con bố thì thường đi một mình và chúng là chủ lãnh thổ của gia đình. Tê giác Ấn Độ có thể sống tới 45 năm.
Phân loại
Rhinoceros unicornis là tên khoa học được Carl Linnaeus sử dụng vào năm 1758, người đã mô tả một con tê giác có một sừng. Là một loài địa phương, ông chỉ ra Châu Phi và Ấn Độ.
Loài tê giác một sừng này là một đơn loài. Một số mẫu vật đã được mô tả từ cuối thế kỷ 18 dưới các tên khoa học khác nhau, tất cả đều được coi là các từ đồng nghĩa của Rhinoceros unicornis ngày nay:
R. aimus của Cuvier, 1817
R. asiaticus của Blumenbach, 1830
R. stenocephalus của Gray, 1867
R. Phân loạijamrachi của Sclatter, 1876
R. bengalensis của Kourist, 1970
Từ nguyên
Tên chi Rhinoceros là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại ῥίς (ris) nghĩa là 'mũi' và κέρας (keras) nghĩa là 'sừng của một con vật'. Từ tiếng Latinh ūnicornis có nghĩa là một sừng.
Tiến hóa
Tổ tiên đầu tiên của Rhinoceros chuyển hướng từ các động vật guốc lẻ khác vào đầu thế Eocen. Các so sánh ti thể DNA cho thấy rằng tổ tiên của tê giác hiện đại tách ra từ tổ tiên của họ Ngựa khoảng 50 triệu năm trước. Họ còn tồn tại, họ Rhinocerotidae, xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế Eocen ở Á - Âu, tổ tiên của các loài tê giác còn tồn tại phân tán từ châu Á bắt đầu từ thế Miocen.
Hóa thạch của R. unicornis xuất hiện ở giữa thế Pleistocen. Vào thế Pleistocen, chi Rhinoceros có ở khắp Nam và Đông Nam Á, với các mẫu vật nằm ở Sri Lanka. Vào Thế Holocen, một số con tê giác sống ở phía tây như Gujarat và Pakistan cho đến gần 3.200 năm trước.
Tê giác Ấn Độ và Javan, thành viên duy nhất của chi Rhinoceros, xuất hiện lần đầu tiên trong hồ sơ hóa thạch ở châu Á khoảng 1,6 triệu mật 3,3 triệu năm trước. Tuy nhiên, ước tính phân tử cho thấy loài này có thể đã chuyển hướng sớm hơn nhiều, khoảng 11,7 triệu năm trước. Mặc dù thuộc chi loại, tê giác Ấn Độ và Java không được tin là có họ hàng gần gũi với các loài tê giác khác. Các nghiên cứu khác nhau đã đưa ra giả thuyết rằng chúng có thể có họ hàng gần gũi với các loài đã tuyệt chủng Gaindatherium hoặc Punjabitherium. Một phân tích chi tiết về loài tê giác đã đặt Rhinoceros và loài tuyệt chủng Punjabitherium trong một cuộc chiến với Dicerorhinus, tê giác Sumatra. Các nghiên cứu khác cho thấy tê giác Sumatra có liên quan chặt chẽ hơn với hai loài châu Phi. Tê giác Sumatra có thể đã tách khỏi các loài tê giác châu Á khác từ 15 triệu năm trước.
Tình trạng
Tê giác Ấn Độ thường bị săn bắn trộm để lấy sừng, do trong một số nền văn hóa Đông Á người ta cho rằng sừng tê giác có các tác động tốt đối với sức khỏe và khả năng sinh dục.
Nhiều công viên quốc gia lớn đã được dựng lên để bảo vệ chúng, và đã được chính phủ các nước như Ấn Độ và Nepal thực thi với sự trợ giúp của Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF). Vườn quốc gia Kaziranga và vườn quốc gia Manas ở Assam và Vườn hoàng gia Chitwan ở Nepal là nơi cư ngụ cho loài động vật sắp nguy cấp này.
Chú thích
U
Loài EDGE
Động vật có vú Ấn Độ
Động vật có vú Bangladesh
Động vật có vú Nepal
Động vật được mô tả năm 1758
Động vật có vú châu Á
Động vật Nam Á
Loài dễ thương tổn
|
25251
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Takeda%20Shingen
|
Takeda Shingen
|
là một lãnh chúa (daimyo) của vùng Kai và vùng Shinano trong thời Chiến Quốc của Nhật Bản. Được mệnh danh là "Mãnh hổ xứ Kai", Takeda Shingen là một trong những lãnh chúa mạnh nhất giai đoạn cuối thời Chiến Quốc.
Tên gọi
Khi sinh ra vào ngày 1 tháng 12 năm 1521, Takeda Shingen được đặt tên là Takeda Katsuchiyo. Khi đến tuổi trưởng thành, ông lại đổi tên là Takeda Harunobu và đến năm 1551, ông lấy tên Takeda Shingen.
Cuộc đời
Takeda Shingen là con trai cả của Takeda Nobutora, một vị lãnh chúa và quân sư tài ba của vùng Kai. Ông đã đóng góp rất lớn trong việc quản lý lãnh địa và được mọi người tôn trọng ngay khi tuổi còn khá nhỏ. Tuy nhiên, sau đó ông lại nổi lên chống lại cha mình và chiếm quyền quản lý dòng họ Takeda. Lý do cuộc đảo chính này đến nay vẫn rõ ràng nhưng nhiều người cho rằng đó là do Takeda Nobutora dự định cho người con trai thứ là Takeda Nobushige làm người kế vị chính thức. Khi Nobutora đến thăm con gái đã gả cho gia tộc Imagawa, Shingen đã cùng các tướng lĩnh chủ chốt chặn đường về Kai của cha mình. Kết quả là Takeda Nobutora bị ép buộc thoái vị (Takeda Nobutora không bị giết hay bị bắt mổ bụng tự sát, đây là kết quả của một cuộc đảo chính không đổ máu). Imagawa Yoshimoto đã thông đồng cùng Takeda Shingen trọng cuộc đảo chính này, và hai dòng họ Imagawa, Takeda vẫn tiếp tục liên kết với nhau sau đó. Liên minh sau đó chuyển thành 3 bên khi có thêm sự gia nhập của nhà Hojo.
Mục tiêu đầu tiên của Shingen sau khi lên ngôi là chinh phục vùng Shinano. Một số lãnh chúa lớn ở vùng Shinano lập tức đưa quân đến Kai nhằm vô hiệu hoá Shingen trước khi ông kịp chiêu quân đánh Shinano. Tuy nhiên, kế hoạch đánh bại Shingen ở Fuchu của các lãnh chúa đó đã thất bại khi họ bị quân của Shingen tấn công bất ngờ ở Sezawa. Shingen nắm lấy cơ hội và đẩy nhanh cuộc tấn công khi quân vùng Shinano còn chưa kịp hoàn hồn. Trong năm đó, ông tiến quân vào Shinano chinh phạt Suwa rồi tiến vào trung tâm Shinano đánh bại Tozawa Yorichika và Takato Yoritsugu. Nhưng Shingen bị chặn lại ở Uehara bởi quân của Murakami Yoshioki. Cuối cùng, Shingen cũng đánh bại được dòng họ Murakami. Murakami Yoshioki buộc phải chạy sang cầu cứu dòng họ Uesugi.
Sau khi chinh phục được Shinano, Shingen đối mặt với Uesugi Kenshin của vùng Echigo. Cuộc đụng độ giữa hai người đã trở thành huyền thoại, gặp nhau năm lần trên chiến trường Kawanakajima (1554, 1555, 1557, 1561, 1564). Tuy nhiên những cuộc đụng độ này chỉ là các cuộc chiến nhỏ, không bên nào nghĩ đến một trận quyết chiến cuối cùng. Cuộc đụng độ lớn nhất là lần thứ tư, quân của Kenshin xông thẳng vào quân của Shingen, tạo ra một con đường thẳng đến chỗ Shingen và hai người đụng độ mặt đối mặt. Truyền thuyết kể rằng Kenshin tấn công Shingen với thanh kiếm của mình, trong khi Shingen đỡ đòn bằng cây quạt sắt (tessen). Hai bên thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến này, đặc biệt là Shingen đã bị mất hai tướng là Yamamoto Kansuke và người em của mình, Takeda Nobushige. Đến 1564, Shingen hoàn toàn chinh phục vùng Shinano và chiếm một số lâu đài của Uesugi. Shingen giữ vững các vùng đất của mình và cho xây dựng đập trên sông Fuji, một trong những hoạt động phát triển nông nghiệp lớn nhất thời bấy giờ.
Sau khi Imagawa Yoshimoto bị Oda Nobunaga đánh bại, Shingen tấn công quân Imagawa đang bị tổn thất nặng nề. Ông thỏa hiệp với Tokugawa Ieyasu tấn công các vùng đất của quân Imagawa. Nhưng sau khi hoàn tất cuộc chinh phạt, Nhà Tokugawa đã liên minh với Oda để bảo vệ lãnh thổ trước sự bành trướng của phe Takeda.
Vận mệnh của toàn Nhật Bản đặt vào tay Shingen, khi ở tuổi 49 là lãnh chúa duy nhất có khả năng ngăn chặn cuộc tiến quân của Oda Nobunaga đến thủ đô của Nhật lúc bấy giờ. Ông đánh bại liên quân Tokugawa năm 1572 ở Mikatagahata và chiếm thành Futamata. Sau khi chiến thắng Tokugawa Ieyasu, cuộc tiến quân của Shingen bị ngưng lại do một số vấn đề đối nội. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành quân vào năm 1573 và bất ngờ qua đời ngày 13 tháng 5 năm 1573.
Takeda Shingen qua đời vì bệnh ở tuổi 53, khi nằm trên giường bệnh, điều làm ông trăn trở nhất chính là cậu con trai cũng là người thừa kế của mình, Takeda Katsuyori. Ngay khi hay tin Takeda Shingen vĩ đại qua đời, chắc chắn tất cả những đối thủ từ trước đến giờ sẽ đồng loạt tấn công.
Đoán trước tình thế, ông đã để lại những lời cuối cùng này cho con trai mình:
"Sau khi ta chết đi, không được điều động binh lính bừa bãi. Cống hiến hết mình để củng cố chính trị trong nước, nếu kẻ địch có đột nhập thì tìm mọi cách phòng thủ, nếu chúng tháo chạy thì đuổi theo. Bằng mọi cách, che giấu việc ta qua đời trong ít nhất 3 năm".
Đó là tinh thần bất diệt của một Samurai, vào phút cuối đời vẫn đặt đất nước và con trai của mình lên trên cái chết của bản thân.
Các tướng lĩnh dưới quyền
Dưới thời Edo, 24 vị tướng của Shingen là một đề tài nổi tiếng của Ukiyo-e và Bunraku. Tuy việc làm và chức vụ không được nói tới, một số thì đã chết trước khi các tướng lĩnh khác phục vụ nhưng họ đều đó đóng góp rất lớn cho Shingen và dòng họ Takeda.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thời kỳ Sengoku
Daimyo
Shudo
Sinh năm 1521
Mất năm 1573
Người Yamanashi
|
25252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D%20nhanh
|
Cờ nhanh
|
Cờ nhanh (Fast chess) là một thể loại trong cờ vua, bao gồm cờ nhanh (Rapid chess), cờ chớp (Blitz chess) và cờ chớp sinh tử (Armageddon). Mỗi bên sẽ được cho ít thời gian hơn trong mỗi ván đấu, nhiều nhất là 60 phút.
Cờ vua nhanh thể hiện sự nhạy bén trong tư duy một cách nhanh nhất mà con người có thể làm được. Mỗi bên cờ nhanh có thể gồm các thể loại 30 phút, 20 phút, 15 phút dành cho mỗi bên. Người chơi phải cố gắng lướt nhanh bàn cờ và suy nghĩ thật nhanh để không bị thua do hết thời gian, bởi chỉ cần một bên "rụng kim" (hết thời gian) thì xem như thua cuộc, bất kể diễn biến trong ván cờ ra sao (trừ khi bên còn thời gian không còn một quân nào trên bàn cờ, không tính quân vua- thì lúc đó sẽ xử hòa).
Tổng thể
Cờ nhanh có rất nhiều thể loại riêng tùy theo lượng thời gian được cho trong mỗi ván đấu. Mỗi thể loại cờ nhanh đều sử dụng đồng hồ tính giờ (cờ vua) để tính thời gian. Bao gồm:
Cờ nhanh (Rapid hoặc Quick): 15 đến 60 phút cho mỗi người chơi, có thể tăng thời gian cho mỗi nước đi (ví dụ tăng 10 giây cho mỗi nước).
Cờ chớp (Blitz): 15 phút hoặc ít hơn cho mỗi bên. Các ván cờ này thường thuộc loại cái chết bất ngờ (Sudden Death) khi không được tăng thời gian cho mỗi nước đi. Tuy nhiên một số trận đấu có thể tăng một khoảng thời gian nhỏ cho mỗi nước đi (ví dụ 1 hoặc 2 giây) tùy thuộc vào người chơi. Thông dụng nhất là thể loại 3 phút, tăng 2 giây cho một nước đi.
Cờ siêu chớp (Bullet): 1 đến 3 phút cho mỗi bên. Thông dụng nhất là 2 phút (cộng 1 giây cho mỗi nước) hoặc 1 phút (cộng 2 giây cho mỗi nước). Thể loại này cũng thường được gọi là Lightning.
Cờ chớp sinh tử (Armageddon): một thể loại cờ chớp chỉ có kết quả thắng hoặc thua. Với Đen, hòa đồng nghĩa với một trận thắng. Để công bằng, Trắng có nhiều thời gian hơn cho mỗi ván. Thông dụng nhất là 6 phút cho Trắng và 5 phút cho Đen hoặc 5 phút cho Trắng và 4 phút cho Đen. Một số trận đấu cũng thường được tăng một khoảng thời gian nhỏ cho mỗi nước đi (ví dụ tăng 2 giây cho mỗi nước). Cờ chớp sinh tử thường được dùng trong các trận tie-break để quyết định người thắng, thua trong các giải đấu nhanh.
Lightning: thường được sử dụng để gọi Blitz (cờ chớp) hoặc Bullet, hoặc để gọi chung cho cờ nhanh. Lightning cũng thường được đề cập đến những trận đấu với thời gian cố định cho mỗi nước đi (ví dự 10 giây cho mỗi nước). Lightning còn được đề cập đến thể loại cờ 1 phút.
Trước khi phát minh ra đồng hồ tính giờ điện tử, mỗi trận đấu cờ nhanh hoặc cờ chớp thường là 5 phút cho mỗi bên. Trước khi đồng hồ tính giờ được giới thiệu (trước thập niên 1950), các trận đấu cờ nhanh thường có một trọng tài với nhiệm vụ hô to sau 10 giây.
Năm 1988, Walter Brown thành lập Hiệp hội Cờ chớp Thế giới (World Blitz Chess Association) với tạp chí Cờ chớp (Blitz Chess), giải thể năm 2003.
Trong một vài giải đấu và trận đấu, thứ hạng cuối cùng của các kỳ thủ có thể được quyết định sau một series các trận đấu với lượng thời gian ít dần như một trận tie-break. Trong trường hợp này, 2 trận thường được chơi với cùng khoảng thời gian, mỗi bên được cầm Trắng và Đen một lần. Với việc có ít thời gian cho việc tính toán mỗi nước đi, các trận đấu này thường có kết quả nằm ngoài dự đoán. Người chơi hết thời gian trước sẽ bị xử thua, trừ trường hợp đội thủ không còn khả năng chiếu hết và kết quả sẽ là hòa. "Thua vì thời gian" rất ít xảy ra trong các trận đấu cờ tiêu chuẩn với lượng thời gian dài nhưng lại xảy ra thường xuyên trong cờ nhanh và cờ chớp.
Các trận đấu cờ nhanh tuân theo các quy định của FIDE, trừ khi các giải đấu có những quy định đặc biệt khác. Một quy định cơ bản trong cờ nhanh là nếu một người chơi đi sai, đối thủ có thể chỉ ra và được yêu cầu chiến thắng. Ví dụ nếu một người chơi để vua của mình bị chiếu mà không bảo vệ trong nước đi tiếp theo, đối thủ có thể yêu cầu chiến thắng. Luật này có thể không được áp dụng trong các trận đấu giao hữu. Trường hợp có tranh cãi giữa hai đối thủ với nhau, người chơi phải dừng đồng hồ lại và gọi trọng tài để phân xử.
Từ blitz hay blitzkrieg trong cờ vua có nghĩa là một đợt tấn công nhanh và sớm vào ô f2 hoặc f7, chiếu vua.
Boxing Cờ vua là một thể loại khác, kết hợp cờ nhanh và boxing.
Bullet thường nhanh hơn cờ chớp (blitz). Chiến thuật và kỹ năng chơi cờ chỉ là thứ yếu cho mỗi nước đi nhanh. Các tính toán sâu và chiến lước hầu như không đáng kể. Theo luật của Liên đoàn Cờ vua Hoa Kỳ (USCF), bullet không được tính trong bảng xếp hạng. Một kỳ thủ thuộc USCF chỉ được tính điểm trong bảng xếp hạng nếu chơi trận đấu 5 phút hoặc nhiều hơn. Với các thể loại cờ nhanh, một người chơi có thể thắng nhờ diễn biến trên bàn cờ hoặc thắng nhờ đối thủ hết thời gian. Một trận đấu dưới 30 phút ảnh hưởng tới điểm trên bảng xếp hạng cờ nhanh, trên 30 phút sẽ ảnh hưởng tới điểm trên bảng xếp hạng cờ tiêu chuẩn. Nếu trận đấu 30 phút thì sẽ ảnh hưởng cả hai.
Những người chơi có hai sự lựa chọn: hãy chiến thắng khi chưa hết thời gian hoặc đánh cầm chừng để hơn đối phương về thời gian. Với cách chọn đầu tiên, họ nên tập trung vào những lúc cao điểm, tức là khi thế cờ phức tạp ở trung cuộc cần đánh những nước thật chính xác dù phải chấp nhận mất nhiều thời gian để suy nghĩ, đến lúc này họ phải chắc chắn mình hơn đối phương về chất, nếu sau lúc đó thế cờ vẫn ngang nhau thì 70% họ có thể thua thời gian. Nếu họ chọn cách thứ hai, hãy đánh thật nhanh, không cần phải nghĩ "cao siêu" gì hết, tất nhiên họ chỉ để lỗ quân một chút thôi để câu giờ, và họ phải dồn ván cờ vào thế phức tạp, chẳng hạn không chịu đổi quân hay "đóng băng" trung tâm, kéo dài càng lâu càng tốt. Người chơi phải nhìn vào đồng hồ liên tục và phải giữ lại ít nhất một con tốt để có thể giành thắng lợi về thời gian.
Giải vô địch
Không chính thức (1970)
Trước năm 1971, các giải cờ vua 5 phút của Liên Xô và Moscow (Liên Xô) đã diễn ra được vài năm với Mikhail Tal, David Bronstein và Tigran Petrosian là các nhà vô địch. Cũng trong năm 1971, Bobby Fischer tham gia một giải đấu cờ chớp ở Câu lạc bộ Cờ vua Manhattan và giành tới 21½/22 điểm. Giải đấu không chính thức đầu tiên "Giải Cờ Tốc độ Thế giới"(Speed Chess Championship of the World) hay ("Giải Vô địch Cờ chớp Thế giới" - World Blitz Championship) được tổ chức tại Herceg Novi vào 8 tháng 4 năm 1970. Giải được tổ chức ngay sau trận đấu đầu tiên giữa trận đấu Liên Xô và Phần còn lại của Thế giới (Rest of the World) (ở Belgrade) với 10 kỳ thủ tham dự. 11 Đại kiện tướng và 1 Kiện tướng tham dự trong một giải đấu vòng tròn, 2 lượt. Bobby Fischer giành chức vô địch với 19/22 điểm. Fischer có 17 thắng, 4 hòa và 1 thua (trước Viktor Korchnoi). Mikhail Tal đứng thứ hai với 4½ điểm kém Fischer. Fischer thắng cả hai trận với Tal, Tigran Petrosian và Vassily Smyslov, đều là những cựu Vô địch Cờ vua Thế giới
Kỳ thủ tham gia và điểm
Bobby Fischer 19
Mikhail Tal 14½
Viktor Korchnoi 14
Tigran Petrosian 13½
David Bronstein 13
Vlastimil Hort 12
Milan Matulović 10½
Vassily Smyslov 9½
Sammy Reshevsky 8½
Wolfgang Uhlmann 8
Borislav Ivkov 7½
Predrag Ostojić 2
Vô địch Cờ chớp Thế giới
Vô địch Cờ nhanh Thế giới
Câu nói nổi tiếng
Rất nhiều kỳ thủ cờ vua chuyên nghiệp không coi cờ nhanh, cờ chớp và bullet một cách nghiêm túc như cờ tiêu chuẩn. Có một vài câu nói nổi tiếng của các kỳ thủ hàng đầu:
"Một người có thể đánh mất thói quen tập trung vài giờ trong các trận đấu nghiêm túc nếu chơi cờ nhanh. Đó là lý do tại sao nếu một người muốn thăng tiến nhanh, anh ta nên hạn chế chơi cờ nhanh." - Vladimir Kramnik
"Như những chú chó thường khụt khịt mỗi khi gặp nhau, các kỳ thủ thường có một quy tắc khi mới lần đầu gặp nhau: họ ngồi xuống và chơi cờ tốc độ." - Anatoly Karpov
"Vâng, tôi có chơi cờ chớp một lần. Đó là trên một chuyến tàu vào năm 1929." - Mikhail Botvinnik
"Ai mà phân tích các ván cờ chớp thật ngu ngốc." - Rashid Nezhmetdinov
"Cờ chớp giết chết ý tưởng của bạn." - Bobby Fischer
"Thú thực, tôi coi cờ bullet hơi trẻ con, và do đó tôi không bao giờ chơi nó." - Vladimir Kramnik
"Cờ chớp - chỉ là thú vui mà thôi." - Vladimir Kramnik
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Example of Fast Chess by Grandmasters Hikaru Nakamura and Maxim Dlugy
USCF rules
FIDE rapid play and blitz rules
Giải vô địch cờ vua thế giới
Lịch sử cờ vua
Thuật ngữ cờ vua
Giải đấu cờ vua
|
25254
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20tr%E1%BA%AFng
|
Tê giác trắng
|
Tê giác trắng hay tê giác môi vuông (Ceratotherium simum) là một trong năm loài tê giác còn tồn tại và là một trong số rất ít loài động vật ăn cỏ lớn còn tồn tại. Chúng có nguồn gốc ở đông bắc và miền nam châu Phi. Tê giác có xu hướng sống thành bầy đàn từ 1 đến bảy con, mặc dù chúng là những động vật to lớn. Trên mõm của chúng có hai sừng với cấu tạo từ các sợi keratin (không phải xương như ở gạc hươu, nai).
Đặc điểm
Tê giác trắng khác với tê giác đen ở hình dạng miệng của chúng – ở tê giác trắng thì miệng của chúng rộng hơn để gặm được nhiều cỏ; theo một giả thuyết thì thuật ngữ "White" (trắng) trong tiếng Anh thực sự có nguồn gốc từ tiếng Afrikaan "weit", có nghĩa là 'rộng'. Da của tê giác trắng có màu hoàn toàn tương tự như của tê giác đen.
Tê giác trắng cũng có một bướu rõ nét ở phía sau cổ của nó để giữ được cái đầu to lớn. Mỗi chân của tê giác trắng có ba ngón. Chúng đôi khi được gọi là tê giác môi vuông do môi lỗi ra của chúng để hỗ trợ việc gặm các loại cỏ ngắn ở các vùng xavan. Chúng có khả năng đi 4 đến 5 ngày mà không cần nước uống. Tê giác trắng rất ít sinh sản khi bị giam cầm; kể từ năm 1995, chỉ có một con tê giác cái được sinh ra ở Dvur Králové.Vào năm 2019, Safari Phú Quốc đã cho ra đời 1 cá thể tê giác khác.
Phân loài
Có hai phân loài tê giác trắng:
Tê giác trắng phương Nam: Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, ước tính có 17.460 tê giác trắng phương Nam sống trong tự nhiên (IUCN 2008), làm cho chúng thành phân loài tê giác phổ biến nhất trên thế giới. Nam Phi là thành trì cho loài này (93.0%), bảo tồn 16.255 cá thể trong tự nhiên vào năm 2007 (IUCN 2008). Có quần thể nhỏ hơn trong môi trường sống lịch sử của loài này ở Namibia, Botswana, Zimbabwe và Eswatini, và một nhóm nhỏ tồn tại ở Mozambique. Các quần thể nhỏ cũng có tồn tại bên ngoài phạm vi sống trước đây của loài tại Kenya, Uganda và Zambia.
Tê giác trắng phương Bắc (Ceratotherium simum cottoni) được xem là loài có nguy cơ hoặc bị tuyệt chủng trong hoang dã, trước đây tìm thấy ở một số quốc gia Đông Phi và Trung Phi phía nam sa mạc Sahara, phân loài này là một loài động vật sống ở đồng cỏ và rừng hoang mạc. Trên thế giới, hiện nay chỉ còn tồn tại có 3 cá thể được ghi nhận, mà đã được trả lại cho khu vực bảo tồn ở Kenya. Trong thời gian gần trước đó, số lượng Tê giác trắng phương Bắc trong tự nhiên chỉ có trong Vườn quốc gia Garamba ở Cộng hòa Dân chủ Congo (trước đây là Zaire) và có bước đầu phục hồi từ mức thấp trong những năm 1970 đến khoảng 40 cá thể. Tuy nhiên, sau khi cuộc nội chiến và các cuộc tấn công của lực lượng bán quân sự từ Sudan làm số lượng giảm dần và theo tường thuật báo chí từ năm 2008 bị xóa sổ trong tự nhiên.
Ban đầu, sáu con tê giác trắng miền Bắc còn sống trong Vườn thú Dvur Králové ở Cộng hòa Czech. Trong sáu con đó, bốn con còn khả năng sinh sản đã được vận chuyển đến Khu bảo tồn Ol Pejeta Conservancy tại Kenya, châu Phi, môi trường sống lịch sử của chúng với hy vọng chúng sẽ phát triển. Trong năm 2015, chính phủ Kenya đặt con đực còn lại của loài tại Ol Pejeta dưới bảo vệ vũ trang liên tục 24 giờ để ngừa trộm. Một trong hai cá thể còn lại ở Cộng hòa Czech đã chết vào cuối tháng năm 2011. Cả hai con đực cuối cùng có khả năng giao phối tự nhiên qua đời vào năm 2014 (một ở Kenya vào ngày 18 tháng 10 và một ở Công viên động vật hoang dã San Diego, vào ngày 15 tháng 12).
Như vậy, chỉ còn ba con tê giác trắng phương Bắc trên toàn thế giới, tất cả đã quá già và không còn khả năng sinh sản, và được coi là động vật có vú lớn hiếm nhất trên thế giới và IUCN công bố kể từ những năm đầu 2010 trong danh sách đỏ các loài bị đe dọa tuyệt chủng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy là loài tê giác trắng phương Bắc có lẽ là một loài riêng biệt, chứ không phải là một phân loài của tê giác trắng như những gì được biết trước, trong trường hợp đó, tên khoa học chính xác cho loài cũ là cottoni Ceratotherium.
Săn trộm
Giống như tê giác đen, tê giác trắng cũng đang ở dưới các đe dọa do mất khu vực sinh sống và săn bắn trộm, chủ yếu gần đây là do việc bắn hạ của các janjaweed. Điều này làm cho các nhà bảo tồn phải đưa đề nghị di chuyển bằng máy bay các con tê giác trắng còn lại ở Garamba tới Kenya vào tháng 1 năm 2005. Sự can thiệp của các lực lượng ngoại quốc vào công việc của Congo đã ngăn không cho công việc này được thực thi vào tháng 6 năm 2005. Ngược với các thông báo trên, công viên động vật hoang dã Whipsnade tại Vương quốc Anh đã thu được thành công đáng kể trong nhiều năm qua trong việc nhân giống tê giác trắng trong tình trạng giam cầm. Trên thực tế, vào năm 2005, ba con tê giác trắng đã được sinh ra trong bầy đàn ở Whipsnade.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mục từ tê giác trắng trong website của Quỹ tê giác quốc tế.
Mục từ tê giác trắng trong website của WWF.
Mục từ tê giác trắng trong Sách đỏ của IUCN.
Vườn thú Honolulu
Vườn thú San Diego
Vườn thú Philadelphia
S
Động vật hoang dã châu Phi
Động vật có vú Ethiopia
Động vật có vú Cộng hòa dân chủ Congo
Động vật có vú Kenya
Động vật có vú Nam Phi
Động vật có vú Namibia
Động vật có vú Sudan
Động vật có vú Tanzania
Động vật có vú Uganda
Động vật có vú Zambia
Động vật được mô tả năm 1817
Động vật Đông Phi
Loài sắp bị đe dọa
Động vật nguy hiểm
|
25256
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20qu%C3%A1n%20Tu%E1%BB%87%20Th%C3%A0nh
|
Hội quán Tuệ Thành
|
Hội quán Tuệ Thành (chữ Hán: 穗城會館), thường được gọi là Miếu Thiên Hậu hay Chùa Bà Chợ Lớn, là một cơ sở tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh mẫu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những nơi thờ tự cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên đất Đề Ngạn xưa.
Lịch sử
Hội quán Tuệ Thành được nhóm người Hoa gốc Tuệ Thành (tức Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng và được trùng tu nhiều lần. Do quá lâu đời và không có tài liệu cụ thể nên không biết chính xác hội quán được xây dựng vào năm nào, tuy nhiên có vài ý kiến cho rằng hội quán xây dựng vào năm 1760. Tại Hội quán còn lưu giữ một đại hồng chung, đề "Đạo Quang năm thứ 10" tức làm vào năm 1830. Một bộ lư Pháp lam (cloisonne) vĩ đại, cũng đề một niên hiệu ấy.
Hội quán nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này. Trong Gia Định thành thông chí soạn khoảng năm 1820, tác giả Trịnh Hoài Đức đã có nhắc đến hội quán này:
Sự tích Bà Thiên Hậu
Theo học giả Vương Hồng Sển thì Thiên Hậu Thánh mẫu (vị thần được thờ chính trong chùa) có tên là Lâm Mặc Nương, người đảo Mi Châu, thuộc Bồ Dương (Phước Kiến). Bà sinh ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), đời vua Tống Nhân Tông. Sau đó, 8 tuổi bà biết đọc, 11 tuổi bà tu theo Đạo giáo. 13 tuổi, bà thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ "Nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng lạn một xấp cổ thư khác, rồi coi theo đó mà luyện tập đắc đạo.
Một lần, cha bà tên Lâm Tích Khánh ngồi thuyền cùng 2 con trai (2 anh của bà), chở muối đến tỉnh Giang Tây để buôn, giữa đường thuyền lâm bão lớn... Lúc đó bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ nhưng xuất thần để đi cứu cha và 2 anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo của cha, 2 tay nắm 2 anh, giữa lúc đó mẹ kêu gọi bà, buộc bà phải trả lời, bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được 2 anh. Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến bà. Năm Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu"
Kiến trúc
Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.
Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".
Chùa có gắn các tượng tròn, phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc chùa, mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường... do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908.
Thờ tự
Tiền điện là hai tran thờ hai bên: Phúc Đức Chánh thần (phải) và Môn Quan Vương Tả (trái). Tại đây có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và các bức tranh lớn vẽ cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước.
Trung điện đặt bộ lư có năm món (ngũ sự) đúc năm Quang Tự thứ 12 (1886).
Chính điện, được gọi là Thiên hậu Cung, gian giữa thờ Bà Thiên Hậu, hai bên thờ bà Kim Hoa Nương Nương (phía phải) và Long Mẫu Nương Nương (phía trái).
Được biết pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.
Chùa Bà Chợ Lớn hàng ngày vẫn đón tiếp những người đến cúng lễ khá đông. Nhưng đông hơn là vào các ngày mùng một và rằm hàng tháng, các ngày lễ Tết trong năm của người Hoa như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ... Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và Lễ khai ấn, cầu mong Bà phò trợ cho "Hộ quốc an dân" và "Hợp cảnh bình an". Riêng ngày vía Bà (23 tháng 3 [âm lịch]) được xem là ngày hội chính của chùa.
Vào ngày này, bà con người Hoa, người Việt đến cúng lễ rất đông. Ngay từ đêm hôm trước tại chùa đã cử hành Lễ tắm Bà. Sáng ngày 23, mọi người lại tổ chức Lễ rước Bà: Tượng Bà được đặt vào kiệu do các thanh niên nam nữ ăn mặc đẹp đẽ diễu qua các đường phố quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần được thờ phụng trong chùa, các đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng, các đội nhạc dân tộc vừa biểu diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo nhiệt trong các khu phố đông đảo người Hoa...
Cổ vật quý
Chính điện chùa còn 2 đại đồng chung niên hiệu Càn Long năm thứ 60 (1796) và Đạo Quang năm thứ 10 (1830). Trung điện có bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). Trong tủ kính lớn ở chính điện là tượng Bát Tiên và tướng lĩnh của D'Ariès vào năm 1860 cấm các binh sĩ Phú Lang Sa và Y Pha Nho phá phách. 2 bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, dành rước Bà vào ngày vía Bà với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân, rước theo cùng với kiệu Bà.
Ngoài ra, chùa còn khoảng 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối và 41 tranh nổi... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Giá trị
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác: đó không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người Quảng Đông.
Sự tích Bà Thiên Hậu, qua người kể đôi khi có ít nhiều dị biệt nhưng chủ yếu vẫn là đề cao một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, đức hạnh, dám xả thân vì mọi người... Sự đề cao này nhằm mục đích giáo dục.
Mặt khác trên bước đường nguy nan, nhiều sóng gió khi sang vùng đất mới để mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua được mọi trở ngại và được an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với sự phù trợ của Bà, Chùa Bà Thiên Hậu có vị trí quan trọng đối với người Hoa và cả người Việt.
Chùa Bà được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 7 tháng 1 năm 1993.
Thông tin thêm
Các cơ sở hoạt động từ thiện xã hội của Hội quán Tuệ Thành là Trường THCS Mạch Kiếm Hùng và bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Chùa cũng là nơi dung chứa ông Mạch Kiếm Hùng, một chiến sĩ cách mạng.
Bên cạnh Hội quán Tuệ Thành, ở Thành phố Hồ Chí Minh có ít nhất 6 nơi khác cũng thờ bà Thiên Hậu: Miếu Thiên Hậu Thánh mẫu (284 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3), Quảng Triệu hội quán (156 Võ Văn Kiệt, quận 1), Quỳnh Phủ hội quán (276 Trần Hưng Đạo, quận 5), Tam Sơn hội quán (116 Triệu Quang Phục, quận 5), Hà Chương hội quán (802 Nguyễn Trãi, quận 5), Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, quận Gò Vấp).
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (Giáo trình Trường Đào tạo nghiệp vụ du lịch Sài Gòn), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Nhiều tác giả, Hỏi đáp về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (tập 6), Nhà xuất bản trẻ, 2006.
Lê Quang Ninh, Stéphane Dovert, Sài Gòn – Ba thế kỷ phát triển và xây dựng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
Miếu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Di tích tại Thành phố Hồ Chí Minh
Di tích quốc gia Việt Nam
Quận 5
Công trình tôn giáo do người Hoa xây dựng tại Sài Gòn
|
25260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20Sumatra
|
Tê giác Sumatra
|
Tê giác Sumatra hay còn gọi là tê giác hai sừng (danh pháp hai phần: Dicerorhinus sumatrensis) là loài tê giác hiện còn tồn tại có kích thước nhỏ nhất, cũng như là một trong số các loài có nhiều lông nhất. Giống như các loài châu Phi, chúng có hai sừng. Đã từng có thời chúng phổ biến rộng rãi ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 80 cá thể. Chúng là loài đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp do săn bắn trộm, và các cố gắng nhằm phục hồi số lượng của chúng bằng cách nhân giống trong tình trạng bị giam cầm đã gặp rất nhiều khó khăn. Tê giác Sumatra là loài sống sót cuối cùng trong cùng một nhóm với loài tê giác lông mịn đã tuyệt chủng.
Phân loài và đặt tên
Con tê giác Sumatra được ghi nhận đầu tiên bị bắn bên ngoài Fort Marlborough, gần bờ tây của Sumatra vào năm 1793. Bức vẽ con vật và một đoạn văn mô tả nó được gửi tới nhà tự nhiên học Joseph Banks, vào lúc đó là Chủ tịch của Hội Hoàng gia Luân Đôn, người đã cho xuất bản một bài viết về mẫu vật trên vào năm đó. Vào năm 1814, loài này được Johann Fischer von Waldheim đặt tên khoa học.
Tính ngữ xác định loài sumatrensis có nghĩa là "của Sumatra", hòn đảo Indonesia nơi loài tê giác lần đầu được tìm thấy. Carl Linnaeus ban đầu phân loại tất cả tê giác vào một chi Rhinoceros; do đó loài này ban đầu được phân loại là Rhinoceros sumatrensis hoặc sumatranus. Joshua Brookes cho rằng tê giác Sumatra có hai sừng nên là một chi riêng biệt so với chi Rhinoceros có một sừng, và cho nó cái tên Didermocerus vào năm 1828. Constantin Wilhelm Lambert Gloger đã đề xuất cái tên Dicerorhinus vào năm 1841. Vào năm 1868, John Edward Gray đề xuất cái tên Ceratorhinus. Thường thì cái tên lâu đời nhất sẽ được sử dụng, nhưng vào năm 1977 Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học đã quyết định đặt tên chi chính thức là Dicerorhinus. Dicerorhinus bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp, trong đó (, nghĩa là "hai"), (, nghĩa là "sừng"), và (, nghĩa là "mũi").
Có ba phân loài là:
Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis, được gọi là Tê giác Sumatra miền tây, chỉ còn khoảng 75-85 con vào năm 2008 và không thể xác định vào năm 2020, hầu hết trong các Vườn quốc gia Bukit Barisan Selatan, Kerinci Seblat và Gunung Leuser tại Sumatra, nhưng cũng có một số lượng nhỏ ở Vườn quốc gia Way Kambas. Gần đây chúng đã tuyệt chủng tại Malaysia bán đảo. Mối đe dọa chính với phân loài này là mất môi trường sống và nạn săn bắt trộm. Một sự khác biệt nhỏ về mặt di truyền đã được ghi nhận giữa tê giác Sumatra miền tây và tê giác Borneo. Tê giác trên Malaysia bán đảo từng được gọi là D. s. niger, nhưng sau đó được công nhận là một danh pháp đồng nghĩa với D. s. sumatrensis. Ba con đực và bốn con cái hiện đang sống trong tình trạng nuôi nhốt tại Khu bảo tồn Tê giác Sumatra tại Way Kambas, con đực nhỏ tuổi nhất đã được sinh ra tại đó vào năm 2012. Một con non khác, một con cái, đã được sinh ra tại khu bảo tồn vào tháng 5 năm 2016. Hai con đực của khu bảo tồn được sinh ra tại Vườn thú và bách thảo Cincinnati.
Dicerorhinus sumatrensis harrissoni, được gọi là Tê giác Borneo hay Tê giác Sumatra miền đông. Phân loài tê giác này từng phổ biến khắp Borneo; ước chừng hiện tại chỉ còn khoảng 15 cá thể tồn tại. Quần thể đã biết này sống ở East Kalimantan, gần đây chúng đã tuyệt chủng tại Sabah. Các báo cáo về việc có Tê giác Borneo sinh sống ở Sarawak thì vẫn chưa được xác nhận. Phân loại này được đặt tên theo Tom Harrisson, người đã cống hiến nhiều cho lĩnh vực động vật học và nhân loại học Borneo vào thập niên 1960. Phân loài Borneo có đặc trưng là có kích cỡ cơ thể nhỏ hơn so với hai phân loài còn lại. Quần thể đang trong tình trạng nuôi nhốt chỉ bao gồm một con đực và hai con cái tại Khu bảo tồn Tê giác Borneo ở Sabah; con đực chết vào năm 2019 và các con cái chết lần lượt vào năm 2017 và 2019.
Dicerorhinus sumatrensis lasiotis, được gọi là Tê giác Sumatra phương bắc hay Tê giác Chittagong hay tê giác lông dày phương Bắc. Phân loài này từng lang thang khắp Ấn Độ và Bangladesh nhưng hiện tại đã được tuyên bố tuyệt chủng tại các quốc gia này. Các báo cáo chưa xác nhận cho rằng có một quần thể nhỏ có thể vẫn đang sống tại Myanmar, nhưng tình hình chính trị tại quốc gia này đã ngăn cản việc xác nhận tình trạng của phân loài. Cái tên lasiotis bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp có nghĩa "tai lông lá". Các nghiên cứu sau này cho thấy rằng lông tai của chúng thì không dài hơn so với các phân loài Tê giác Sumatra khác, nhưng D. s. lasiotis vẫn được coi là một phân loài bởi vì nó lớn hơn một cách đáng kể so với các phân loài khác. Loài này có thể đã tuyệt chủng.
Phân bố và môi trường sống
Tê giác Sumatra sống ở cả rừng mưa thứ sinh cao nguyên hay đất thấp, đầm lầy và rừng sương mù. Nó sống ở các vùng đồi núi gần với nguồn nước, đặc biệt là các thung lũng dốc với nguồn cây bụi dồi dào. Tê giác Sumatra đã từng sống trong phạm vi liên tục xa lên phía bắc tận Burma, đông Ấn Độ, và Bangladesh. Các báo cáo chưa xác nhận cũng cho rằng nó sống ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Tất cả loài biết được đều phát sinh từ đảo Sumatra. Một số nhà bảo tồn hy vọng tê giác Sumatra có thể vẫn còn ở Burma, mặc dù điều này có khả năng không lớn. Các biến động về chính trị ở Burma đã ngăn chặn việc đánh giá hoặc nghiên cứu về khả năng sinh tồn của loài tại đây. Báo cáo cuối cùng về việc nhìn thấy loài tê giác này trong phạm vi Ấn Độ là vào thập niên 1990.
Tê giác Sumatra phân bố rải rác và rộng rãi trong khoảng phân bố của chúng, rộng hơn nhiều so với các loài tê giác châu Á khác, điều này đã gây khó khăn cho các nhà bảo tồn trong việc bảo vệ các cá thể của loài một cách hiệu quả. Chỉ có bốn khu vực được biết là có tê giác Sumatra: Vườn quốc gia Bukit Barisan Selatan, Vườn quốc gia Gunung Leuser, và Vườn quốc gia Way Kambas tại Sumatra; và tại phía tây Borneo Indonesia của Samarindah.
Vườn quốc gia Kerinci Seblat, vườn quốc gia lớn nhất Sumatra, ước tính có số lượng tê giác khoảng 500 cá thể vào những năm 1980, nhưng do bị săn trộm nên quần thể này hiện bị coi là tuyệt chủng. Vô cùng khó xảy ra việc vẫn còn bất kỳ cá thể nào sống sót ở Bán đảo Malaysia.
Phân tích di truyền của quần thể tê giác Sumatra đã xác định được ba dòng di truyền riêng biệt. Eo biển giữa Sumatra và Malaysia không phải là rào cản đáng kể đối với tê giác như dãy núi Barisan dọc theo chiều dài Sumatra, vì tê giác ở phía đông Sumatra và Bán đảo Malaysia có mối liên hệ chặt chẽ hơn so với tê giác ở phía bên kia dãy núi ở phía tây Sumatra. Trên thực tế, tê giác Sumatra phía đông và tê giác Malaysia cho thấy ít phương sai di truyền đến nỗi hai quần thể này dường như đã không hề tách rời nhau trong thời kỳ Pleistocene, khi mực nước biển thấp hơn nhiều và Sumatra là một phần của lục địa. Tuy nhiên, cả hai quần thể Sumatra và Malaysia đều đủ gần về mặt di truyền đến nỗi việc lai giống sẽ không có vấn đề gì. Mặt khác, tê giác Borneo lại khác biệt đủ để các nhà di truyền học bảo tồn khuyên không nên lai chéo dòng này với các quần thể khác. Các nhà di truyền học bảo tồn gần đây đã bắt đầu nghiên cứu tính đa dạng của nhóm gen trong các quần thể này bằng cách xác định các locus vi vệ tinh. Kết quả thử nghiệm ban đầu cho thấy mức độ biến đổi trong quần thể tê giác Sumatra tương đương với những cá thể trong quần thể tê giác châu Phi ít nguy cấp hơn, nhưng sự đa dạng di truyền của tê giác Sumatra là một lĩnh vực còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Mặc dù tê giác đã bị tuyệt chủng ở Kalimantan kể từ những năm 1990 nhưng vào tháng 3 năm 2013, Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) đã thông báo rằng nhóm nghiên cứu khi theo dõi hoạt động của đười ươi ở West Kutai Regency, Đông Kalimantan đã phát hiện thấy một số dấu vết chân tê giác tươi, hố bùn, dấu vết của những cây tê giác cọ xát, dấu vết của sừng tê giác trên các bức tường của hố bùn và những vết cắn của tê giác trên cành cây nhỏ. Nhóm nghiên cứu cũng xác định rằng tê giác đã ăn hơn 30 loài thực vật. Vào ngày 2 tháng 10 năm 2013, Quỹ Động vật hoang dã Thế giới đã phát hành hình ảnh video được thực hiện với bẫy camera cho thấy tê giác Sumatra ở Kutai Barat, Kalimantan. Các chuyên gia cho rằng các video cho thấy hai cá thể khác nhau, nhưng không chắc chắn lắm. Bộ trưởng Lâm nghiệp Indonesia Zulkifli Hasan gọi bằng chứng video này là "rất quan trọng" và đề cập đến "mục tiêu tăng trưởng số lượng tê giác của Indonesia là ba phần trăm mỗi năm". Vào ngày 22 tháng 3 năm 2016, WWF đã thông báo rằng đã tìm thấy một con tê giác Sumatra còn sống ở Kalimantan; đó là lần tiếp xúc đầu tiên trong hơn 40 năm. Con tê giác cái này đã được chuyển đến một khu bảo tồn gần đó.
Bảo tồn
Tê giác Sumatra từng có số lượng nhiều tại khắp Đông Nam Á. Giờ ước tính có ít hơn 100 cá thể còn sót lại. Loài này được phân loại là cực kỳ nguy cấp (chủ yếu là do săn bắt trái phép) trong khi đó cuộc khảo sát gần đây nhất vào năm 2008 ước tính có khoảng 250 cá thể còn sống. Từ đầu thập niên 1990, việc sụt giảm số lượng cá thể được ước tính là hơn 50% mỗi thập kỷ, các quần thể rải rác giờ đây đối mặt với nguy cơ suy giảm do giao phối cận huyết. Hầu hết các môi trường sống còn lại là các vùng núi gần như không thể tiếp cận được tại Indonesia.
Bộ Môi trường Indonesia bắt đầu chính thức đếm số lượng tê giác Sumatra vào tháng 2 năm 2019. Việc theo dõi và kiểm đếm dự kiến sẽ hoàn thành trong ba năm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về tê giác Sumatra từ Quỹ tê giác quốc tế
Xem hình ảnh về con tê giác Sumatra non theo webcam từ vườn thú Cincinnati
Tê giác hai sừng trên SVRVN
Sumatran Rhino Info & Sumatran Rhino Pictures on the Rhino Resource Center
Sumatran Rhino at Arkive.
Rhino and Forest Fund
Borneo Rhino Alliance
distribution map 2017
Map by The National Geographic, 2018
Sách đỏ Việt Nam
S
Hóa thạch sống
Loài EDGE
Động vật có vú Ấn Độ
Động vật có vú Indonesia
Động vật có vú Malaysia
Động vật được mô tả năm 1814
Động vật Sumatra
Động vật có vú Borneo
Động vật có vú Đông Nam Á
|
25264
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20l%C3%B4ng%20m%C6%B0%E1%BB%A3t
|
Tê giác lông mượt
|
Tê giác lông mượt (Coelodonta antiquitatis) là một loài tê giác đã tuyệt chủng phổ biến ở khắp Châu Âu và Bắc Á trong kỷ nguyên Pleistocen và tồn tại cho đến cuối thời kỳ băng hà cuối cùng. Tê giác lông cừu là một thành viên của megafauna Pleistocen. Tê giác lông mượt được bao phủ bởi lớp lông dày và dài mà cho phép nó tồn tại ở thảo nguyên voi ma mút cực kỳ lạnh giá. Nó cũng có một cái bướu lớn vươn ra khỏi vai. Nó ăn chủ yếu trên cây thân thảo mọc ở thảo nguyên. Xác ướp được bảo quản trong lớp băng vĩnh cửu và nhiều bộ xương của tê giác lông mượt đã được tìm thấy. Hình ảnh của tê giác lông mượt được tìm thấy trong các bức tranh hang động ở châu Âu và châu Á.
Phân loại
Dấu tích của tê giác lông mượt đã được biết đến từ rất lâu trước khi loài này được mô tả, và là cơ sở cho một số sinh vật thần thoại. Các dân tộc bản địa ở Siberia tin rằng sừng của chúng là móng vuốt của những con chim khổng lồ. Một hộp sọ tê giác được tìm thấy ở Klagenfurt, Áo, vào năm 1335, và được cho là của một con rồng. Vào năm 1590, nó được sử dụng làm cơ sở cho phần đầu trên bức tượng của một con sâu bướm. Gotthilf Heinrich von Schubert vẫn tin rằng những chiếc sừng là móng vuốt của những con chim khổng lồ, và phân loại loài vật này dưới cái tên Gryphus antiquitatis, có nghĩa là "chim nướng cổ đại".
Một trong những mô tả khoa học sớm nhất về loài tê giác cổ đại được đưa ra vào năm 1769, khi nhà tự nhiên học Peter Simon Pallas viết báo cáo về chuyến thám hiểm của mình tới Siberia, nơi ông tìm thấy một hộp sọ và hai chiếc sừng trong lớp băng vĩnh cửu. Năm 1772, Pallas mua lại đầu và hai chân của một con tê giác từ người dân địa phương ở Irkutsk, và đặt tên cho loài này là Rhinoceros lenenesis (theo tên sông Lena). Năm 1799, Johann Friedrich Blumenbach nghiên cứu xương tê giác từ bộ sưu tập của Đại học Göttingen, và đề xuất tên khoa học là Rhinoceros antiquitatis. Nhà địa chất học Heinrich Georg Bronn đã chuyển loài này đến Coelodonta vào năm 1831 vì sự khác biệt về hình thành răng của chúng với các thành viên của chi Rhinoceros. Tên này xuất phát từ tiếng Hy Lạp κοιλία (koilía, "sâu răng") và ὀδούς (odoús "răng"), từ chỗ lõm trong cấu trúc răng hàm của tê giác, tạo ra tên khoa học Coelodonta antiquitatis, "răng rỗng cổ ".
Sự phát triển
Tê giác lông mượt là loài có nguồn gốc nhiều nhất trong chi Coelodonta. Họ hàng gần nhất tuyệt chủng với tê giác lông cừu là chi thú xương mỏng. Hai đường này bị chia cắt trong nửa đầu của Miocen. Xác ướp tê giác Stephanorhinus 1,77 triệu năm tuổi cũng có thể đại diện cho một nhóm chị em với Coelodonta. Tê giác lông mượt có thể là hậu duệ của loài C. tologoijensis Á-Âu hoặc C. thibetana của Tây Tạng. Vào năm 2011, một hóa thạch tê giác lông cừu 3,6 triệu năm tuổi, cổ nhất được biết đến, được phát hiện trên Cao nguyên lạnh giá Thanh Tạng. Một nghiên cứu trên các mẫu DNA từ 40.000 đến 70.000 năm tuổi cho thấy họ hàng gần nhất còn sống của nó là tê giác Sumatra.
Miêu tả
Cấu trúc và hình thức
Một con tê giác lông mượt trưởng thành thường dài từ đầu đến đuôi 3,8 mét (9,8 đến 12,5 ft), với trọng lượng ước tính khoảng 1.800–2.700 kg (4.000–6.000 lb) [18] hoặc 2.000 kg (4.400 lb). Nó cao tới 2 m (6,6 ft) ở vai, có kích thước tương đương với tê giác trắng. Một con bê một tháng tuổi có chiều dài khoảng 120 cm (3,9 ft) và cao tới vai 72 cm (2,36 ft). Hai chiếc sừng được làm bằng keratin, với một chiếc sừng dài vươn về phía trước và một chiếc sừng nhỏ hơn giữa hai mắt. So với các loài tê giác khác, tê giác lông mượt có đầu và thân dài hơn, chân ngắn hơn. Vai của nó nhô lên với một cái bướu mạnh mẽ, dùng để hỗ trợ chiếc sừng trước khổng lồ của con vật. Chiếc bướu cũng chứa một lượng chất béo dự trữ để hỗ trợ sự sống sót qua những mùa đông hoang vắng của thảo nguyên voi ma mút.
Các mẫu vật đông lạnh cho thấy bộ lông dài của tê giác có màu nâu đỏ, với lớp lông tơ dày phủ bên dưới một lớp lông bảo vệ dài và thô dày nhất ở vai và cổ. Lông ngắn hơn bao phủ tứ chi, giúp tuyết không bám vào. Chiều dài của cơ thể kết thúc với một cái đuôi 45 đến 50 cm (1,48 đến 1,64 ft) với một lớp lông thô ở cuối. Con cái có hai núm vú trên bầu vú.
Tê giác lông mượt có một số tính năng làm giảm diện tích bề mặt của cơ thể và giảm thiểu sự mất nhiệt. Tai của nó không dài hơn 24 cm (9,4 in), trong khi tai của tê giác ở vùng khí hậu nóng là khoảng 30 cm (12 in). Đuôi của chúng cũng ngắn hơn. Nó cũng có lớp da dày, từ 5 đến 15 mm (0,20 đến 0,59 in), nặng nhất ở ngực và vai.
Hộp sọ và răng
Hộp sọ có chiều dài từ 70 đến 90 cm (28 đến 35 in). Nó dài hơn so với các loài tê giác khác, tạo cho đầu một tư thế nghiêng sâu, hướng xuống dưới, tương tự như các họ hàng hóa thạch của nó là Stephanorhinus hemiotoechus và Elasmotherium cũng như tê giác trắng. Cơ bắp khỏe mạnh trên xương chẩm dài của nó tạo thành vòng cổ và giữ hộp sọ khổng lồ. Hàm dưới khổng lồ của nó dài tới 60 cm (24 in) và cao 10 cm (3,9 in).
Vách ngăn mũi của tê giác lông mượt đã bị nứt ra, không giống như tê giác hiện đại. Điều này phổ biến nhất ở nam giới trưởng thành. Sự thích nghi này có lẽ đã phát triển do áp lực nặng nề lên sừng và mặt khi tê giác gặm cỏ dưới lớp tuyết dày. Điểm độc nhất của loài tê giác này, xương mũi được hợp nhất với lớp sừng trước, điều này không xảy ra ở các loại Coelodonta cổ hơn hoặc tê giác ngày nay.
Răng của tê giác lông mượt có lớp men dày và một khoang bên trong mở. Giống như những con tê giác khác, con trưởng thành không có răng cửa. Nó có 3 răng tiền hàm và 3 răng hàm ở cả hai hàm. Các răng hàm cao và có một lớp xi măng dày.
Sừng
Cả hai giới đều có hai sừng. Sừng trước dài ít nhất một mét (3,3 ft), lên đến 1,4 mét (4,6 ft) và trọng lượng của nó đạt 15 kilôgam (33 lb). Nó hướng về phía trước, nhiều hơn so với những con tê giác hiện đại. Sừng sau ngắn hơn.
Cổ sinh vật học
Tê giác lông mượt có lịch sử sống tương tự như tê giác hiện đại. Các nghiên cứu về răng sữa cho thấy các cá thể phát triển tương tự như cả tê giác trắng và đen. Hai núm vú ở con cái gợi ý rằng nó nên nuôi một con bê, hoặc hiếm hơn là hai con, cứ sau hai đến ba năm. Nếu tương tự như tê giác hiện đại, con non sống với mẹ trong khoảng 3 năm trước khi tìm kiếm lãnh thổ cá thể của riêng mình, đạt đến độ trưởng thành giới tính trong vòng 5 năm. Tê giác lông cừu có thể đạt khoảng 40 tuổi, giống như họ hàng hiện đại của chúng.
Với cặp sừng và kích thước khổng lồ, con trưởng thành có ít kẻ săn mồi, nhưng những con non có thể bị tấn công bởi các loài động vật như linh cẩu và sư tử hang động. Một hộp sọ được tìm thấy với vết thương cho thấy một cuộc tấn công từ một con mèo, nhưng con vật đã sống sót đến tuổi trưởng thành.
Tê giác lông cừu có thể đã sử dụng sừng của chúng để chiến đấu, có thể bao gồm cả chiến đấu cạnh tranh chủng loài cụ thể như được ghi lại trong các bức tranh hang động, cũng như để di chuyển tuyết để phát hiện thảm thực vật trong mùa đông. Chúng cũng có thể được sử dụng để thu hút bạn tình. Tê giác lông cừu có lẽ có tính lãnh thổ giống như các đồng loại hiện đại của chúng, tự vệ khỏi các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là trong mùa hằn lún. Hộp sọ hóa thạch cho thấy tổn thương từ sừng trước của những con tê giác khác, và hàm dưới và xương sườn sau có dấu hiệu bị vỡ và tái hình thành, cũng có thể là do đánh nhau. Tần suất chiến đấu nội đặc hiệu rõ ràng, so với những con tê giác gần đây, có thể là kết quả của sự thay đổi khí hậu nhanh chóng trong thời kỳ băng hà cuối cùng, khi con vật đối mặt với căng thẳng gia tăng do cạnh tranh với các động vật ăn cỏ lớn khác.
Chế độ ăn
Tê giác lông mượt chủ yếu ăn cỏ và cói mọc ở thảo nguyên voi ma mút. Đầu dài, nghiêng với tư thế hướng xuống và cấu trúc răng đều giúp nó gặm cỏ. Nó có môi trên rộng giống như môi của loài tê giác trắng, cho phép nó dễ dàng nhổ cỏ trực tiếp từ mặt đất. Phân tích phấn hoa cho thấy nó cũng ăn các cây thân gỗ (bao gồm cây lá kim, cây liễu và cây mã đề), dọc theo hoa, forbs và rêu. Nghiên cứu đồng vị trên sừng cho thấy tê giác lông cừu có chế độ ăn theo mùa; các khu vực mọc sừng khác nhau cho thấy rằng nó chủ yếu chăn thả vào mùa hè, trong khi nó tìm kiếm cây bụi và cành vào mùa đông.
Một cuộc điều tra cơ sinh học vectơ chủng đối với hộp sọ, xương hàm và răng của một cá thể được bảo quản tốt trong giai đoạn lạnh giá cuối cùng được phục hồi từ Whitemoor Haye, Staffordshire, cho thấy các đặc điểm cơ và răng hỗ trợ sở thích ăn cỏ. Đặc biệt, sự mở rộng của cơ thái dương và cơ cổ phù hợp với yêu cầu đó để chống lại các lực kéo lớn tạo ra khi lấy một lượng lớn thức ăn gia súc từ mặt đất. Sự hiện diện của một nha khoa lớn hỗ trợ lý thuyết này.
Các so sánh với các loài Bộ Guốc lẻ còn sống xác nhận rằng tê giác lông cừu là loài lên men chân sau với một dạ dày duy nhất, tiêu thụ thức ăn gia súc giàu cellulose, nghèo protein. Nó đã phải tiêu thụ một lượng lớn thức ăn để tạo ra hàm lượng dinh dưỡng thấp trong khẩu phần ăn của nó. Những con tê giác lông cừu sống ở Bắc Cực trong thời kỳ Cực đại băng hà cuối cùng đã tiêu thụ khối lượng tương đương các loại pháo, chẳng hạn như chi Ngải và graminoit.
Nơi sống và phân bố
Tê giác lông cừu chủ yếu sống ở các vùng đất thấp, cao nguyên và thung lũng sông, với khí hậu khô hạn đến khô hạn, và di cư lên các độ cao cao hơn trong các pha khí hậu thuận lợi. Nó tránh các dãy núi, do tuyết dày và địa hình dốc khiến con vật không thể vượt qua dễ dàng. Môi trường sống chính của tê giác là thảo nguyên voi ma mút, một cảnh quan rộng lớn, thoáng đãng được bao phủ bởi những dãy cỏ và bụi rậm. Tê giác lông mượt sống cùng với các loài động vật ăn cỏ lớn khác, chẳng hạn như voi ma mút lông, hươu khổng lồ, tuần lộc, linh dương saiga và bò rừng - một loại động vật được gọi là Tổ hợp động vật Mammuthus-Coelodonta. Với sự phân bố rộng rãi, tê giác lông cừu sống ở một số khu vực cùng với các loài tê giác khác là Stephanorhinus và Elasmotherium.
Vào cuối thời kỳ băng hà Riss khoảng 130 nghìn năm trước, tê giác lông cừu đã sống trên khắp miền bắc Á-Âu, trải dài hầu hết châu Âu, Đồng bằng Nga, Siberia và Cao nguyên Mông Cổ, với nhiệt độ từ 72 ° đến 33 ° N. Các hóa thạch đã được tìm thấy xa về phía bắc đến tận Quần đảo Tân Siberi. Nó có phạm vi rộng nhất trong số các loài tê giác.
Nó dường như đã không vượt qua cây cầu đất Bering trong thời kỳ băng hà cuối cùng (kết nối châu Á với Bắc Mỹ), với sự xuất hiện nhiều nhất ở bán đảo Chukotka, có thể do mật độ cỏ thấp và môi trường sống thích hợp trong Yukon, sự cạnh tranh với các động vật ăn cỏ lớn khác trên cây cầu đất lạnh giá, và các sông băng rộng lớn tạo ra các rào cản vật lý. Ngay cả khi một số đến Bắc Mỹ, điều này có lẽ không phổ biến.
Mối quan hệ với con người
Việc săn bắn
Tê giác lông cừu đã chia sẻ môi trường sống của chúng với con người, nhưng bằng chứng trực tiếp cho thấy chúng tương tác với nhau là tương đối hiếm. Chỉ 11% các địa điểm được biết đến của các bộ lạc Siberia thời tiền sử có di tích hoặc hình ảnh của loài vật này. Nhiều hài cốt của tê giác được tìm thấy trong các hang động (chẳng hạn như hang Kůlna ở Trung Âu), vốn không phải là môi trường sống tự nhiên của tê giác hay con người, và những kẻ săn mồi lớn như linh cẩu có thể đã mang các bộ phận của tê giác ở đó. Đôi khi, chỉ có răng hoặc mảnh xương riêng lẻ được phát hiện, thường chỉ đến từ một loài động vật. Hầu hết các hài cốt của Tê giác ở Tây Âu đều được tìm thấy ở cùng những nơi tìm thấy hài cốt hoặc hiện vật của con người, nhưng điều này có thể xảy ra một cách tự nhiên.
Các dấu hiệu cho thấy con người ban đầu đã săn bắt hoặc lùng sục tê giác đến từ các dấu hiệu trên xương của con vật. Một mẫu vật có vết thương do vũ khí của con người gây ra, với dấu vết của vết thương do vật sắc nhọn đánh dấu ở vai và đùi, và một ngọn giáo được bảo quản được tìm thấy gần xác chết. Một số địa điểm từ giai đoạn đầu của Thời kỳ băng hà cuối cùng vào cuối thời kỳ đồ đá cũ giữa, chẳng hạn như Hang động Gudenus (Áo) và địa điểm ngoài trời Königsaue (Sachsen-Anhalt, Đức), đã bị phá hủy nặng nề xương tê giác lót bằng dấu gạch chéo. Hành động này được thực hiện một phần để chiết xuất phần tủy xương bổ dưỡng.
Cả xương và xương của tê giác đều được sử dụng làm nguyên liệu cho các công cụ và vũ khí, cũng như di vật của nhiều loài động vật khác nhau. Tại khu vực ngày nay là Zwoleń, Ba Lan, thiết bị này được làm từ xương đập của người bại liệt. Những chiếc ném dài nửa mét, được làm từ lông tê giác khoảng 27 nghìn năm trước, đến từ bờ sông Yana. Một ngọn giáo 13.300 năm được tìm thấy trên đảo Bolshoy Lyakhovsky với đầu giác quan, xa nhất về phía bắc mà con người từng được tìm thấy
Người đàn ông trong hang Pinhole là một hình tượng người đàn ông thuộc thời kỳ đồ đá cũ muộn được khắc trên xương sườn của một con tê giác lông cừu, được tìm thấy tại Creswell Crags ở Anh.
Nghệ thuật cổ đại
Nhiều bức tranh hang động từ thời đồ đá cũ trên mô tả những con tê giác bằng lông cừu. Các đặc điểm nhận dạng của con vật được vẽ nổi bật, hoàn chỉnh với phần lưng và bướu nhô cao, tương phản với phần đầu nằm thấp của nó. Hai đường cong tượng trưng cho tai. Sừng của con vật được vẽ với độ cong dài của chúng, và trong một số trường hợp, lớp lông cũng được chỉ ra. Nhiều bức tranh cho thấy một dải đen chia cắt cơ thể.
Khoảng 20 hình vẽ thời kỳ đồ đá cũ về tê giác lông mượt đã được biết đến trước khi phát hiện ra Hang Chauvet ở Pháp. Chúng có niên đại hơn 31.000 năm tuổi, có thể là từ thời Aurignacian, được khắc trên tường hang động hoặc được vẽ bằng màu đỏ hoặc đen. Một cảnh mô tả hai con tê giác chiến đấu với nhau bằng sừng của chúng. Các hình minh họa khác được tìm thấy trong các hang động Rouffignac và Lascaux. Một bức vẽ từ Font-de-Gaume cho thấy tư thế đầu cao hơn đáng kể, và những bức khác được vẽ bằng sắc tố đỏ trong Hang động Kapova ở dãy núi Ural. Một số hình ảnh cho thấy tê giác bị tấn công bằng giáo hoặc mũi tên, biểu thị sự săn bắn của con người.
Địa điểm Dolní Věstonice ở Moravia, Cộng hòa Séc, được tìm thấy với hơn bảy trăm tượng động vật, nhiều tê giác lông mượt.
Sự tuyệt chủng
Nhiều loài động vật lớn thuộc thế kỷ Pleistocen, như tê giác lông mượt, đã tuyệt chủng trong cùng một khoảng thời gian. Việc săn bắn của con người thường được coi là một nguyên nhân. Các giả thuyết khác về nguyên nhân của các vụ tuyệt chủng là sự thay đổi khí hậu liên quan đến Kỷ băng hà đang rút đi và giả thuyết về hyperdisease (q.v. sự kiện tuyệt chủng Đệ tứ). Một trong những giả thuyết được chấp nhận rộng rãi hơn nói rằng, mặc dù tê giác lông cừu chuyên dùng cho thời tiết lạnh giá, nhưng nó có khả năng sống sót ở những vùng khí hậu ấm hơn. Điều này cho thấy rằng biến đổi khí hậu không phải là yếu tố duy nhất góp phần vào sự tuyệt chủng của Tê giác. Các loài thích nghi với lạnh khác, chẳng hạn như tuần lộc, bò xạ hương và Bò bison châu Âu, sống sót sau thời kỳ thay đổi khí hậu này và nhiều loài khác thích nó, ủng hộ giả thuyết 'quá mức cần thiết' đối với tê giác lông mượt.
Xác định niên đại bằng carbon phóng xạ chỉ ra rằng các quần thể sống sót gần đây là 8.000 năm trước Công nguyên ở phía tây Siberia. Tuy nhiên, độ chính xác của niên đại này là không chắc chắn, vì một số cao nguyên cacbon phóng xạ tồn tại vào khoảng thời gian này. Sự tuyệt chủng không trùng với sự kết thúc của kỷ băng hà cuối cùng, mà trùng với một sự đảo ngược khí hậu nhỏ nhưng nghiêm trọng kéo dài trong khoảng 1.000–1.250 năm, Younger Dryas (GS1 — Greenland Stadial 1), được đặc trưng bởi sự băng giá và khắc nghiệt nguội lạnh trên toàn cầu, một đoạn ngắn trong quá trình ấm lên tiếp tục sau khi kết thúc kỷ băng hà lớn cuối cùng (GS2), được cho là do sự ngừng hoạt động của tuần hoàn nhiệt trong đại dương do dòng nước ngọt lạnh từ trước đó băng tan liên tục trong thời gian ấm hơn giữa các tiểu bang (GI1 — Greenland Interstadial 1: khoảng 16.000–11.450 14C năm BP).
Mẫu hoa thạch
Nhiều hài cốt tê giác đã được tìm thấy được bảo quản trong vùng băng vĩnh cửu. Năm 1771, một đầu, hai chân và da sống được tìm thấy ở sông Vilyuy ở phía đông Siberia và được gửi đến Kunstkamera ở Saint Petersburg. Sau đó vào năm 1877, một thương nhân người Siberia đã tìm thấy một đầu và một chân từ một nhánh sông Yana.
Vào tháng 10 năm 1907, những người thợ mỏ ở Starunia, Ukraine, tìm thấy một xác voi ma mút được chôn trong một cái hố bằng ozokerite. Một tháng sau, một con tê giác được tìm thấy bên dưới 5 mét (16 ft). Cả hai đều được gửi đến Bảo tàng Dzieduszycki, nơi mô tả chi tiết được xuất bản trong chuyên khảo của bảo tàng. Các bức ảnh đã được xuất bản trên các tạp chí cổ sinh vật học và sách giáo khoa, và những bức tranh hiện đại đầu tiên về loài này dựa trên mẫu vật được gắn. [68] Con tê giác hiện được đặt trong Bảo tàng Quốc gia Lviv cùng với voi ma mút. Sau đó, vào năm 1929, Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Ba Lan đã cử một đoàn thám hiểm đến Starunia, tìm thấy xác ướp của ba con tê giác. Một mẫu vật, chỉ thiếu sừng và lông, đã được đưa đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Thủy cung ở Kraków. Một khuôn bằng thạch cao đã được thực hiện ngay sau đó, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London.
Các mảnh sọ và xương sườn của một con tê giác được tìm thấy vào năm 1972 ở Churapcha, giữa sông Lena và sông Amga. Một bộ xương nguyên vẹn được tìm thấy ngay sau đó, với da, lông và dạ dày được bảo quản. Năm 1976, các học sinh trong một chuyến đi thăm lớp học đã tìm thấy một bộ xương tê giác 20.000 năm tuổi ở tả ngạn sông Aldan, phát hiện ra một hộp sọ có cả sừng, xương sống, xương sườn và xương chi.
Năm 2007, một phần xác tê giác được tìm thấy ở vùng hạ lưu Kolyma. Vị trí hướng lên của nó cho thấy có lẽ con vật đã rơi xuống bùn và chìm. Năm sau vào năm 2008, một bộ xương gần như hoàn chỉnh đến từ sông Chukochya. Cùng năm đó, người dân địa phương gần Amga đã phát hiện ra xác tê giác được ướp xác, và trong hai năm tiếp theo, người ta đã khai quật được xương chậu, đốt sống đuôi và xương sườn cùng với chi trước và chi sau với các ngón chân còn nguyên vẹn.
Vào tháng 9 năm 2014, một xác ướp tê giác con được hai thợ săn Alexander "Sasha" Banderov và Simeon Ivanov, phát hiện tại một nhánh của sông Semyulyakh ở quận Abyysky ở Yakutia, Nga. Đầu và sừng, lông và các mô mềm của nó đã được phục hồi. Một số bộ phận đã được rã đông và ăn vì chúng không bị lớp băng vĩnh cửu bao phủ. Cơ thể được giao cho Học viện Khoa học Yakutia, nơi nó được đặt tên là "Sasha" theo tên một trong những người phát hiện ra nó. Phân tích nha khoa cho thấy rằng con bê khoảng bảy tháng tuổi vào thời điểm nó chết. Với sự bảo quản nguyên vẹn của nó, các nhà khoa học đã tiến hành phân tích DNA.
Vào tháng 8 năm 2020, một con tê giác được tìm thấy, sau khi được tiết lộ bởi lớp băng vĩnh cửu tan chảy, gần với địa điểm phát hiện năm 2014. Con tê giác khoảng từ ba đến bốn tuổi và nó cho rằng nguyên nhân cái chết là do chết đuối. Nó là một trong những động vật được bảo tồn tốt nhất được phục hồi từ khu vực, hầu hết các cơ quan nội tạng của nó còn nguyên vẹn. Khám phá cũng rất đáng chú ý về việc bảo tồn một chiếc sừng mũi nhỏ, một chiếc sừng hiếm vì chúng thường phân hủy nhanh chóng.
Tham khảo
Động vật có vú tiền sử
A
Động vật được mô tả năm 1807
Tê giác tiền sử
Thú Kỷ Đệ Tứ
|
25274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Vatican%C3%B4%20II
|
Công đồng Vaticanô II
|
Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai, gọi tắt là Công đồng Vatican lần thứ hai hay Vatican II, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công đồng được nhóm họp tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican trong bốn kỳ họp, mỗi kỳ họp kéo dài từ 8 đến 12 tuần vào mùa thu mỗi năm từ năm 1962 đến năm 1965. Công việc chuẩn bị cho Công đồng kéo dài 3 năm, từ mùa hạ năm 1959 đến mùa thu năm 1962. Công đồng được Giáo hoàng Gioan XXIII khai mạc vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, và do Giáo hoàng Phaolô VI bế mạc ngày 8 tháng 12 năm 1965 (tại vị Giáo hoàng trong 3 kỳ họp cuối sau khi Giáo hoàng Gioan XXIII mất vào ngày 3 tháng 6 năm 1963). Không có bản tuyên bố bất khả ngộ.
Giáo hoàng Gioan XXIII khởi xướng Công đồng này vì cho rằng Giáo hội cần được canh tân (aggiornamento). Để kết nối với các thành phần dân Chúa trong thế kỷ 20, khi mà đời sống trọng vật chất ngày một chiếm lĩnh thế giới, một số hoạt động của Giáo hội cần được canh tân, và giáo lý Công giáo cũng cần được rao giảng trong tương quan và dễ nắm bắt đối với các thành phần dân Chúa thuộc thời đại này. Nhiều Nghị phụ thấu hiểu điều này, trong khi một số khác cố níu giữ quan điểm bảo thủ. Tuy nhiên, nhóm ủng hổ "canh tân" đã chiến thắng trước phía đối lập, và kết quả là 16 văn kiện được Công đồng đưa ra nhằm phát triển mãnh mẽ hệ thống giáo lý và mục vụ như: cải cách sâu rộng hoạt động phụng vụ, đổi mới các học thuyết về Giáo hội, mặc khải và giáo dân, cách tiếp cận mới trong quan hệ giữa Giáo hội và thế giới, về Đại kết, về quan hệ liên tôn và về tự do tôn giáo.
Theo Giáo hoàng Biển Đức XVI thông điệp chính của Công đồng là tính quan trọng của sự Phục sinh với Kitô hữu. Công đồng đổi mới đời sống thánh hiến, cố gắng đối thoại với những tôn giáo khác, và kêu gọi cả thế giới đến sự thánh thiện là mục đích quan trọng nhất theo Đức Giáo hoàng Phaolô VI. Về sau tiếng bản xứ được dùng rộng rãi trong Thánh lễ thay thế tiếng Latin, phẩm phục thường được sử dụng là Gothic thay vì Roman như trước đây, Kinh nguyện Thánh Thể được bổ sung thêm nhiều mẫu, năm phụng vụ được tinh giản, linh mục được phép hướng về giáo dân khi cử hành Thánh lễ, và âm nhạc có nhiều thích nghi với các dân tộc, dù vậy bình ca vẫn là chuẩn mực của thánh nhạc. Nhiều cải cách còn gây tranh cãi trong cộng đồng tín hữu Công giáo.
Trong các người tham dự cuộc họp thứ nhất của Công đồng có bốn ngài trở thành giáo hoàng: Hồng y Giovanni Battista Montini là Giáo hoàng Phaolô VI; Giám mục Albino Luciani là Giáo hoàng Gioan Phaolô I; Giám mục Karol Wojtyła là Giáo hoàng Gioan Phaolô II; và Cha Joseph Ratzinger, có mặt làm cố vấn thần học, là Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Thập kỉ 50 thuyết thần học và nghiên cứu kinh thánh trong Giáo hội bắt đầu mất tính bảo thủ của Công đồng Vatican lần thứ nhất. Những nhà thần học như Karl Rahner và John Courtney Murray dựa trên lời kêu gọi đổi mới của Giáo hoàng Gioan XXIII mà tìm cách tích hợp kinh nghiệm của loài người thời nay với các nguyên tắc giáo hội căn cứ vào Chúa Kitô, còn những người khác như Yves Congar, Henri de Lubac, và Joseph Ratzinger thì lấy sự hiểu biết đúng đắn về kinh thánh và các Giáo phụ của Giáo hội làm cơ sở chấn hưng. Cùng lúc các giám mục phải đối phó với những biến đổi chính trị, xã hội, kinh tế, và công nghệ. Nguyên là Công đồng Vatican lần thứ nhất được triệu tập gần một thế kỷ trước để thu xếp các vấn đề đương đại, vì bị Quân đội Ý cắt ngắn vào năm 1870 nên chỉ thảo luận xong được vai trò của giáo hoàng cùng quan hệ hoà hợp giữa đức tin và lý trí, còn vai trò của giám mục và giáo dân thì chưa quyết định.
Ngày 25 tháng 1 năm 1959 Giáo hoàng Gioan XXIII báo kế hoạch triệu tập Công đồng, chưa đầy ba tháng sau khi đắc cử vào tháng 10 năm 1958, làm kinh ngạc Giáo triều. Những người bên trong Giáo hội ban đầu bày tỏ ít ý kiến, lãnh tụ tôn giáo và phi tôn giáo bên ngoài đều hưởng ứng. Ngày 25 tháng 12 năm 1961 Công đồng được chính thức triệu tập. Trước đó Gioan XXIII thừa nhận đã đến lúc "cho không khí trong lành vào cửa sổ". Những tín hữu khác bên ngoài Giáo hội Công giáo được mời phái quan sát viên đến Công đồng. Cả Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương lẫn các giáo phái Tin Lành đều đồng ý, nhưng không dự vào việc tán thành các văn kiện công đồng.
Niên biểu
Thông báo và Kỳ vọng
Ngày 25 tháng 1 năm 1959 Giáo hoàng Gioan XXIII làm cho ngay những hồng y có mặt ngạc nhiên khi báo ý định triệu tập công đồng ở Rôma. Dưới mặt trăng tròn Giáo hoàng đã báo trước cho những tín hữu cầm nến tụ tập tại quảng trường Thánh Peter và đùa về độ sáng của ánh trăng.
Chỉ mười ngày trước đó, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã thử nói ý định này với một trong các Hồng y hiện diện là Hồng y Ngoại trưởng Domenico Tardini và nhận được sự ủng hộ nhiệt thành. Mặc dù, sau đó, Giáo hoàng nói ý định về Công đồng đến với ông đột ngột khi trò chuyện với Tardini, nhưng có hai Hồng y đã đề cập đến vấn đề này và gây sự chú ý của Đức Giáo hoàng. Hai Hồng y này là những thành viên bảo thủ nhất, Ernesto Ruffini cùng Alfredo Ottaviani. Hai vị đã trình Giáo hoàng Piô XII về ý tưởng này vào năm 1948, và sau đó đề xuất một lần nữa trước khi Đức Gioan XXIII tựu vị, vào ngày 27 tháng 10 năm 1958.
Công tác sửa soạn Công đồng mất hơn hai năm, do 10 uỷ ban đặc trách cùng người đảm nhiệm truyền thông đại chúng với hợp nhất Kitô giáo và một Ủy ban Trù bị trung ương có 120 uỷ viên để phối hợp tổng thể, phần lớn bao gồm các thành viên của Giáo triều Rôma. 737 người đến dự Vatican I, hầu hết từ châu Âu; từ 2.100 đến hơn 2.300 tham dự Vatican II tuỳ theo phiên họp. Ngoài ra có nhiều chuyên gia (periti) đợi sẵn để khuyên bảo về những vấn đề thần học, hoá ra ảnh hưởng lớn kết quả của Công đồng. 17 giáo phái Chính Thống giáo và Tin Lành cử quan sát viên. Hơn ba chục đại diện của những cộng đồng tín hữu khác cũng có mặt ở phiên mở màn, cuối kỳ họp thứ tư con số đã tăng lên gần 100.
Mở màn
Ngày 11 tháng 10 năm 1962 Giáo hoàng Gioan XXIII mở màn Công đồng ở Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Thành Vatican và đọc bản tuyên bố Hãy vui lên, hỡi Mẹ Giáo hội trước các Nghị phụ.
Phiên làm việc đầu tiên của Công đồng mở vào ngày 13 tháng 10 năm 1962. Hôm đó dự định bầu lên các thành viên của mười uỷ ban công nghị, bao gồm 16 uỷ viên được bầu và tám được bổ nhiệm. Hầu hết công việc của Công đồng là do các uỷ ban làm. Mặc dù có suy đoán là thành viên Giáo triều sẽ chiếm số đông trong các uỷ ban công nghị, nhưng Hồng y cao cấp người Pháp Achille Liénart thỉnh cầu Công đồng dời lại cuộc bỏ phiếu để cho giám mục có thời gian tìm hiểu các ứng viên mà lập danh sách một cách thận trọng. Hồng y người Đức Josef Frings tán thành đề nghị. Công đồng nghỉ họp chỉ sau 15 phút.
Ủy ban
Trong các nhóm theo quốc gia và khu vực với các cuộc họp bên lề các giám mục thảo luận thành viên của các uỷ ban cùng những vấn đề khác. Bản nháp (schemata) từ các phiên sửa soạn bị bỏ và bản mới được soạn. Khi Công đồng họp vào ngày 16 tháng 10 năm 1962 thì một danh sách uỷ viên mới được trình bày và được Công đồng duyệt. Một thay đổi quan trọng là số thành viên từ Trung và Bắc Âu tăng đáng kể, vượt ra ngoài các nước như Tây Ban Nha hay Ý. Hơn 100 giám mục từ châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latin là người Hà Lan hoặc người Bỉ và thường liên kết với các giám mục từ những nước đó. Các nhóm mới do Hồng y người Hà Lan Bernardus Johannes Alfrink cùng Hồng y người Bỉ Leo Suenens lãnh đạo.
Rút cục 11 uỷ ban và ba ban thư ký được thành lập:
Ủy ban chuyên trách Giáo lý Đức tin và Đạo đức (De doctrina fidei et morum);
Ủy ban chuyên trách Giám mục và Chính quyền các giáo phận (De episcopis et dioecesium regimine);
Ủy ban chuyên trách các Giáo hội Đông phương (De ecclesiis orientalibus);
Ủy ban chuyên trách Kỷ luật Bí tích (De sacramentorum disciplina);
Ủy ban chuyên trách Kỷ luật Giáo sĩ và Tín hữu (De disciplina cleri et populi christiani);
Ủy ban chuyên trách Tu sĩ (De religiosis);
Ủy ban chuyên trách Phụng vụ Thánh (De sacra liturgia);
Ủy ban chuyên trách Truyền đạo (De missionibus);
Ủy ban chuyên trách Chủng viện, Nghiên cứu và Trường Công giáo (De seminariis, de studiis, et de educatione catholica);
Ủy ban chuyên trách Tông đồ Giáo dân, Báo chí, và Điều hoà Các buổi trình diễn (De fidelium apostolatu và De scriptis prelo edendis et de spectaculis moderandis);
Ủy ban Kỹ thuật và Tổ chức;
Ban Thư ký Thúc đẩy Hợp nhất Kitô giáo (Ad christianorum unitatem fovendam);
Ban Thư ký Hành chính.
Biến cố
Sau khi Công đồng nghỉ họp vào ngày 8 tháng 12 thì việc sửa soạn kỳ họp thứ hai bắt đầu, dự định mở vào năm 1963. Tuy nhiên phải dừng lại lúc Giáo hoàng Gioan XXIII mất vào ngày 3 tháng 6 năm 1963, vì công đồng đại kết tất nhiên bị tạm ngưng sau cái chết của giáo hoàng triệu tập nó, chờ giáo hoàng kế tiếp ra lệnh hoặc tiếp tục hoặc giải tán. Ngày 21 tháng 6 năm 1963 Giáo hoàng Phaolô VI đắc cử và ngay lập tức tuyên bố Công đồng sẽ họp lại.
Kỳ họp thứ hai: năm 1963
Trước kỳ họp thứ hai Giáo hoàng Phaolô VI xử lý một số vấn đề tổ chức và thủ tục nảy ra từ khoá I bằng cách mời thêm các quan sát viên Công giáo và ngoại đạo, giảm số bản nháp được đề xuất xuống còn 17 (được soạn tổng quát hơn cho phù hợp tính mục vụ của Công đồng) và cho phép các phiên họp chung được công khai.
Ngày 29 tháng 9 năm 1963 Giáo hoàng Phaolô mở đầu kỳ họp thứ hai, nhấn mạnh tính mục vụ của Công đồng và đề ra bốn mục đích của nó:
xác định đầy đủ hơn bản chất của Giáo hội và vai trò của giám mục;
đổi mới Giáo hội;
tái thống nhất tất cả các tín hữu, bao gồm mưu cầu sự tha tội cho những tín hữu Công giáo thúc đẩy ly giáo;
bắt đầu đối thoại với thế giới.
Hai văn kiện Thánh Công đồng Chung (Sacrosanctum Concilium) và Giữa những sự kỳ diệu (Inter mirifica) thông qua. Các giám mục tiếp tục sửa đổi bản nháp về Giáo hội, các giám mục cùng giáo phận và về đại kết. Cùng kỳ họp lễ thánh hiến trinh nữ được tu chính và đăng vào năm 1970.
Ngày 8 tháng 11 năm 1963 Hồng y Josef Frings chỉ trích Bộ Giáo lý Đức tin và khẩu chiến với Bộ trưởng Alfredo Ottaviani, một trong những cuộc tranh luận kịch tính nhất của Công đồng. Về sau cố vấn thần học của Frings tên Joseph Ratzinger sẽ làm Hồng y đứng đầu cùng bộ của Toà Thánh và trở thành Giáo hoàng Biển Đức XVI. Kỳ họp thứ hai kết thúc vào ngày 4 tháng 12 năm 1963.
Kỳ họp thứ ba: năm 1964
Các bản nháp tiếp tục được sửa đổi dựa trên ý kiến của các Nghị phụ. Một số bản thảo được giản tỉnh để cho được duyệt trong kỳ họp thứ ba. Việc thi hành các sắc lệnh giao phó cho các uỷ ban sau công đồng.
Cuối kỳ họp thứ hai Hồng y Leo Joseph Suenens từ Bỉ chê Công đồng vắng phụ nữ. Tháng 9 năm 1964 15 phụ nữ được bổ nhiệm làm viên dự thính, sau cùng Vatican II có tổng cộng 23 viên dự thính nữ, 10 người theo đạo. Tuy không có chức vụ chính thức trong các cuộc thảo luận, nhưng vẫn đến họp tiểu ban về các văn kiện của Công đồng, đặc biệt là các văn bản liên hệ tới giáo dân. Hàng tuần gặp nhau để đọc các văn kiện dự thảo và phát biểu ý kiến.
Kỳ họp thứ ba mở vào ngày 14 tháng 9 năm 1964. Rất nhiều đề xuất được giải quyết. Ba văn kiện Tái lập sự hợp nhất (Unitatis redintegratio), các Giáo hội Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum), và Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium) được ban hành.
Bản nháp về đời sống và chức vụ của các linh mục cùng hoạt động truyền giáo của Giáo hội bị gửi về cho uỷ ban viết lại hoàn chỉnh. Những bản nháp còn lại tiếp tục được sửa, đặc biệt là văn kiện về vị trí của Giáo hội trong thế giới hiện nay và về tự do tôn giáo. Một vài sửa đổi về bản nháp tự do tôn giáo gây tranh cãi. Tuy văn kiện không được đem ra biểu quyết trong kỳ họp thứ ba, song Giáo hoàng Phaolô hứa kỳ họp tiếp theo sẽ xem xét bản nháp này đầu tiên.
Ngày 21 tháng 11 năm 1964 Giáo hoàng Phaolô đóng kỳ họp thứ ba. Ông công bố thay đổi việc nhịn ăn Thánh Thể và chính thức xác nhận lại Đức Maria là "Mẹ của Giáo hội". Dù một số người đòi thêm các tín điều về Đức Maria, Phaolô VI xin họ đợi Công đồng hướng dẫn.
Kỳ họp thứ tư: năm 1965
Phaolô VI và hầu hết các giám mục đều muốn kỳ họp thứ tư là kỳ cuối cùng. Hồng y Ritter nhận xét, công việc bị đình trệ do một tiểu số ít trong Giáo triều siêng "giao tiếp" với giáo hoàng hơn số đông tiến thủ. Trước kỳ họp thứ tư 11 bản nháp vẫn chưa soạn xong. Bản nháp 13 về Giáo hội trong thế giới hiện nay được giáo dân giúp sửa đổi.
Ngày 14 tháng 9 năm 1965 Giáo hoàng Phaolô VI mở đầu kỳ họp cuối cùng. Ngày hôm sau ban hành tự sắc thành lập Thượng Hội nghị Giám mục để duy trì sự hợp tác chặt chẽ giữa các giám mục và Giáo hoàng sau Công đồng.
Kỳ họp thứ tư trước tiên xem xét văn kiện Phẩm giá con người (Dignitatis humanae), ngày 21 tháng 9 thông qua theo 1.997 phiếu thuận với 224 phiếu chống, gây tranh cãi nhiều hơn những văn kiện công đồng khác. Tiếp theo các Nghị phụ duyệt ba văn kiện Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes), Đến với muôn dân (Ad gentes), và Chức vụ Linh mục (Presbyterorum ordinis).
Công đồng cũng thông qua những văn kiện khác được xem xét trong các kỳ họp trước, bao gồm Lời Thiên Chúa (Dei verbum) và Chúa Kitô (Christus Dominus), Đức ái hoàn hảo (Perfectae caritatis), Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (Optatam totius), Vai trò rất quan trọng của giáo dục (Gravissimum educationationis), và Hoạt động tông đồ (Apostolicam actuositatem).
Văn kiện Thời đại chúng ta (Nostra aetate) gây tranh cãi vì định rằng một vài người Do Thái thời Chúa Kitô và tất cả mọi người Do Thái thời nay không chịu trách nhiệm giết Chúa Kitô.
Sau Công đồng thì bắt đầu nhấn mạnh cải thiện quan hệ giữa Do Thái giáo và Công giáo.
Một sự kiện quan trọng trong những ngày cuối cùng của Công đồng là việc Giáo hoàng Phaolô cùng Thượng phụ Chính Thống giáo Athenagoras bày tỏ hối tiếc về nhiều hành động trong quá khứ dẫn đến Đại ly giáo giữa giáo hội phương tây và phương đông.
Ngày 8 tháng 12 Công đồng chính thức hạ màn. Các giám mục tuyên bố tuân theo các sắc lệnh của Công đồng. Để giúp thi hành lệnh của Công đồng, Giáo hoàng Phaolô:
thành lập trước đó Ủy ban Giáo hoàng về Phương tiện Truyền thông Xã hội để trợ giúp các giám mục trong việc dùng các phương tiện này cho mục đích mục vụ;
tuyên bố năm Thánh từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 26 tháng 5 năm 1966 (sau đó kéo dài đến ngày 8 tháng 12 năm 1966) để kêu gọi tín hữu Công giáo học tập chấp nhận các quyết định của Công đồng và áp dụng chúng trong việc đổi mới tâm linh;
đổi tên Thánh bộ thành Bộ Giáo lý Đức tin vào năm 1965, cùng tên và quyền hạn của những bộ khác thuộc giáo triều Rôma;
làm thường trực ban thư ký Thúc đẩy Hợp nhất Kitô giáo, ban thư ký ngoại đạo, và ban thư ký người không tin.
Văn kiện
Công đồng Vatican lần thứ hai ra bốn hiến chế và 12 văn kiện khác.
Hiến chế
Hiến chế về Phụng vụ thánh
Thánh Công đồng Chung (Sacrosanctum Concilium) là văn kiện đầu tiên được Công đồng thông qua, về phụng vụ của giáo hội. Giáo hoàng Biển Đức XVI giải thích rằng một ý tưởng cơ bản của Công đồng là "đặt sự thần bí của Phục sinh làm trung tâm của thân phận Kitô hữu, đời sống Kitô hữu, năm Kitô giáo, mùa Kitô giáo, tỏ ra trong lễ Phục sinh và Chúa nhật, luôn luôn là ngày Phục sinh." Vì thế phụng vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, "vừa là đỉnh cao Giáo hội nhắm tới, vừa là nguồn gốc tất cả quyền lực của Giáo hội."
Việc sửa lại phụng vụ lập tức ảnh hưởng đời sống của tín hữu Công giáo. Lý do chính là Công đồng muốn giáo dân tích cực dự vào phụng vụ, tức "thấy được rõ ràng những gì họ đang làm, hăng hái tham gia nghi thức, và lên cao về mặt tinh thần". Từ giữa thập kỷ 60 Thánh lễ được phép cử hành trong tiếng bản địa để cho giáo dân dễ hiểu. Thánh lễ đọc nhiều câu Kinh Thánh hơn. Bản Kinh Thánh văn Latin hiệu đính của Thánh lễ vẫn là bản chính thức để dịch sang những ngôn ngữ khác. Lời kêu gọi giáo dân than gia tích cực hơn vào các hoạt động của Hội thánh không chỉ dừng lại ở sắc lệnh phụng vụ, mà còn được những văn kiện sau này của Công đồng làm rõ thêm;. Tuy nhiên, Hiến chế Phụng vụ thánh không nhằm xoá bỏ truyền thống Phụng vụ như những người Truyền thống nhầm tưởng. Không có sắc lệnh nào cấm việc cử hành Thánh Lễ quay lên, và tiếng Latinh vẫn được Công đồng ra lệnh duy trì trong Phụng vụ.
Hiến chế Tín lý về Giáo hội
Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium) chỉ dẫn cho những văn kiện về sau về đại kết, ngoại đạo, tự do tôn giáo, và chỗ đứng của Giáo hội trong thế giới. Sắc lệnh ra kết luận gây tranh cãi là mặc dù "những cộng đồng tín hữu khác còn khiếm khuyết về mặt tổ chức," song trong một số trường hợp có thể "là phương tiện ban ơn tốt hơn." Giám mục Bỉ Emil de Smedt chê mô hình tổ chức đang có của giáo hội gây nên sự tập giáo quyền, sự cứng nhắc, và sự kiêu ngạo, so với mô hình nhấn mạnh ‘dân Chúa’ được Ánh sáng muôn dân khen ngợi. Theo Giáo hoàng Phaolô VI "mục đích đặc trưng và cơ bản nhất của các giáo huấn của Công đồng" là lời kêu gọi nên thánh toàn cầu, Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi là "khía cạnh vốn có và thiết yếu của lời dạy [của các Nghị Phụ] về Giáo hội", là nơi "mọi Kitô hữu bất kể cấp bậc địa vị đều được kêu gọi đến sự sung mãn của đời sống Kitô hữu và sự hoàn hảo của lòng bác ái" (Lumen gentium, 40). Trong tông thư Evangelii Gaudium (17) Giáo hoàng Phanxicô nói sẽ lấy Ánh sáng muôn dân làm cơ sở thảo luận toàn thể Dân Chúa truyền đạo, tiếp cận truyền giáo, việc hoà nhập người nghèo vào xã hội, và hoà bình với đối thoại trong xã hội. Giáo hoàng Phanxicô cũng bắt đầu lãnh đạo một cách tập thể hơn theo lời gọi của Công đồng, thông qua các hội động giám mục và một hội đồng cố vấn toàn cầu gồm tám hồng y.
Hiến chế Tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa
Lời Thiên Chúa (Dei Verbum) trỏ ra nguyên lý hữu hiệu trong các văn kiện khác của Công đồng là "Việc nghiền ngẫm thánh kinh, có thể nói là linh hồn của thần học thiêng liêng". Có nhận xét rằng Lời Thiên Chúa là văn kiện phá lệ nhất của Công đồng vì đặt Kinh Thánh về làm nền tảng của đời sống Kitô hữu và lời dạy Kitô giáo, hiển nhiên trong những tài liệu khác. Nguyên là mặc dù việc nghiên cứu Kinh Thánh được tán thành một cách dè dặt vào thời Giáo hoàng Piô XII, những học giả bị nghi thiên về tư tưởng đời mới vẫn bị khoá mồm. Lại có những người nghĩ rằng Công đồng Vaticanô II chấm dứt cuộc Phản Cải chính và hạ bệ chủ nghĩa bảo thủ trong Giáo hội và nêu dẫn chứng cho lập luận của họ như: sắc lệnh phụng vụ của Công đồng kêu gọi dùng các văn bản phụng vụ nay bằng tiếng bản ngữ một cách rộng rãi hơn, cùng với rao giảng Kinh Thánh một cách sáng suốt hơn về "mối tình giữa Thiên Chúa và loài người".
Những nhận xét như vậy là cố tình xuyên tạc theo hướng cấp tiến và phủ nhận thành quả bảo vệ Đức tin ngàn năm của Giáo hội. Xin nhắc lại là Công đồng Vaticanô II vẫn ra lệnh duy trì tiếng Latinh trong Phụng vụ ở điều 36 của Hiến chế Phụng vụ thánh, và chỉ cho phép tiếng địa phương trong trường hợp được chuẩn nhận. Một điểm khác là Giáo lý của Giáo hội ngày nay vẫn khẳng định: “Cả Thánh Kinh và Thánh Truyền làm nên một nền tảng Đức tin duy nhất.” Đây là chân lý ngàn đời không thay đổi của Giáo hội, không bao giờ Giáo hội phủ nhận Thánh Truyền để chỉ đặt Thánh Kinh làm nền tảng chân lý Đức tin như phái Kháng cách tin nhận.
Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay
Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes) phát triển cách nhìn Giáo hội là "dân hành hương của Chúa" và là "sự hiệp thông" của Ánh sáng muôn dân, dựa trên lịch sử dạy bảo của Giáo hội và "các dấu chỉ thời đại". Văn kiện phản ánh lời giáo huấn rằng mọi tín hữu được rửa tội có cùng nhiệm vụ Chúa Kitô giao cho Giáo hội: truyền đạo khắp thế giới một cách thức thời trong lúc hợp tác cùng Chúa Thánh Thần. Cũng thách thức những người không cho đàm phán những vấn đề như ham muốn tình dục, bất cứ ai vào thời Giáo hoàng Phanxicô đều thấy rõ.
Những văn kiện khác
Bản tuyên bố mở màn – Hãy vui lên, hỡi Mẹ Giáo hội (Gaudet Mater Ecclesia) là bản tuyên bố mở màn của Công đồng Vatican lần thứ hai, Giáo hoàng Gioan XXIII đọc vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 trước các giám mục cùng các đại biểu của 86 nước và tổ chức quốc tế. Ông chỉ trích những "tiên tri dự báo thảm họa" cho giáo hội hay thế giới. Ông thừa nhận chỗ tốt của việc phân ly chính giáo, song cũng biết thách thức hoà nhập đức tin vào đời sống công cộng. Giáo hội "đáp ứng các nhu cầu ngày nay bằng cách giải thích tính hợp lệ của giáo lý của mình một cách đầy đủ thay vì lên án", bằng cách sửa đổi lại giáo lý cổ xưa cho có hiệu lực mục vụ. Giáo hội cũng "cảm động trước lòng thương xót và sự tốt lành với những đứa con bị ly tán của bà." Trước khi lên ngôi giáo hoàng Gioan XXIII chứng minh tài ngoại giao của ông ở Pháp.
Sắc lệnh về các Phương tiện Truyền thông Xã hội – Giữa những sự kỳ diệu (Inter mirifica) ban hành ngày 4 tháng 12 năm 1963 thảo luận tính quan trọng của phương tiện truyền thông với sự tiến bộ của loài người và những đóng góp tín hữu Công giáo có thể làm.
Sắc lệnh về Hợp nhất – Tái lập sự hợp nhất (Unitatis redintegratio) ban hành ngày 21 tháng 11 năm 1964 định rằng mọi phe đều có lỗi trong tranh chấp gây nên ly giáo và tìm cách đối thoại hợp nhất "những anh em đã chia lìa".
Sắc lệnh về các Giáo hội Công giáo Đông phương – các Giáo hội Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum) ban hành ngày 21 tháng 11 năm 1964 khen ngợi sự nghiệp phụng vụ và thần học của các giáo hội Đông phương, tuy ở xa nhưng vẫn hiệp thông với Rôma.
Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội – Đến với muôn dân (Ad gentes) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truyền giáo bên ngoài Giáo hội, nhất là qua việc hình thành các cộng đoàn ở giáo hội địa phương.
Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân – Hoạt động tông đồ (Apostolicam actuositatem) ban hành ngày 18 tháng 11 năm 1965 khuyến khích giáo dân sống đạo và loan truyền Phúc Âm trong gia đình, nơi sở làm, và hoạt động xã hội.
Sắc lệnh về nhiệm vụ Giám mục – Chúa Kitô (Christus Dominus) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 xác định thẩm quyền và nhiệm vụ của các giám mục trong giáo phận, trong cuộc họp cấp miền, và trong giáo hội nói chung.
Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo – Phẩm giá con người (Dignitatis humanae) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 định phẩm giá căn bản của con người đòi hỏi quyền tự do về vấn đề tôn giáo. Mọi người phải được tự do thờ phượng theo lương tâm.
Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo – Thời đại chúng ta (Nostra aetate) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi cởi mở và cộng tác với các tôn giáo lớn trên thế giới.
Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu – Đức ái hoàn hảo (Perfectae caritatis) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi canh tân cơ cấu tổ chức và quy luật, nhưng coi yếu tố then chốt để canh tân là thể hiện các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục – Chức vụ Linh mục (Presbyterorum ordinis) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 làm sáng tỏ nhiệm vụ của linh mục và sự tương giao giữa linh mục với giám mục và giáo dân.
Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục – Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (Optatam totius) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi huấn luyện các linh mục một cách nghiêm chỉnh, kể cả việc chú trọng đến các tiêu chuẩn cao trong việc học, đời sống tâm linh và huấn luyện mục vụ.
Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo – Vai trò rất quan trọng của giáo dục (Gravissimum educationationis) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 xác nhận sự quan trọng của việc giáo dục Kitô hữu ở nhà, ở trường, và ở nhà thờ và kêu gọi cập nhật phương pháp giáo dục cho phù hợp các ngành khoa học xã hội.
Bản tuyên bố hạ màn – Một tháng sau khi Công đồng đóng Giáo hoàng Phao-lô VI viết bức thư Udienze Generale nói rõ cách hiểu Công đồng.
Phản đối
Có hai phái không nhận Công đồng Vatican lần thứ hai:
Phái Truyền thống lên án các cải cách từ Công đồng gây nên hậu quả có hại, hành vi tà giáo và sự thờ ơ với các phong tục, tín ngưỡng, và tập quán ngoan đạo của Giáo hội trước năm 1962. Ngoài ra trỏ ra là Công đồng mâu thuẫn với các tuyên bố giáo hoàng trước Công đồng về đức tin, luân lý, và giáo lý. Hơn nữa còn luận rằng Công đồng vừa làm suy yếu địa vị tối cao của Giáo hội Công giáo so với những giáo hội khác, vừa làm nhụt tinh thần ngoan đạo lâu đời của giáo hội. Hầu hết các tín hữu thuộc phái Truyền thống chỉ tuân theo Bộ Giáo luật năm 1917 vì các văn kiện của Công đồng không có tính giáo điều, nên theo họ không thể ràng buộc những tín hữu Công giáo trung kiên, nhất là khi dẫn tới thi hành lỏng lẻo các giáo lý lâu đời được các cựu Giáo hoàng phê chuẩn ủng hộ trước năm 1962.
Phái Tọa khuyết (Sedevacantism) đến nỗi khẳng định, sau khi cắt đứt truyền thống và tán thành tà đạo thì các giáo hoàng hiện tại và về sau không có quyền nắm giữ ngôi báu. Ngôi vẫn trống đến khi một giáo hoàng khác bác bỏ Vatican II và khôi phục truyền thống trước năm 1962.
Bộ Giáo luật năm 1983 quy định tín hữu Công giáo không được coi thường giáo huấn của công đồng đại kết mặc dù không có tính chung quyết và cũng định rằng chỉ Giáo hoàng tại chức có quyền đánh giá tư cách để được hiệp thông cùng Giáo hội.
Hình ảnh
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục tham khảo
.
.
.
.
Rynne, Xavier (1963-1966), The Debates and Decrees of Vatican Council II (with four volumes/sessions), New York: Farrar, Straus, Giroux.
.
Đọc thêm
Tán thành
Chỉ trích
.
. Vatican II in the light of Tradition and Magisterium of the Catholic Church.
.
Tổ chức tôn giáo có trụ sở tại Ý
Tổ chức có trụ sở tại Roma
Khởi đầu năm 1962 ở Ý
Ý thập niên 1960
|
25275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhinoceros
|
Rhinoceros
|
Rhinoceros là một chi điển hình của Họ Tê giác. Tên Rhinoceros có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, trong đó rhino có nghĩa là mũi, và ceros có nghĩa là sừng.
Các loài
Hiện nay đã xác định được hai loài thuộc chi này còn tồn tại là:
Rhinoceros sondaicus - Tê giác Java
Rhinoceros unicornis - Tê giác Ấn Độ
Loài tê giác Java hiện nay là một trong những loài động vật có vú lớn đang ở trong tình trạng nguy cấp nhất trên thế giới, với chỉ khoảng 60 cá thể còn sống sót, và chỉ sống ở hai nơi Java, Indonesia (và Việt Nam trước năm 2010).
Phân loại
Chi Tê giác bao gồm:
Tê giác Ấn Độ (R. unicornis) Linnaeus, 1758
Tê giác Java (R. sondaicus) Desmarest, 1822
† R. hemitoxhus
† R. leptorhinus
† R. philippinensis mô tả bởi von Koenigswald năm 1956 là hài cốt hóa thạch được tìm thấy ở Cagayan tỉnh của Philippines.
† R. sinensis
Nguồn gốc tên
Tên chi Tê giác là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại (ris) có nghĩa là 'mũi' và κέρας (keras) có nghĩa là 'sừng của một con vật'.
Hình ảnh
Tham khảo
Chi động vật có vú
|
25281
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AA%20gi%C3%A1c%20%C4%91en
|
Tê giác đen
|
Tê giác đen (Diceros bicornis) là một loài động vật có vú thuộc bộ guốc lẻ (Perissodactyla) sinh sống tại các khu vực miền đông và trung châu Phi bao gồm Kenya, Tanzania, Cameroon, Cộng hòa Nam Phi, Namibia và Zimbabwe. Tê giác đen là loài nằm trong danh sách các động vật đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp do sự săn bắn trộm thái quá để lấy sừng của chúng, được sử dụng chủ yếu để làm cán dao găm (như là một biểu tượng cho sự giàu có ở nhiều quốc gia). Ngược lại với ý kiến phổ biển cho rằng người ta dùng nó nhiều để làm thuốc kích dục, trên thực tế chỉ có một lượng nhỏ sừng tê giác đen được sử dụng như vậy.
Đặc trưng
Tê giác đen trưởng thành cao khoảng 1,5 mét (5 ft) tính từ vai và dài khoảng 3-3,65 mét (10–12 ft). Tê giác trưởng thành cân nặng khoảng 450 đến 1360 kg (1.000-3.000 lb), với con cái nhỏ và nhẹ hơn. Hai sừng trêu đầu là keratin với sừng phía trước lớn hơn và cao tới 71 cm (28 inch). Thỉnh thoảng còn có cá thể có sừng thứ ba nhỏ hơn. Màu da của chúng phụ thuộc nhiều vào các điều kiện đất đai khu vực sinh sống và thói quen đầm mình dưới nước của chúng hơn bất kỳ các điều khác, vì thế nhiều tê giác đen trên thực tế không có màu da đen.
Tê giác đen nhỏ hơn tê giác trắng và có môi trên nhọn có thể cầm nắm được, được chúng dùng để ăn lá và cành non. Tê giác trắng có các môi vuông để ăn cỏ. Cũng có thể phân biệt tê giác đen với tê giác trắng theo kích thước hộp sọ. Hộp sọ, tai của tê giác đen nhỏ hơn và phần trán của chúng là rõ nét hơn. Tê giác đen cũng không có bướu trên vai dễ phân biệt như tê giác trắng.
Các cá thể trưởng thành thường sống riêng lẻ trong tự nhiên nhưng sẽ cặp đôi trong mùa giao phối, với con cái đi cùng với con của nó trong thời kỳ nuôi con nhỏ. Đôi khi, các con mẹ và các con (con cái) của chúng có thể tạo ra các nhóm nhỏ.
Phân loài
Có bốn phân loài tê giác đen:
Diceros bicornis minor: Tê giác đen trung nam, là phân loài đông nhất về số lượng, chúng đã từng phân bổ rộng khắp từ miền trung Tanzania về phía nam tới Zambia, Zimbabwe và Mozambique tới phía bắc và phía đông của Nam Phi.
Diceros bicornis bicornis: Tê giác đen tây nam, là phân loài thích hợp nhất với các điều kiện khô cằn và bán khô cằn ở xavan của Namibia, miền nam Angola, miền tây Botswana và miền tây Nam Phi.
Diceros bicornis michaeli: Tê giác đen Đông Phi, phân loài này có lịch sử phân bổ từ miền nam Sudan, Ethiopia, Somalia xuống tới Kenya và miền bắc-trung tâm Tanzania. Ngày nay, phạm vi phân bổ của chúng bị giới hạn chủ yếu trong vùng Tanzania.
Diceros bicornis longipes: Tê giác đen Tây Phi, là phân loài hiếm và nguy cấp nhất. Trong lịch sử, chúng đã từng sinh sống ở khắp các xavan Tây Phi. Cuối cùng chỉ còn vài cá thể sống sót ở miền bắc Cameroon. Vào 10 tháng 11 năm 2011, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế thông báo rằng phân loài này đã tuyệt chủng.
Sự thích nghi
Tê giác đen thích nghi với môi trường sinh sống của chúng bằng các đặc trưng sau:
Các lớp da dày bảo vệ chúng khỏi gai và các loại cỏ, lá cây sắc.
Bàn chân của chúng là lớp đệm dày để hấp thụ các loại sốc.
Môi trên được thích ứng với việc nắm giữ và túm lấy các vật thể nhằm hỗ trợ việc tìm kiếm lá cây và các loại thức ăn khác.
Tai lớn có thể xoay để định hướng nguồn âm thanh.
Mũi to và khứu giác tốt giúp chúng phát hiện ra các kẻ thù.
Hai chiếc sừng ghê gớm được sử dụng để phòng thủ và đe dọa.
Thức ăn và sinh sản
Tê giác đen là một loài động vật ăn cỏ chuyên ăn các loại lá cây, cành và chồi non, hoa quả và các loại cây bụi có gai. Thức ăn này của chúng góp phần làm giảm các loại cây thân gỗ và kết quả là tạo ra nhiều không gian cho các loại cỏ phát triển, đem lại lợi ích cho các động vật khác. Da của chúng là nơi sinh sống và ẩn náu của nhiều loại động vật ký sinh-là thức ăn của các loài chim như diệc bạch, là loài chim sống cùng với tê giác.
Con cái trưởng thành đạt độ tuổi sinh sản từ 4 đến 6 năm trong khi con đực mất nhiều thời gian hơn một chút, từ 7 đến 9 năm. Sự sinh sản không thấy có kiểu theo mùa rõ ràng nhưng tỷ lệ sinh con non còn sống cao có xu hướng diễn ra vào cuối mùa mưa ở các môi trường khô cằn hơn. Con non mới sinh cân nặng khoảng 38 kg (85 lb) sau 15-16 tháng mang thai, và chúng có thể chạy theo mẹ chỉ sau khoảng 3 ngày. Con non là mục tiêu săn tìm của linh cẩu và sư tử. Nói chung, khoảng thời gian giữa các lần sinh đẻ của con cái là từ 2 đến 3 năm. Tê giác đen sống từ 25 đến 40 năm nhưng trong điều kiện bị giam cầm có thể sống tới 50 năm.
Quần thể
Trong phần lớn thế kỷ 20 thì tê giác đen là loài tê giác đông đúc nhất về số lượng. Vào khoảng năm 1900 thì số lượng của chúng có thể lên tới vài chục ngàn con sống ở châu Phi. Trong nửa cuối thế kỷ 20 thì số lượng của chúng đã suy giảm nghiêm trọng từ con số ước tính 70.000 vào cuối thập niên 1960 xuống chỉ còn 10.000 - 15.000 vào năm 1981. Vào đầu thập niên 1990 thì số lượng đã giảm dưới 2.500 và vào năm 1995 thì người ta thông báo chỉ còn 2.410 tê giác đen còn sống sót. Theo Quỹ tê giác quốc tế , quần thể tê giác đen đã được phục hồi nhẹ tới 3.610 con vào năm 2003. Tuy nhiên, chỉ còn rất ít cá thể của phân loài Tây Phi còn sống ở miền bắc Cameroon.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web của WWF về tê giác đen.
Mục từ tê giác đen trong website của Bagheera Endangered Earth.
Bảng dữ liệu về tê giác đen trong website của Quỹ tê giác quốc tế.
Bảng dữ liệu về tê giác đen của Vườn thú Lincoln.
Động vật được mô tả năm 1758
B
Động vật hoang dã châu Phi
Loài EDGE
Động vật có vú Angola
Động vật có vú Kenya
Động vật có vú Nam Phi
Động vật có vú Tanzania
Động vật có vú Uganda
Động vật có vú Zambia
Động vật Đông Phi
Động vật nguy hiểm
|
25289
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rootkit
|
Rootkit
|
Rootkit (// đọc là rút-kít) là một bộ công cụ phần mềm do kẻ xâm nhập đưa vào máy tính nhằm mục đích cho phép quay lại xâm nhập máy tính đó và dùng nó cho các mục đích xấu mà không bị phát hiện, bộ công cụ này cho phép truy nhập vào hoạt động của máy tính ở mức căn bản nhất. Các mục đích của kẻ xâm nhập khi sử dụng rootkit bao gồm:
thu thập dữ liệu về máy tính (kể các máy tính khác trong cùng mạng) và những người sử dụng chúng (chẳng hạn mật khẩu và thông tin tài chính),
gây lỗi hoặc sai trong hoạt động của máy tính
tạo hoặc chuyển tiếp spam
Có các rootkit khác nhau được viết cho nhiều loại hệ điều hành như Linux, Solaris và các phiên bản Microsoft Windows.
Từ "rootkit" trở nên phổ biến khi có cuộc tranh luận về chống sao chép CD Sony 2005, trong đó các đĩa CD nhạc của Sony BMG cài một roolkit vào các PC chạy Microsoft Windows.
Nguồn gốc của rootkit
Thuật ngữ "rootkit" (còn được viết là "root kit") lúc đầu được dùng để chỉ một bộ công cụ Unix được biên dịch lại như "ps", "netstat", "w" and "passwd" có thể che giấu kĩ lưỡng vết tích của kẻ xâm nhập mà bình thường sẽ bị hiển thị bởi các lệnh trên, vì vậy nó cho phép kẻ xâm nhập duy trì quyền "root" ("siêu người dùng") trên hệ thống mà ngay cả người quản trị hệ thống cũng không thể thấy họ.
Ngày nay thuật ngữ này không chỉ giới hạn ở các hệ điều hành dựa trên Unix mà còn được dùng để chỉ các công cụ thực hiện tác vụ tương tự trên hệ điều hành không Unix như Microsoft Windows (ngay cả khi hệ điều hành đó không có tài khoản "root").
Hoạt động
Chức năng của rootkit
Rootkit tạo đường truy nhập cho kẻ xâm nhập trở lại, việc này được thực hiện bằng cách cài đặt một cửa hậu (backdoor - một phương pháp ẩn cho việc lấy quyền truy nhập máy tính). Cửa hậu này có thể là một daemon truy nhập từ xa, chẳng hạn một phiên bản đã được sửa chữa của telnetd hoặc sshd, được cấu hình để chạy trên một cổng không phải cổng mặc định mà các daemon này thường nghe. (daemon là một loại chương trình chạy ngầm, đợi được kích hoạt bởi một điều kiện hoặc một sự kiện cụ thể, daemon không chịu sự kiểm soát trực tiếp của người dùng).
Một rootkit được thiết kế tốt sẽ có khả năng che giấu hoặc xóa bỏ bất cứ dấu vết nào của việc nó được đưa vào máy tính, sự tồn tại và hoạt động của nó. Ví dụ, nó có thể sửa nhật trình (log) hệ thống để không ghi hoặc xóa bỏ tất cả các thông tin liên quan đến việc nó được đưa vào máy, thông tin về các lần truy nhập tiếp theo của kẻ xâm nhập, và thông tin về các tiến trình (các chương trình được thực thi) mà rootkit chạy. Những kẻ xâm nhập không lành nghề có thể chỉ xóa hoặc tẩy trắng các nhật trình, hiện tượng này có thể là đầu mối cho thấy có chuyện bất thường.
Sử dụng bởi kẻ phá hoại
Trong trường hợp điển hình, rootkit che giấu đăng nhập, tiến trình, tập tin và log và có thể bao gồm phần mềm đánh cắp dữ liệu từ trạm cuối (terminal), các nối kết mạng và bàn phím máy tính. Trong nhiều trường hợp rootkit được xem là Trojan.
Cửa sau cũng cho phép các tiến trình từ người dùng thông thường thi hành các chức năng dành riêng cho siêu người dùng. Rootkit cũng có thể che giấu mọi loại công cụ khác có thể dùng để xâm phạm hệ thống. Điều này bao gồm các công cụ dùng để tấn công thêm vào các hệ thống máy tính có kết nối với hệ thống bị xâm nhập như là công cụ bắt gói tin (packet sniffer) và chương trình ghi tác vụ bàn phím (keylogger). Một cách xâm phạm phổ biến là dùng hệ thống bị chiếm làm bàn đạp cho xâm nhập tiếp theo. Điều này được thực hiện bằng cách làm cho một vụ xâm nhập có vẻ như xuất phát từ mạng hay hệ thống bị chiếm thay vì từ kẻ tấn công. Các công cụ này bao gồm công cụ tấn công từ chối dịch vụ (DDOS), công cụ chuyển tiếp phiên chat và các tấn công spam email.
Một thí dụ gần đây cho việc rootkit được sử dụng trên CD thương mại dùng để quản lý quyền kỹ thuật số là cuộc tranh luận chống sao chép CD Sony 2005.
Lây nhiễm
Cũng như với các phần mềm độc hại khác, máy tính có thể bị lây nhiễm rootkit bằng nhiều đường, trong đó có lây nhiễm qua các chương trình được tải xuống từ Internet, qua tệp gắn kèm tại email, hoặc thậm chí khi truy cập một số trang web nhất định. Rootkit còn có thể được đưa vào máy qua việc đọc một ổ đĩa đặc biệt hoặc thẻ nhớ USB.
Phân biệt
Rootkit không phải là exploit
Rootkit có thể được dùng cùng với một thủ thuật phá hoại (exploit), nhưng rootkit tự nó chỉ là một bộ các chương trình tiện ích. Các chương trình này thường không phụ thuộc vào các lỗi phần mềm (chẳng hạn lỗi tràn bộ đệm) mà các exploit lạm dụng. Nhiều tin tặc có một kho các exploit, nhưng chỉ có một hai chương trình rootkit để dùng kèm. Một khi vào được hệ thống, tin tặc sẽ triển khai rootkit thích hợp, bất kể mình sử dụng exploit nào.
Tuy rootkit không phải là một exploit, nhưng nó có thể chứa một exploit. Rootkit thường cần quyền truy nhập tới nhân hệ điều hành và chứa một vài chương trình bắt đầu chạy khi hệ thống khởi động (boot). Một trong các cách cài một rootkit vào hệ thống là sử dụng một exploit phần mềm, ví dụ lỗi tràn bộ đệm là một cơ chế để nạp mã chương trình vào nhân hệ điều hành.
Rootkit không phải là virus
Virus máy tính là một Chương trình tự nhân bản và phát tán. Trái lại, rootkit không tự nhân bản và không có cơ chế hoạt động độc lập tự chủ. Rootkit nằm hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của một kẻ tấn công là con người,hacker tấn công chúng ta bằng cách này là đa phần, virus thì không.
Tham khảo
Phần mềm độc hại
Tấn công mật mã
|
25298
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1ng%2012%20n%C4%83m%202005
|
Tháng 12 năm 2005
|
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 12 năm 2005.
Thứ năm, ngày 1 tháng 12
Tòa án Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính.
Thứ sáu, ngày 2 tháng 12
Nguyễn Tường Vân, một người Úc gốc Việt, bị treo cổ tại Singapore vì tội buôn lậu ma túy.
Xương hóa thạch của chim thủy tổ Archaeopteryx mới được miêu tả đưa ra giả thuyết là nó giống những khủng long loài Theropod.
Thứ bảy, ngày 3 tháng 12
Ở Đài Loan, Quốc dân đảng được hơn số phiếu đảng Dân chủ Cấp tiến trong cuộc bầu cử địa phương giữa nhiệm kỳ.
Chủ nhật, ngày 4 tháng 12
Hàng chục ngàn người xuống đường biểu tình ở Hồng Kông cho quyền bỏ phiếu phổ thông và bình đẳng.
Phong trào Cộng hòa thứ 5 thắng cuộc bầu cử nghị viện ở Venezuela, bởi vì hầu hết đảng đối lập tẩy chay cuộc bầu cử này.
Thứ hai, ngày 5 tháng 12
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 bế mạc tại Philippines.
Một máy bay C-130 Hercules của Không quân Iran bị tai nạn và rơi vào một tòa chung cư tại thủ đô Tehran, làm thiệt mạng ít nhất 128 người.
Thứ tư, ngày 7 tháng 12
Xét xử Saddam Hussein bị hoãn cho hai tuần lễ. Sau khi tố cáo tòa chỉ là "tay sai của nước Mỹ," ông Hussein không có mặt ở ngày cuối cùng để nghe các nhân chứng.
Thứ năm, ngày 8 tháng 12
Nghị định III của Hiệp định Genève được chấp nhận, chọn Tinh thể Đỏ thành biểu trưng thứ ba của Phong trào Chữ thập Đỏ – Trăng lưỡi liềm Đỏ quốc tế, mở đường cho Israel gia nhập phong trào.
Chủ nhật, ngày 11 tháng 12
Tân Hoa xã và nhật báo Quảng Châu đưa tin cảnh sát CHND Trung Hoa đã bắn chết 3 người, làm bị thương 8 người tham gia biểu tình liên quan đến đền bù đất đai ngày 6 tháng 12 ở làng Đông Châu, Quảng Đông. Nguồn tin khác cho hay số người chết có thể đến 20 người. Viên chức ra lệnh nổ súng đã bị bắt, nhưng danh tánh ông này còn được giữ bí mật. Tuổi trẻ BBC BBC
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2005 được tổ chức tại Nhật Bản.
Thứ năm, ngày 15 tháng 12
Người dân Iraq bầu cử trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau khi bị Hoa Kỳ xâm lược.
Thứ bảy, ngày 17 tháng 12
Ít nhất 41 người bị chết đuối vì lũ lụt và đất lở tại miền Trung Việt Nam trong các tuần qua.
Thứ hai, ngày 19 tháng 12
Evo Morales thắng đa số trong cuộc bầu cử tổng thống Bolivia. Ông là người Aymara, tổng thống bản xứ đầu tiên của nước đó.
Thứ sáu, ngày 23 tháng 12
Một nhóm hội thảo tại Đại học Quốc gia Seoul kết luận tiến sĩ Hwang Woo-Suk đã giả mạo một phần nghiên cứu về tế bào gốc.
Cuộc đình công của nhân viên vận tải tại Thành phố New York ngưng lại trong lúc hai bên đang thương lượng; các dịch vụ trở lại bình thường.
Chính phủ nước Tchad tuyên bố "tình trạng chiến tranh" với nước bên Sudan, sau cuộc tấn công do một nhóm chống đối thuộc về tổ chức RDL từ Darfur tại thị xã Adre.
Chủ nhật, ngày 25 tháng 12
Tối cao Pháp viện Libya hủy bỏ kết án và án tử hình của năm y tá Bulgari và một bác sĩ Palestine bị tội làm lây virus HIV cho hàng trăm trẻ em.
Thứ ba, ngày 27 tháng 12
Phong trào Giải phóng Aceh giải thể lực lượng vũ trang, kết thúc 30 năm bạo loạn tại Aceh, Indonesia.
Thứ tư, ngày 28 tháng 12
Andrey Illarionov, cố vấn cấp cao của tổng thống Nga Vladimir Putin từ chức sau khi tuyên bố rằng Nga "không còn là một nước dân chủ".
Thứ năm, ngày 29 tháng 12
Ủy ban điều tra khoa học tại Đại học Quốc gia Seoul thông báo tiến sĩ Hwang Woo-Suk đã giả mạo toàn bộ nghiên cứu về tế bào gốc.
Tham khảo
Tháng mười hai
Năm 2005
|
25306
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Windows%20XP
|
Windows XP
|
Windows XP là một hệ điều hành do Microsoft phát triển, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT, hướng tới các máy tính để bàn dành cho gia đình và doanh nghiệp, máy tính xách tay, máy tính bảng và máy tính trung tâm đa phương tiện. Đây là hệ điều hành kế nhiệm của cả của Windows 2000 cho người dùng doanh nghiệp và Windows Me cho người dùng gia đình. Windows XP được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, với doanh số bán lẻ bắt đầu vào ngày 25 tháng 10 năm 2001.
Sự phát triển của Windows XP bắt đầu vào cuối những năm 1990 với tên gọi "Neptune", một hệ điều hành (OS) được xây dựng trên nhân Windows NT và được thiết kế đặc biệt cho người tiêu dùng phổ thông. Phiên bản cập nhật của Windows 2000 cũng được lên kế hoạch ban đầu cho thị trường doanh nghiệp; tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2000, cả hai dự án đều bị hủy bỏ để chuyển sang một hệ điều hành duy nhất có tên mã là "Whistler" sẽ phục vụ như một nền tảng hệ điều hành cho cả thị trường tiêu dùng và doanh nghiệp. Do đó, Windows XP là phiên bản dành cho người tiêu dùng đầu tiên của Windows không dựa trên nhân Windows 95 và MS-DOS.
Sau khi phát hành, Windows XP đã nhận được những phản hồi tích cực vì hiệu suất và độ ổn định (đặc biệt là so với Windows Me), giao diện người dùng trực quan hơn, cải thiện hỗ trợ phần cứng và mở rộng khả năng đa phương tiện. Tuy nhiên, một số nhà đánh giá đã lo ngại về mô hình cấp phép mới và hệ thống kích hoạt sản phẩm. Windows XP và Windows Server 2003 được kế nhiệm bởi Windows Vista và Windows Server 2008 được phát hành lần lượt vào tháng 1 năm 2007 và tháng 2 năm 2008.
Hỗ trợ chính cho Windows XP kết thúc vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014. Vào thời điểm này, hệ điều hành không còn nhận được các bản cập nhật bảo mật hoặc hỗ trợ. Windows Embedded POSReady 2009, dựa trên Windows XP Professional đã nhận được các bản cập nhật bảo mật cho đến tháng 4 năm 2019. Các phương pháp không chính thức đã được cung cấp để áp dụng trên bản cập nhật cho các phiên bản Windows XP khác. Microsoft không khuyến khích điều này vì các vấn đề không tương thích.
, có 0,58% PC chạy Windows XP (trên toàn thế giới, tỉ lệ này là 1%), và có 0,18% các thiết bị trên tất cả các nền tảng chạy Windows XP. Mặc dù vậy, Windows XP vẫn rất phổ biến ở nhiều quốc gia, chẳng hạn như Armenia có hơn 50% máy tính sử dụng Windows XP.
Phát triển
Vào cuối những năm 1990, sự phát triển ban đầu của Windows XP ban đầu được tập trung vào hai sản phẩm riêng lẻ: "Odyssey" sẽ kế nhiệm Windows 2000; và "Neptune", hệ điều hành hướng đến người tiêu dùng sử dụng kiến trúc Windows NT, phiên bản sau của Windows 98 dựa trên MS-DOS.
Cuối cùng, các dự án đã lâm vào bế tắc phát triển. Ngay trước khi phát hành chính thức Windows 2000, nhà văn công nghệ Paul Thurrott cho rằng Microsoft đã bỏ qua cả Neptune và Odyssey để ủng hộ một sản phẩm mới có tên mã "Whistler" được đặt theo tên của Whistler, British Columbia, nơi nhiều nhân viên của Microsoft trượt tuyết tại khu nghỉ mát Whistler-Blackcomb. Mục tiêu của tên mã Whistler là hợp nhất cả dòng Windows dành cho người tiêu dùng và doanh nghiệp dưới một nền tảng duy nhất là Windows NT. Và vì Neptune và Odyssey là cùng một cơ sở mã, nên việc kết hợp chúng thành một dự án duy nhất là rất hợp lý ".
Tại hội nghị PDC vào ngày 13 tháng 7 năm 2000, Microsoft thông báo sản phẩm Whistler sẽ được phát hành trong nửa cuối năm 2001, đồng thời tiết lộ bản dựng xem trước 2250, trong đó có việc triển khai hệ thống kiểu trực quan của Windows XP và các thay đổi giao diện cho Windows Explorer và Control Panel.
Microsoft đã phát hành phiên bản thử nghiệm 2296 ngày 31 tháng 10 năm 2000. Các bản dựng tiếp theo giới thiệu các tính năng mới cho người dùng Windows XP, chẳng hạn như Internet Explorer 6.0, Trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft và ảnh nền Bliss.
Sản phẩm Whistler chính thức được công bố trong một sự kiện truyền thông vào ngày 5 tháng 2 năm 2001 dưới tên Windows XP, trong đó XP là viết tắt của "eXPerience".
Phát hành
Vào tháng 6 năm 2001, Microsoft có kế hoạch cùng với hãng Intel và các nhà sản xuất PC khác, chi ít nhất 1 tỷ đô la Mỹ cho việc tiếp thị và quảng bá Windows XP. Khẩu hiệu "Yes You Can", được thiết kế để nhấn mạnh khả năng tổng thể của nền tảng. Microsoft ban đầu dự định sử dụng khẩu hiệu "Prepare to Fly", nhưng đã bị thay thế vì các vấn đề nhạy cảm sau Sự kiện 11 tháng 9.
Vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, Windows XP build 2600 đã được phát hành cho các nhà sản xuất (RTM). Trong một sự kiện truyền thông tại Microsoft Redmond Campus, các bản sao của bản RTM đã được trao cho đại diện của một số nhà sản xuất PC lớn trong những chiếc cặp, sau đó họ sẽ lên những chiếc trực thăng được trang trí. Các nhà sản xuất PC có thể phát hành các thiết bị chạy hệ điều hành này bắt đầu từ ngày 24 tháng 9 năm 2001, thì XP dự kiến sẽ có mặt trên thị trường bán lẻ nói chung vào ngày 25 tháng 10 năm 2001. Cùng ngày, Microsoft cũng công bố giá bán lẻ cuối cùng của hai phiên bản chính của XP là "Home" (thay thế cho Windows Me cho người dùng gia đình) và "Professional" (thay thế cho Windows 2000 cho người dùng khác).
Tính năng mới và cập nhật
Giao diện người dùng
Mặc dù vẫn có một số điểm tương đồng với các phiên bản trước, nhưng giao diện của Windows XP đã được đại tu với giao diện trực quan mới, với việc tăng cường sử dụng các hiệu ứng tổng hợp alpha, đổ bóng và kiểu trực quan. Điều này đã thay đổi hoàn toàn diện mạo của hệ điều hành. Số lượng hiệu ứng do hệ điều hành xác định dựa trên khả năng xử lý của máy tính và có thể được bật hoặc tắt tùy theo từng trường hợp. XP cũng bổ sung ClearType, một hệ thống kết xuất subpixel mới được thiết kế để cải thiện các phông chữ trên màn hình tinh thể lỏng. Một bộ biểu tượng hệ thống mới cũng được giới thiệu. Hình nền mặc định Bliss, là ảnh chụp phong cảnh ở thung lũng Napa, California, với những ngọn đồi xanh và bầu trời xanh với tầng mây và mây ti.
Start menu đã được đại tu lần đầu tiên trong XP, chuyển sang bố cục hai cột với khả năng liệt kê, ghim và hiển thị các ứng dụng thường dùng, các tài liệu được mở gần đây và menu "All Programs" xếp tầng truyền thống. Thanh tác vụ hiện có thể nhóm các cửa sổ được mở thành một nút trên thanh tác vụ, với menu bật lên liệt kê các cửa sổ riêng lẻ. Khu vực thông báo cũng ẩn các biểu tượng "không hoạt động" thường xuyên theo mặc định. Danh sách "common tasks" đã được thêm và thanh bên của Windows Explorer đã sử dụng thiết kế dựa trên tác vụ mới với danh sách các hành động phổ biến; các tác vụ được hiển thị có liên quan theo ngữ cảnh với loại nội dung trong thư mục (ví dụ: thư mục có màn hình nhạc để phát tất cả các tệp trong thư mục hoặc ghi vào đĩa CD).Tính năng chuyển đổi người dùng cho phép người dùng khác đăng nhập vào Windows XP nhanh chóng mà không cần người dùng hiện tại phải đóng chương trình của họ và đăng xuất. Mặc dù chỉ một người dùng tại thời điểm này có thể sử dụng bảng điều khiển (tức là màn hình, bàn phím và chuột), thì những người dùng trước có thể tiếp tục phiên của họ sau khi họ quay lại bảng điều khiển.
Hệ thống
Windows XP sử dụng tính năng tìm nạp trước để cải thiện thời gian khởi động và khởi chạy ứng dụng. Nếu trình điều khiển được cập nhật làm kết quả không như mong muốn thì có thể hoàn nguyên cài đặt trình điều khiển thiết bị được cập nhật.
Hệ thống bảo vệ bản quyền hay còn được gọi là trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft đã được giới thiệu cùng với Windows XP và phiên bản máy chủ Windows Server 2003. Tất cả các giấy phép Windows phải được đi kèm với một ID duy nhất bằng cách sử dụng thông tin từ phần cứng máy tính, được kích hoạt qua internet hoặc đường dây nóng qua điện thoại. Nếu Windows không được kích hoạt trong vòng 30 ngày kể từ ngày cài đặt, hệ điều hành sẽ ngừng hoạt động cho đến khi được kích hoạt. Windows cũng xác minh định kỳ phần cứng để kiểm tra các thay đổi. Nếu hệ điều hành phát hiện thấy các thay đổi phần cứng đáng kể, quá trình kích hoạt sản phẩm sẽ bị vô hiệu và Windows sẽ buộc phải kích hoạt lại.
Kết nối mạng và chức năng internet
Windows XP ban đầu được bao gồm Internet Explorer 6, Outlook Express 6, Windows Messenger và MSN Explorer. Các tính năng mạng mới bao gồm Internet Connection Firewall, Internet Connection Sharing với UPnP, API truyền tải NAT, tính năng Quality of Service, IPv6 và Teredo, Background Intelligent Transfer Service, tính năng fax mở rộng, bắc cầu mạng, mạng ngang hàng, hỗ trợ cho hầu hết các modem DSL, kết nối IEEE 802.11 (Wi-Fi) với cấu hình tự động và chuyển vùng, TAPI 3.1, kết nối mạng qua FireWire. Tính năng mới Remote Assistance và Desktop Services cho phép người dùng kết nối với máy tính chạy Windows XP thông qua Internet, truy cập các ứng dụng, tệp, máy in và thiết bị hoặc yêu cầu trợ giúp. Các tính năng của IntelliMirror như Offline Files, Roaming user profiles and Folder redirection cũng được cải tiến.
Tương thích ngược
Để bật phần mềm đang chạy nhắm mục tiêu hoặc khóa các phiên bản Windows cụ thể, "Chế độ tương thích" đã được thêm vào. Tính năng này cho phép giả mạo phiên bản Windows trước đó đã chọn sang phần mềm, bắt đầu từ Windows 95.
Mặc dù khả năng này lần đầu tiên được giới thiệu trong Windows 2000 Service Pack 2, nó phải được kích hoạt thông qua "đăng ký máy chủ" và chỉ có sẵn cho người dùng quản trị viên, trong khi Windows XP đã kích hoạt nó cho mọi người dùng thông thường.
Các tính năng khác
Cải thiện khả năng tương thích của ứng dụng so với Windows 2000.
DirectX 8.1, có thể nâng cấp lên DirectX 9.0c.
Một số tính năng mới trong Windows Explorer bao gồm các ngăn tác vụ, hình thu nhỏ và tùy chọn xem ảnh dưới dạng trình chiếu.
Cải thiện các tính năng hình ảnh như Windows Picture và Fax Viewer.
Thời gian khởi động nhanh hơn, (do các chức năng tìm nạp trước được cải tiến) đăng nhập, đăng xuất, ngủ đông và khởi chạy ứng dụng.
Nhiều cải tiến để tăng độ tin cậy của hệ thống như System Restore, Automated System Recovery, và cải tiến độ tin cậy của trình điều khiển thông qua Device Driver Rollback.
Cải tiến hỗ trợ phần cứng như FireWire 800, và hỗ trợ đa màn hình dưới tên "DualView".
Chuyển đổi người dùng nhanh chóng.
Cơ chế kết xuất phông chữ ClearType, được thiết kế để cải thiện khả năng đọc văn bản trên màn hình tinh thể lỏng (LCD) và các màn hình tương tự, đặc biệt là máy tính xách tay.
Công nghệ tổ hợp song song và COM không cần đăng ký.
Các cải tiến chung đối với hỗ trợ như nhiều loại ngôn ngữ và tập lệnh hơn, hỗ trợ MUI trong Terminal Services, cải tiến trình chỉnh sửa phương thức nhập và hỗ trợ ngôn ngữ quốc gia.
Tính năng bị loại bỏ
Một số chương trình và tính năng là một phần của các phiên bản trước của Windows không được đưa vào Windows XP. Các lệnh MS-DOS khác nhau có sẵn trong Windows 9x đã bị loại bỏ, cũng như hệ thống con POSIX và OS/2.
Đối với mạng, NetBEUI, NWLink và NetDDE không còn được thiết lập theo mặc định. Các thiết bị mạng không tương thích (như modem và card mạng) không còn được hỗ trợ.
Gói dịch vụ 2 và Gói dịch vụ 3 cũng đã loại bỏ các tính năng khỏi Windows XP, nhưng ở mức độ ít hơn. Ví dụ: hỗ trợ cho các kết nối TCP bị loại bỏ khỏi Service Pack 2, và thanh địa chỉ trên thanh tác vụ bị loại bỏ trên Service Pack 3.
Thị trường
Các phiên bản dành cho các thị trường nhất định
Windows XP Starter Edition là một phiên bản giá thấp của Windows XP dành cho các thị trường Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Indonesia, Nga, Ấn Độ, Colombia, Brasil, Argentina, Peru, Bolivia, Chile, México, Ecuador, Uruguay và Venezuela. Nó tương tự như Windows XP Home, nhưng giới hạn cho những phần cứng cấp thấp, chỉ có thể chạy 3 chương trình một lúc, và có một số tính năng khác được mặc định tắt hoặc gỡ bỏ. Các phiên bản của mỗi quốc gia cũng được đình chỉnh dành riêng cho quốc gia đó, trong đó có hình nền là địa điểm nổi tiếng tại quốc gia đó, các tính năng trợ giúp được bản địa hóa để giúp đỡ những người không biết tiếng Anh, và các thiết lập mặc định khác giúp dễ dùng hơn so với khi cài đặt Windows XP thông thường. Ví dụ như phiên bản Malaysia có hình nền là khung cảnh của Kuala Lumpur.
Vào tháng 3 năm 2004, Ủy ban châu Âu đã phạt Microsoft 497 triệu euro và ra lệnh cho công ty này phải cung cấp một phiên bản Windows không có Windows Media Player. Ủy ban kết luận rằng Microsoft "đã vi phạm luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu bằng cách đẩy sự độc quyền trong thị trường hệ điều hành dành cho máy tính để bàn sang thị trường dành cho hệ điều hành máy chủ phục vụ nhóm làm việc và trình chơi nhạc". Sau khi kháng án không thành vào năm 2004 và 2005, Microsoft đã có thỏa thuận với Ủy ban sẽ phát hành một phiên bản thể theo bàn án của tòa, Windows XP Edition N. Phiên bản này không có Windows Media Player, thay vào đó, nó khuyến khích người dùng tự chọn và tải về trình chơi nhạc của riêng họ. Microsoft muốn đặt tiên cho phiên bản này là Reduced Media Edition, nhưng tổ chức thi hành của EU đã phản đối và đề nghị tên Edition N, với chỉ N có nghĩa là "not with Media Player" (không có Media Player) cho cả phiên bản Home và Professional của Windows XP. Vì nó được bán ngang giá với phiên bản có Windows Media Player, Dell, Hewlett-Packard, Lenovo và Fujitsu Siemens đã không dùng nó trong sản phẩm. Tuy nhiên, Dell có đưa ra hệ điều hành này một thời gian ngắn. Tỷ lệ người dùng hệ điều hành này thấp, với chỉ 1.500 đơn vị được bán cho OEM, và không thấy có báo cáo về số lượng bán cho người tiêu dùng.
Vào tháng 12 năm 2005, Ủy ban Thương mại Công bằng Hàn Quốc đã yêu cầu Microsoft bán các phiên bản Windows XP và Windows Server 2003 không có Windows Media Player hoặc Windows Messenger.
Cũng cùng năm đó, Microsoft cũng phát hành hai phiên bản Windows XP Home Edition nhắm tới mô hình ra giá dựa trên thuê bao và trả tiền khi xài. Các phiên bản này, được phát hành như một phần của sáng kiến FlexGo của Microsoft, được dùng kèm với một thành phần phần cứng để hạn chế thời gian sử dụng Windows. Thị trường mục tiêu là những nền kinh tế đang nổi như Brasil hay Việt Nam.
Ngôn ngữ
Windows XP có nhiều phiên bản ngôn ngữ. Ngoài ra, gói MUI và Language Interface Pack dùng để dịch giao diện người dùng cũng có ở một số ngôn ngữ hoặc người dùng có thể tải về hoặc dùng bộ gõ UniKey..
Giao diện người dùng
Windows XP phân tích tác động của các hiệu ứng hình ảnh lên hiệu năng và dùng nó để xác định có nên kích hoạt chúng không, do đó ngăn ngừa các tính năng mới ngốn quá nhiều tài nguyên xử lý. Người dùng cũng có thể điều chỉnh các thiết lập này. Một số hiệu ứng, như trộn alpha (trong suốt rồi giảm dần), được xử lý hoàn toàn bởi các loại card đồ họa mới. Tuy nhiên, nếu card đồ họa không có khả năng trộn alpha, hiệu năng có thể bị ảnh hưởng đáng kể, và Microsoft khuyến cáo nên tắt tính năng này bằng tay. Windows XP thêm các khả năng để Windows có thể sử dụng "Kiểu Thị giác" để thay đổi giao diện người dùng. Tuy nhiên, các kiểu thị giác phải được Microsoft ký tên mã hóa thì mới chạy được. Luna là tên của kiểu thị giác mới đi kèm với Windows XP, và được kích hoạt mặc định đối với các máy có bộ nhớ RAM video hơn 64 MiB. Luna dùng để chỉ một kiểu thị giác cụ thể, chứ không phải tất cả các tính năng giao diện mới của Windows XP. Một số người dùng "vá" tập tin uxtheme.dll hạn chế khả năng sử dụng kiểu thị giác trên Windows XP.
Ngoài các chủ đề đi kèm với Windows XP, có một chủ đề trước đó không được phát hành với thanh tác vụ màu xanh đen và thanh cửa sổ tương tự với Windows Vista có tên "Royale Noir" có sẵn để tải về, mặc dù nó không chính thức. Microsoft đã chính thức phát hành một phiên bản chỉnh sửa của chủ đề này với tên chủ đề "Zune", để chào mừng sự ra mắt máy chơi nhạc bỏ túi Zune vào tháng 11 năm 2006. Sự khác nhau duy nhất là cảm giác bóng như gương kèm với một thanh tác vụ màu đen thay vì màu xanh đen và nút Start màu cam thay vì màu xanh lá cây. Ngoài ra, chủ đề "Royale" của Media Center, được kèm trong các phiên bản Media Center, cũng có sẵn để tải về và có thể dùng trên mọi phiên bản Windows XP.
Hình nền mặc định, Bliss, là ảnh phong cảnh ở Thung lũng Napa bên ngoài Napa, California theo định dạng BMP, có những ngọn đồi và bầu trời xanh với các đám mây tầng tích và mây ti.
Các gói dịch vụ
Microsoft thỉnh thoảng phát hành các service pack dành cho hệ điều hành Windows cũng hãng để sửa các lỗi và thêm vào tính năng mới. Mỗi service pack là một gói lớn gồm tất cả các service pack trước đó cùng với những bản vá, do đó chỉ cần cài đặt những service pack mới nhất. Bạn cũng không cần phải gỡ bỏ các service pack cũ hơn trước khi cài một bản service pack mới.
Gói dịch vụ 1
Gói dịch vụ 1 (SP1) dành cho Windows XP được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Nó có các bản sửa lỗi bảo mật hậu-RTM và bản sửa lỗi khẩn cấp, các cập nhật tương thích, hỗ trợ tùy chọn .NET Framework, kích hoạt các công nghệ dành cho thiết bị mới như máy tính bảng, và một phiên bản Windows Messenger 4.7 mới. Tính năng mới đáng chú ý nhất là hỗ trợ USB 2.0 và tiện ích Set Program Access and Defaults nhắm đến những sản phẩm ẩn nằm ở giữa. Người dùng có thể điều khiển ứng dụng mặc định sẽ sử dụng cho các hoạt động như lướt web và tin nhắn nhanh, cũng như ẩn truy cập đến một số chương trình đóng gói của Microsoft. Tiện ích này lần đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành Windows 2000 Service Pack 3. Bản Service Pack này mặc định hỗ trợ SATA và ổ cứng có dung lượng hơn 137GB (hỗ trợ LBA). Máy ảo Java của Microsoft, không có trong phiên bản RTM, đã xuất hiện trong bản Service Pack này.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2003, Microsoft phát hành Service Pack 1a (SP1a). Lần phát hành này đã bỏ đi máy ảo Java của Microsoft do kết quả vụ kiện với Sun Microsystems.
Gói dịch vụ 2
Gói dịch vụ (SP2) (tên mã "Springboard") được phát hành vào ngày 25 tháng 8 năm 2004 sau một vài lần trì hoãn, tập trung vào tính bảo mật.
Service Pack 2 cũng thêm các cải tiến bảo mật mới, bao gồm chỉnh sửa lớn đối với trình tường lửa đi kèm được đổi tên thành Windows Firewall và đã được kích hoạt mặc định, Data Execution Prevention, hỗ trợ phần cứng tốt hơn trong NX bit có thể ngăn được một số dạng tấn công tràn bộ đệm. Ngoài ra, hỗ trợ socket thô cũng bị loại bỏ (để hạn chế thiệt hại do máy tính ma tạo ra). Hơn thế, bản service pack này đã cải tiến một số tính năng bảo mật cho email và duyệt web. Windows XP Service Pack 2 đưa vào Windows Security Center, hiển thị tổng quan tình trạng bảo mật của hệ thống, trong đó có tình trạng của phần mềm diệt virus, Windows Update, và Windows Firewall mới. Các ứng dụng diệt virus và tường lửa của bên thứ ba có thể giao tiếp với Security Center mới này.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, Microsoft thông báo một cập nhật nhỏ cho Service Pack 2, có tên Service Pack 2c (SP2c). Bản cập nhật này sửa vấn đề có quá ít khóa sản phẩm cho Windows XP. Bản cập nhật này chỉ dành cho các nhà xây dựng hệ thống từ nhà phân phối của họ cho Windows XP Professional và Windows XP Professional N. SP2c phát hành vào tháng 9 năm 2007.
Gói dịch vụ 3
Windows XP Gói dịch vụ 3 (SP3) được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 21 tháng 4 năm 2008 và cho công chúng thông qua Microsoft Download Center và Windows Update vào ngày 6 tháng 5 năm 2008.
Bộ service pack này bắt đầu tự động yêu cầu người dùng cập nhật thông qua Automatic Update vào ngày 10 tháng 7 năm 2008. Microsoft đã đăng một bản tổng quan về các tính năng trong đó liệt kê chi tiết các tính năng mới có thể tải độc lập như các bản cập nhật cho Windows XP, cũng như các tính năng backporting từ Windows Vista. Trong SP3, có tổng cộng 1.174 lỗi được sửa. Service Pack 3 có thể cài đặt trên hệ thống bằng Internet Explorer 6 hoặc 7, và Windows Media Player phiên bản 9 trở lên.
Internet Explorer 7 không đi kèm trong SP3.
Các tính năng mới trong Gói dịch vụ 3
Tự động bật chức năng dò lỗ đen
Ủy nhiệm thư Security Service Provider
Bản Microsoft Kernel Mode Cryptographic Module được cập nhật, được chứng nhận FIPS 140-2 (giải thuật SHA-256, SHA-384 và SHA-512)
Các bản cập nhật đã phát hành trước đó
Service Pack 3 cũng đưa vào một số bản cập nhật quan trọng trước đó dành cho Windows XP, nhưng đã không kèm trong SP2, bao gồm:
Windows Imaging Component
Cập nhật IPSec Simple Policy để đơn giản hóa việc khởi tạo và bảo trì các bộ lọc IPSec
Mặc dù đến nay các bản service pack đều mang tính tích lũy, khi cài đặt SP3 trên hệ điều hành Windows XP có sẵn vẫn yêu cầu máy tính ít nhất đã phải cài đặt Service Pack 1.
Service Pack 3 có các bản cập nhật cho các thành phần hệ điều hành của phiên bản Windows XP Media Center Edition (MCE) và Windows XP Tablet PC Edition, và cập nhật bảo mật cho.NET Framework phiên bản 1.0, được kèm trong những SKU của Windows XP này. Tuy nhiên, nó không kèm theo các cập nhật cho ứng dụng Windows Media Center trong Windows XP MCE 2005, SP3 cũng bỏ đi các cập nhật bảo mật cho Windows Media Player 10, mặc dù trình duyệt này được kèm trong Windows XP MCE 2005. Address Bar DeskBand trên Thanh tác vụ không còn kèm trong SP3 do hạn chế về pháp lý.
Yêu cầu hệ thống
Ghi chú
Giới hạn dung lượng RAM
Dung lượng RAM tối đa mà Windows XP có thể hỗ trợ khác nhau tùy thuộc vào phiên bản sản phẩm và kiến trúc bộ xử lý. Hầu hết các phiên bản 32-bit của XP đều hỗ trợ tối đa 4GB, ngoại trừ Windows XP Starter, bị giới hạn ở 512MB. Phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 128 GB.
Giới hạn bộ xử lý
Windows XP Professional hỗ trợ tối đa hai bộ xử lý; và Windows XP Home Edition chỉ hỗ trợ một bộ xử lý.
Tuy nhiên, XP hỗ trợ nhiều bộ xử lý logic hơn: các phiên bản 32-bit hỗ trợ tối đa 32 bộ xử lý logic, trong khi phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 64 bộ xử lý logic.
Khả năng nâng cấp
Một số thành phần Windows XP có thể được nâng cấp lên các phiên bản mới nhất, bao gồm các phiên bản mới được giới thiệu trong các phiên bản Windows mới hơn và các ứng dụng chính khác của Microsoft có sẵn. Các phiên bản mới nhất này dành cho Windows XP bao gồm:
ActiveSync 4.5
DirectX 9.0c (Ngày 5 tháng 2 năm 2010 Có thể phân phối lại)
Internet Explorer 8 trên Windows XP Gói Dịch vụ 2 và 3 (Internet Explorer 6 SP1 và Outlook Express 6 SP1 trên Windows XP trước SP2.)
Windows Media Format Runtime và Windows Media Player 11 trên Windows XP Gói Dịch vụ 2 và 3 (và Windows Media Player 10 trên bản phát hành gốc Windows XP.)
Microsoft Virtual PC 2004 và 2007
.NET Framework lên đến và bao gồm phiên bản 4.0 (4.5 và các phiên bản cao hơn không được hỗ trợ.)
Visual Studio 2005 trên các phiên bản Windows XP dưới SP2, Visual Studio 2008 trên Windows XP SP2 và Visual Studio 2010 trên Windows XP SP3
Windows Script Host 5.7
Windows Installer 4.5
Office 2010 là phiên bản cuối cùng của Microsoft Office tương thích với Windows XP.
Microsoft NetMeeting 3.02
Vòng đời hỗ trợ
Hỗ trợ cho bản phát hành ban đầu của Windows XP (không có gói dịch vụ) đã kết thúc vào ngày 30 tháng 8 năm 2005. Cả Windows XP gói dịch vụ 1 và 1a đã ngừng hỗ trợ vào ngày 10 tháng 10 năm 2006, và cả Windows 2000 và Windows XP SP2 đều ngừng hỗ trợ vào ngày 13 tháng 7 năm 2010, khoảng 24 tháng sau khi Windows XP gói dịch vụ 3 dược ra mắt. Công ty đã ngừng cấp phép chung Windows XP cho các OEM và chấm dứt việc bán lẻ hệ điều hành này vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, 17 tháng sau khi phát hành Windows Vista. Tuy nhiên, một ngoại lệ đã được công bố vào ngày 3 tháng 4 năm 2008, đối với các OEM sản xuất thứ mà họ định nghĩa là "máy tính cá nhân chi phí cực thấp", đặc biệt là netbook, cho đến một năm sau khi Windows 7 ra mắt vào ngày 22 tháng 10 năm 2009. Các nhà phân tích cho rằng động thái này chủ yếu nhằm cạnh tranh với các netbook chạy hệ điều hành Linux, mặc dù Kevin Hutz tuyên bố rằng quyết định này là do nhu cầu thị trường rõ ràng đối với máy tính đời thấp chạy Windows.
Các biến thể của Windows XP dành cho hệ thống nhúng có các chính sách hỗ trợ khác nhau: Windows XP Embedded SP3 và Windows Embedded for Point of Service SP3 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2016. Windows Embedded Standard 2009, được kế nhiệm bởi Windows Embedded Standard 7 và Windows Embedded POSReady 2009, và kế nhiệm của Windows Embedded POSReady 7 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2019. Các bản cập nhật dành cho các phiên bản nhúng cũng có thể được tải xuống trên phiên bản Windows XP tiêu chuẩn sử dụng bản hack Registry, cho phép các bản vá không chính thức cho đến tháng 4 năm 2019. Tuy nhiên, Microsoft đã khuyến cáo người dùng Windows XP không nên cài đặt các bản sửa lỗi này, với lý do các vấn đề không tương thích.
Kết thúc hỗ trợ
Vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, Windows XP đã ngừng hỗ trợ chính và bước vào giai đoạn hỗ trợ mở rộng; Microsoft tiếp tục cung cấp các bản cập nhật bảo mật hàng tháng cho Windows XP, tuy nhiên, hỗ trợ kỹ thuật miễn phí, yêu cầu bảo hành và thay đổi thiết kế đã không còn được cung cấp nữa. Hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, hơn 12 năm sau khi phát hành Windows XP; mặc dù thông thường các sản phẩm của Microsoft có vòng đời hỗ trợ chỉ 10 năm. Ngoài các bản cập nhật bảo mật cuối cùng được phát hành vào ngày 8 tháng 4, không có thêm bản vá bảo mật hoặc thông tin hỗ trợ nào được cung cấp miễn phí cho XP; nhưng "các bản vá quan trọng" sẽ vẫn có sẵn và chỉ cung cấp cho những khách hàng đăng ký gói "Custom Support" trả phí. Vì là một thành phần của Windows nên tất cả các phiên bản của Internet Explorer dành cho Windows XP cũng không được hỗ trợ.
Vào tháng 1 năm 2014, người ta ước tính rằng hơn 95% trong số 3 triệu máy rút tiền tự động trên thế giới vẫn đang chạy Windows XP (phần lớn thay thế OS/2 của IBM làm hệ điều hành chủ yếu trên các máy ATM); máy ATM có vòng đời trung bình từ 7 đến 10 năm, nhưng một số máy đã có vòng đời dài tới 15 năm. Một số nhà cung cấp ATM và khách hàng đã có kế hoạch chuyển sang các hệ thống dựa trên Windows 7 trong suốt năm 2014, trong khi các nhà cung cấp cũng đã xem xét khả năng sử dụng các nền tảng dựa trên Linux trong tương lai để mang lại cho họ sự linh hoạt hơn trong các vòng đời hỗ trợ, và Hiệp hội Công nghiệp ATM (ATMIA) kể từ đó đã xác nhận Windows 10 là một sự thay thế tiếp theo. Tuy nhiên, các máy ATM thường chạy phiên bản nhúng của Windows XP, được hỗ trợ đến hết tháng 1 năm 2016. Tính đến tháng 5 năm 2017, khoảng 60% trong số 220.000 máy ATM ở Ấn Độ vẫn chạy Windows XP.
Hơn nữa, ít nhất 49% tổng số máy tính ở Trung Quốc vẫn chạy XP vào đầu năm 2014. Những cổ phiếu này bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố; giá của các bản sao chính hãng của các phiên bản Windows mới hơn ở nước này cao, trong khi Ni Guangnan thuộc Viện Khoa học Trung Quốc cảnh báo rằng Windows 8 có thể khiến người dùng bị chính phủ Hoa Kỳ giám sát, và chính phủ Trung Quốc sẽ cấm mua các sản phẩm Windows 8 cho mục đích sử dụng của chính phủ vào tháng 5 năm 2014 để phản đối việc Microsoft không thể cung cấp hỗ trợ "được đảm bảo". Chính phủ cũng lo ngại rằng việc hỗ trợ sắp kết thúc có thể ảnh hưởng đến các sáng kiến chống vi phạm bản quyền của họ với Microsoft, vì người dùng chỉ đơn giản là vi phạm bản quyền các phiên bản mới hơn thay vì mua chúng một cách hợp pháp. Do đó, các quan chức chính phủ đã chính thức yêu cầu Microsoft gia hạn thời gian hỗ trợ cho XP vì những lý do này. Trong khi Microsoft không tuân theo yêu cầu của họ, thì một số nhà phát triển phần mềm lớn của Trung Quốc, chẳng hạn như Lenovo, Kingsoft và Tencent, sẽ cung cấp hỗ trợ và tài nguyên miễn phí cho người dùng Trung Quốc chuyển từ XP. Một số chính phủ, đặc biệt là của Hà Lan và Vương quốc Anh, đã chọn đàm phán kế hoạch "Custom Support" với Microsoft để họ tiếp tục sử dụng Windows XP nội bộ; thỏa thuận của chính phủ Anh kéo dài một năm và cũng bao gồm hỗ trợ cho Office 2003 (ngừng hỗ trợ cùng ngày) và có giá £5,5 triệu.
Vào ngày 8 tháng 3 năm 2014, Microsoft đã triển khai bản cập nhật cho XP, vào ngày 8 hàng tháng sẽ hiển thị thông báo bật lên để nhắc nhở người dùng về việc kết thúc hỗ trợ; tuy nhiên, những thông báo này có thể bị vô hiệu hóa bởi người dùng. Microsoft cũng hợp tác với Laplink để cung cấp một phiên bản "tốc hành" đặc biệt của phần mềm PCmover nhằm giúp người dùng di chuyển các tệp và cài đặt từ XP sang máy tính có phiên bản Windows mới hơn.
Mặc dù hỗ trợ sắp kết thúc, vẫn có những phần mềm đáng chú ý đã không di chuyển trong quá khứ XP; và nhiều người dùng đã chọn tiếp tục sử dụng XP vì Windows Vista kém tiếp nhận, doanh số bán máy tính mới hơn với phiên bản Windows mới hơn đã giảm do cuộc đại suy thoái và ảnh hưởng của Vista, đồng thời việc triển khai các phiên bản Windows mới trong môi trường doanh nghiệp đòi hỏi một lượng lớn số lượng lập kế hoạch, bao gồm việc thử nghiệm các ứng dụng về khả năng tương thích (đặc biệt là những ứng dụng phụ thuộc vào Internet Explorer 6, không tương thích với các phiên bản Windows mới hơn). Các nhà cung cấp phần mềm bảo mật lớn (bao gồm cả chính Microsoft) đã lên kế hoạch tiếp tục cung cấp hỗ trợ và định nghĩa cho Windows XP sau khi hết hỗ trợ ở các phạm vi khác nhau, cùng với các nhà phát triển trình duyệt web Google Chrome, Mozilla Firefox và Opera; bất chấp những biện pháp này, các nhà phê bình cũng cho rằng người dùng nên chuyển từ XP sang một nền tảng được hỗ trợ. Nhóm Sẵn sàng Khẩn cấp Máy tính của Hoa Kỳ đã đưa ra một cảnh báo vào tháng 3 năm 2014 khuyến cáo người dùng về việc sắp hết hỗ trợ và thông báo cho họ rằng việc sử dụng XP sau ngày 8 tháng 4 có thể khiến họ không đáp ứng được các yêu cầu bảo mật thông tin của chính phủ Hoa Kỳ. Microsoft tiếp tục cung cấp phần mềm diệt virus Security Essentials và bản cập nhật Malicious Software Removal Tool (MSRT) cho XP đến ngày 14 tháng 7 năm 2015. Khi kết thúc hỗ trợ mở rộng đến gần, Microsoft bắt đầu ngày càng thúc giục khách hàng XP chuyển sang các phiên bản mới hơn như Windows 7 hoặc 8 vì lợi ích bảo mật, cho thấy rằng những kẻ tấn công có thể thiết kế ngược các bản vá bảo mật cho các phiên bản Windows mới hơn và lợi dụng chúng để nhắm mục tiêu các lỗ hổng trong XP. Windows XP có thể bị khai thác từ xa bởi nhiều lỗ hổng bảo mật đã được phát hiện sau khi Microsoft ngừng hỗ trợ.
Tương tự, các thiết bị chuyên dụng chạy XP, đặc biệt là thiết bị y tế, phải có bất kỳ bản sửa đổi nào đối với phần mềm của chúng — thậm chí là các bản cập nhật bảo mật cho hệ điều hành cơ bản — được các cơ quan quản lý có liên quan phê duyệt trước khi chúng có thể được phát hành. Vì lý do này, các nhà sản xuất thường không cho phép bất kỳ bản cập nhật nào đối với hệ điều hành của thiết bị, khiến chúng bị khai thác bảo mật và phần mềm độc hại.
Mặc dù đã ngừng hỗ trợ cho Windows XP, Microsoft vẫn phát hành ba bản cập nhật bảo mật khẩn cấp cho hệ điều hành này để vá các lỗ hổng bảo mật lớn:
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2014 để giải quyết các lỗ hổng được phát hiện gần đây trong Internet Explorer 6 đến 11 trên tất cả các phiên bản Windows.
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2017 để giải quyết lỗ hổng bảo mật đang bị tấn công bởi mẫ độc tống tiền WannaCry.
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2019 để giải quyết lỗ hổng thực thi mã nghiêm trọng trong Remote Desktop Services có thể bị khai thác theo cách tương tự như lỗ hổng WannaCry.
Dư luận
Hiệu năng của giao diện người dùng
Theo những lời bình luận từ báo chí cho rằng giao diện người dùng mặc định của Windows XP (Luna) đã tăng thêm sự hỗn loạn về hình ảnh và hao phí không gian màn hình trong khi không đưa ra chức năng nào mới và khiến cho hiệu năng của máy đã giảm dần. Một số người dùng than phiền như vậy có thể chuyển lại về chủ đề Windows Classic.
Ưu điểm chính hãng của Windows
Trong nỗ lực nhằm kiềm chế vi phạm bản quyền dựa trên các khóa cấp phép theo gói bị rò rỉ hoặc tạo ra trên mạng, Microsoft đã cho mắt Windows Genuine Advantage (WGA). WGA bao gồm hai phần, một công cụ xác minh phải dùng khi tải một số thứ từ Microsoft và một hệ thống thông báo người dùng. WGA dành cho Windows được tiếp nối bằng các hệ thống xác minh dành cho Internet Explorer 7, Windows Media Player 11, Windows Defender, và Microsoft Office 2007. Gần đây Microsoft đã gỡ bỏ xác minh WGA ra khỏi bản cài đặt Internet Explorer 7 nói rằng mục đích của sự thay đổi này là để đưa IE7 đến với mọi người dùng Windows.
Nếu khóa giấy phép bị đánh giá là không thật, nó sẽ hiển thị một màn hình mè nheo thường xuyên yêu cầu người dùng mua giấy phép từ Microsoft. Thêm vào đó, người dùng bị hạn chế khi truy cập vào Microsoft Update để tải các bản cập nhật bảo mật, và như vậy, các bản cập nhật nâng cao mới và các sản phẩm Microsoft khác sẽ không thể được tải về hoặc cài đặt nữa.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2008, Microsoft đã phát hành chương trình kích hoạt WGA mới hiển thị một màn hình nền màu đen nếu máy tính không vượt qua được cuộc xác minh. Hình nền có thể được đổi, nhưng sẽ quay về đen sau 60 phút.
Những chỉ trích phổ biến đối với WGA gồm có việc Microsoft miêu tả nó là "Bản cập nhật bảo mật tối quan trọng", khiến cho Automatic Updates mặc định tải nó về mà người dùng không tài nào can thiệp được, hành vi của nó giống như một phần mềm gián điệp liên tục "gọi về" Microsoft mỗi khi máy tính kết nối vào Internet, việc không thông báo cho người dùng cuối viết WGA đang thực sự làm cái gì sau khi được cài đặt (đã được sửa trong bản cập nhật 2006), không cung cấp một phương cách gỡ bỏ hợp lý trong suốt bản thử nghiệm beta (người dùng được cung cấp hướng dẫn gỡ bỏ bằng tay nhưng không hoạt động cho đến bản chính thức), và sự nhạy cảm của nó đối với sự thay đổi hệ thống phần cứng dẫn đến đòi tái kích hoạt liên tục đối với một số nhà phát triển.
Nói một cách thẳng thắn, việc tải về hay cài đặt Thông báo đều không phải bắt buộc; người dùng có thể thay đổi thiết lập của Automatic Updates của họ để cho phép họ chọn tải về và cài đặt bản cập nhật nào. Nếu bản cập nhật đã được tải về rồi, người dùng có thể chọn không chấp nhận EULA bổ sung đi theo Thông báo. Trong cả hai trường hợp đó, người dùng cũng có thể yêu cầu bản cập nhật không được hiển thị nữa. Các Cập nhật Bảo mật Tối quan trọng mới hơn vẫn có thể cài đặt mà không hiển thị yêu cầu WGA nữa. Tuy nhiên thiết lập này sẽ chỉ có tác dụng trên phiên bản hiện tại của Thông báo, do đó nó có thể xuất hiện lại nếu có phiên bản mới. Vào năm 2006, Microsoft đã có dính líu tới một vụ kiện ở California, về việc công ty đã vi phạm các luật chống phần mềm gián điệp của tiểu bang với chương trình Windows Genuine Advantage Notifications của nó.
'Bẻ khóa' bảo vệ
Những chương trình "tạo khóa", thường được gọi là "keygen", hiện có để tạo ngẫu nhiên các khóa sản phẩm của Windows XP (do đó, không còn các khóa thường dùng để có thể cấm) rồi sau đó kích hoạt Windows mà không cần phải liên hệ với Microsoft. Những khóa này có thể có hoặc không cho phép người dùng nhận được các bản cập nhật mặc dù Microsoft đã cho phép tải về và cài đặt các bản cập nhật bảo mật quan trọng thông qua Windows Update và trang tải về của nó, thậm chí trong các bản ăn cắp bản quyền và không thật của Windows.
Rò rỉ mã nguồn
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2020, mã nguồn của Windows XP Service Pack 1 và Windows Server 2003 đã bị rò rỉ trên 4chan bởi một người dùng không xác định. Những người dùng ẩn danh đã biên dịch mã, cũng như một người dùng Twitter đã đăng video về quy trình trên YouTube để chứng minh rằng đoạn mã là chính xác. Video sau đó đã bị Microsoft xóa vì lý do bản quyền. Bản rò rỉ này không hoàn chỉnh vì thiếu mã nguồn Winlogon và một số thành phần khác. Bản thân vụ rò rỉ ban đầu đã được lan truyền bằng cách sử dụng các liên kết magnet và các tệp torrent ban đầu bao gồm mã nguồn Server 2003 và XP, sau đó được cập nhật với các tệp bổ sung, trong số đó là những rò rỉ trước đó về các sản phẩm của Microsoft, bằng sáng chế của hãng, các phương tiện truyền thông về các thuyết âm mưu về Bill Gates bởi các phong trào chống tiêm chủng và một loạt các tệp PDF về các chủ đề khác nhau.
Microsoft đã đưa ra một tuyên bố rằng họ đang điều tra vụ rò rỉ.
Chú thích
Sách
Microsoft Windows XP Plain & Simple - J. Joyce and M. Moon, Microsoft Press, USA, 2005. ISBN 0-7356-2112-8
Liên kết ngoài
Windows XP End of Support
Security Update for Windows XP SP3 (KB4012598)
Windows XP
Phần mềm năm 2001
Windows NT
Hệ điều hành IA-32
Công nghệ lỗi thời
Sản phẩm được giới thiệu năm 2001
|
25309
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Newton%20%28%C4%91%C6%A1n%20v%E1%BB%8B%29
|
Newton (đơn vị)
|
Newton (viết tắt là N)(Đọc là Niu tơn) là đơn vị đo lực trong hệ đo lường quốc tế (SI), lấy tên của nhà bác học Isaac Newton. Nó là một đơn vị dẫn xuất trong SI nghĩa là nó được định nghĩa từ các đơn vị đo cơ bản.
Cụ thể lực bằng khối lượng nhân gia tốc (định luật 2 Newton):
Định nghĩa
1 Newton là lực gây ra cho một vật có khối lượng 1 kilôgam gia tốc 1 mét trên giây bình phương.
Về cơ bản, đây là quy ước từ khi được khởi xướng.
Các ước số-bội số của newton
Các tiền tố kết hợp với đơn vị newton
Bảng chuyển đổi giá trị giữa các ước số-bội số khác nhau
Chuyển sang các đơn vị khác
Một số ví dụ
1 N là lực gây ra bởi trọng lượng so với Trái Đất của một vật có khối lượng xấp xỉ 102 g ( kg) (tương đương một quả táo nhỏ).
Trên bề mặt Trái Đất, một khối lượng 1 kg sinh ra một lực cỡ 9.81 N (hướng xuống). Một khối lượng 1 kg tương ứng với 10 N là một khối lượng thường dùng trong đời sống hàng ngày và trong kỹ thuật.
Trọng lượng của một người có khối lượng 70 kg so với Trái Đất là xấp xỉ 687 N.
Tích vô hướng của lực và độ dài (N•m), một lực 1 N sinh ra trên độ dài 1 m là một joule hay jun (Việt Nam), là một đơn vị hệ SI của năng lượng.
Vì Newton là một lực khá nhỏ, do đó người ta cũng thường dùng một đơn vị khác để biểu diễn lực là kilonewtons hay kN, trong đó 1 kN = 1 000 N.
Trong điều kiện tiêu chuẩn, 1 tấn (1 000 kg) gây ra trọng lực là 9.8 kN (hay 1 000 kgf).
Xem thêm
Lực
Mét
Kilôgam
Đơn vị đo lực
Đơn vị dẫn xuất trong SI
Isaac Newton
|
25311
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8F%20l%E1%BB%A5c%20%C4%91%E1%BB%8Ba
|
Vỏ lục địa
|
Vỏ lục địa hay quyển sial là lớp vỏ cấu thành nên các lục địa trên Trái Đất. Bề dày trung bình của lớp vỏ này khoảng 40 km. Ranh giới giữa vỏ lục địa và manti là mặt Moho. Vỏ lục địa được nghiên cứu bằng phương pháp khảo sát, khoan và địa chấn.
Cấu tạo
Vỏ lục địa được cấu tạo bởi các lớp:
Lớp trầm tích có bề dày trung bình khoảng 3 km. Thành phần chủ yếu gồm các đá trầm tích có tuổi khác nhau từ cổ nhất đến trẻ nhất. Tốc độ truyền sóng địa chấn từ 3,5 đến 5 km/s.
Lớp granitogơnai có tốc độ truyền sóng địa chấn từ 5,5 đến 6,1 km/s.
Lớp bazan được cấu tạo chủ yếu bởi các đá biến chất tướng granulit.
Tham khảo
Kiến tạo mảng
Cấu trúc Trái Đất
|
25326
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20T%C3%A0%20C%C3%BA
|
Núi Tà Cú
|
Núi Tà Cú cao 649 m, nằm ven Quốc lộ 1, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam là một thắng cảnh và là một điểm leo núi của tỉnh Bình Thuận.
Tên gọi tà kóu bắt nguồn từ tiếng chăm cổ "tà là núi 🗻, kóu là già. Nghĩa là núi già
Du lịch
Được khởi xướng năm 1996 hội thi leo núi Tà cú được tổ chức và trở thành một hội thi của địa phương
Để lên tới đỉnh ngọn núi Nọc trù nằm trong khu rừng cấm, du khách có thể cần 2 giờ để vượt qua 2.290 m đường dốc. Bằng Lăng là đoạn dốc cao nhất, nghiêng 45°. Hoặc du khách có thể ngồi 10 phút trong cabin "bay" theo đoạn dây cáp dài 1.600 m ở độ cao 500 m, ngắm nhìn khu rừng xanh bao la.
Nằm ở độ cao 563 m (chưa tới đỉnh) là hai ngôi chùa: chùa Trên (Linh Sơn Trường Thọ) và chùa Dưới (Long Đoàn), cùng bậc thang đá cao và những ngọn tháp. Ở đây có bức tượng Phật Thích Ca nằm, làm bằng bê tông, quét vôi trắng dài 49 m, dài hơn tượng phật nằm ở chùa Wat Pho nổi tiếng của Thái Lan
Núi nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Tà kóu rộng hơn 10000 ha
Địa chất
Nhiệt độ trung bình từ 18 đến 22 °C. Xưa kia đây là một ngọn núi lửa thuộc đệ nhất nguyên đại nên trong đất có vàng sa khoáng và Lưu huỳnh
Chú thích
Xem thêm
Chùa núi Tà Cú
Núi tại Bình Thuận
Du lịch Bình Thuận
|
25334
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n%20Ng%E1%BB%8Dc%20S%C6%A1n
|
Đền Ngọc Sơn
|
Đền Ngọc Sơn (Ngọc Sơn từ 玉山祠) là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Lịch sử và Quá trình xây dựng
Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn (chữ Hán: 玉山), sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công đánh thắng quân Nguyên thế kỷ 13.
Khởi đầu, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền được dùng để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.
Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Khánh Thuỵ và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, khi họ Trịnh bị đánh đổ, cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống cho người phá hủy một phần.
Ngày nay sau nhiều năm lịch sử diện tích Hồ Hoàn Kiếm bị đô thị hoá thu nhỏ lại gấp nhiều lần. Chỉ còn lại chứng tích cũ như Phố Cầu Gỗ khi xưa là có một cây Cầu Gỗ nằm trên con Phố Cầu Gỗ ngày nay để người dân đi lại.
Cung Khánh Thuỵ sau khi bị đổ nát một phần nhân dân trong Làng Tả Khánh lại cùng nhau dựng lên thờ tự lại trên nền đất lịch sử đó và có tên mới là Đền Khánh Thuỵ cho đến ngày nay sâu trong ngõ Hàng Hành thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Trong Đền Khánh Thuỵ vẫn còn lưu giữ lại một bia đá có các thông tin kết nối với di tích Ngọc Sơn khi xưa trên nền đất cũ.
Cung Khánh Thuỵ và đền Khánh Thuỵ ngày nay đều thuộc quần thể di tích Ngọc Sơn lịch sử do vậy mà vị trí Đền Khánh Thuỵ luôn quay cửa Cung về phía Đền Ngọc Sơn còn lưng thì quay ra phố Hàng Hành nên nhiều người đã không được biết đến và chưa có phương án bảo tồn cùng quần thể Ngọc Sơn.
Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân một phần nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...".
Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..."
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
Công trình xung quanh
Tháp Bút
Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn cũ), nhà nho Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông dựng ngược, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay người ta thường gọi đó là Tháp Bút.
Đài Nghiên
Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Hai bên có hai câu đối:
Bát đảo, mặc ngân hồ thủy mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao.
Nghĩa là:
Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi
Cầu Thê Húc
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn.
Vào thời kháng chiến chống Pháp, cầu Thê Húc cũ đã sụp đổ do thời gian. Cầu Thê Húc hiện nay được xây dựng bởi cụ Trương Văn Đa (tức Phạm Ngọc Lan), một nhà nho, đồng thời là một kiến trúc sư dưới thời Pháp thuộc.
Đắc Nguyệt Lâu
Cổng đền có tên là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng). Cổng nằm chếch dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.
Đền thờ
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.
Ở gian phía sau đền thờ còn trưng bày xác ướp một chú rùa Hồ Gươm.
Trấn Ba Đình
Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Cột trong đình có đôi câu đối:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Chữ Hán:
劍 有 餘 靈 光 若 水
文 從 大 塊 壽 如 山
Nghĩa là:
Kiếm sót khí thiêng ngời tựa nước
Văn cùng trời đất thọ như non.
Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Hưng Đạo Vương, còn thờ cả Phật A-di-đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.
Ảnh
Tham khảo
Tuyển tập văn bia Hà Nội, quyển 2, Khoa Học Xã hội, 1978, tr. 68-69.
Liên kết ngoài
Đền Ngọc Sơn
Để hiểu thêm về đền Ngọc Sơn - Tháp Bút - Đài Nghiên
Đền tại Hà Nội
Hoàn Kiếm
Di tích tại Hà Nội
Di tích quốc gia Việt Nam
Đạo quán tại Hà Nội
|
25338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20n%C3%BAi%20T%C3%A0%20C%C3%BA
|
Chùa núi Tà Cú
|
Chùa núi Tà Cú (người địa phương hay gọi đơn giản là chùa Núi) là một ngôi chùa tọa lạc trên núi Tà Cú ở độ cao hơn 400 m, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, gần Quốc lộ 1, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam. Chùa này là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam.
Lịch sử
Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên.
Kiến trúc
Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa.
Xem thêm
Núi Tà Cú
Chú thích
Liên kết ngoài
Chùa núi Tà Cú trên trang Web của UBND tỉnh Bình Thuận
Tà
Hàm Thuận Nam
Tượng Phật tại Việt Nam
Phật giáo Việt Nam
|
25351
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Trượng
|
Trượng là một đơn vị đo chiều dài cổ của Việt Nam và Trung Hoa.
Nó nằm trong các đơn vị đo độ dài cổ theo hệ thập phân dựa trên một cây thước cơ bản. Một trượng bằng 10 thước.
Việt Nam
Trước khi Pháp chiếm đóng Đông Dương, tồn tại nhiều loại thước ở Việt Nam, phục vụ cho các mục đích khác nhau và có độ dài khác nhau. Theo các tư liệu ghi chép và khảo cứu thì có ba loại thước chính: thước đo vải từ 0,6 đến 0,65 mét, thước đo đất khoảng 0,47 mét và thước nghề mộc từ 0,28 đến 0,5 mét. Từ các loại thước trên để suy ra chiều dài các loại trượng tương ứng.
Ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra sắc lệnh quy định, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1898, ở địa bàn Bắc Kỳ thống nhất tất cả các loại thước thành một loại thước ta bằng 0,40 mét. Theo đó, một trượng dài 4 mét. Tuy nhiên, ở Trung Kỳ nước ta vẫn dùng chuẩn cũ với chiều dài 1 trượng = 4,7 mét.
Khảo dị
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1988 (tr. 1093), 1 trượng cũng có thể được hiểu bằng 4 thước mộc, khoảng 1,800 mét.
Trung Hoa
Trong hệ đo lường cổ Trung Hoa, do thước Trung Quốc cổ dài khoảng 0,33 mét, một trượng Trung Hoa dài 3,33 mét.
Xem thêm
Hệ đo lường cổ Việt Nam
Hệ đo lường cổ Trung Hoa
Tham khảo
Đơn vị đo chiều dài
Hệ đo lường cổ của Việt Nam
|
25359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%A1i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Hơi nước
|
Hơi nước là trạng thái khí của nước. Nó là một trong những pha của nước trong thủy quyển. Hơi nước sinh ra từ quá trình bay hơi hoặc sôi của nước lỏng hoặc từ thăng hoa của băng. Không như những trạng thái khác của nước, hơi nước là trong suốt, không nhìn thấy được. Dưới điều kiện khí quyển điển hình, hơi nước liên tục sinh ra từ sự bay hơi hay ngưng tụ thành nước. Nó nhẹ hơn không khí và kích hoạt những dòng đối lưu dẫn đến hình thành các đám mây.
Là một thành phần của thủy quyển và chu trình thủy văn của Trái đất, hơi nước có nhiều trong bầu khí quyển của Trái đất, nơi nó hoạt động như một khí nhà kính mạnh nhất, mạnh hơn các khí khác như carbon dioxide và methane. Sử dụng hơi nước, dưới dạng hơi nước nóng, rất quan trọng để nấu ăn, và là một thành phần chính trong hệ thống sản xuất và vận chuyển năng lượng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp.
Hơi nước là một thành phần khí quyển tương đối phổ biến, có mặt ngay cả trong khí quyển Mặt Trời cũng như mọi hành tinh trong Hệ Mặt Trời và nhiều vật thể thiên văn bao gồm vệ tinh tự nhiên, sao chổi và thậm chí cả các tiểu hành tinh lớn. Tương tự như vậy, việc phát hiện hơi nước ngoài hệ mặt trời sẽ cho thấy sự phân bố tương tự trong các hệ hành tinh khác. Hơi nước có ý nghĩa ở chỗ nó có thể là bằng chứng gián tiếp hỗ trợ sự hiện diện của nước lỏng ngoài Trái đất trong trường hợp của một số vật thể khối lượng cỡ hành tinh.
Thuộc tính
Bay hơi
Bất cứ khi nào một phân tử nước rời khỏi bề mặt và khuếch tán vào một chất khí xung quanh, nó được cho là đã bay hơi. Mỗi phân tử nước chuyển đổi giữa trạng thái liên kết nhiều hơn (lỏng) và trạng thái ít liên kết hơn (hơi / khí) sẽ thực hiện thông qua sự hấp thụ hoặc giải phóng động năng. Phép đo tổng hợp của sự truyền động năng này được định nghĩa là nhiệt năng và chỉ xảy ra khi có sự khác biệt về nhiệt độ của các phân tử nước. Nước lỏng trở thành hơi nước sẽ mang theo một lượng nhiệt, trong một quá trình gọi là làm mát bay hơi. Lượng hơi nước trong không khí quyết định tần suất các phân tử quay trở lại bề mặt. Khi xảy ra hiện tượng bốc hơi ròng, phần nước sẽ trải qua quá trình làm mát thực liên quan trực tiếp đến việc mất nước.
Tại Hoa Kỳ, Cơ quan Thời tiết Quốc gia đo tốc độ bốc hơi thực tế từ một bề mặt nước mở "chảo" được tiêu chuẩn hóa ngoài trời, tại các địa điểm khác nhau trên toàn quốc. Những người khác cũng làm như vậy trên khắp thế giới. Dữ liệu của Hoa Kỳ được thu thập và tổng hợp thành bản đồ bốc hơi hàng năm. Các phép đo nằm trong khoảng từ dưới 30 đến hơn 120 inch mỗi năm. Các công thức có thể được sử dụng để tính tốc độ bay hơi từ bề mặt nước như bể bơi. Ở một số quốc gia, tốc độ bay hơi của nước vượt xa tốc độ kết tủa.
Làm mát bay hơi bị hạn chế bởi các điều kiện khí quyển. Độ ẩm là lượng hơi nước trong không khí. Hàm lượng hơi của không khí được đo bằng các thiết bị được gọi là ẩm kế. Các phép đo thường được biểu thị bằng độ ẩm cụ thể hoặc độ ẩm tương đối phần trăm. Nhiệt độ của khí quyển và bề mặt nước xác định áp suất hơi cân bằng; Độ ẩm tương đối 100% xảy ra khi áp suất riêng phần của hơi nước bằng áp suất hơi cân bằng. Điều kiện này thường được gọi là bão hòa hoàn toàn. Độ ẩm dao động từ 0 gam trên mét khối trong không khí khô đến 30 gam trên mét khối (0,03 oz trên foot khối) khi hơi bão hòa ở 30 °C.
Thăng hoa
Thăng hoa là quá trình các phân tử nước trực tiếp rời khỏi bề mặt của băng mà không trở thành nước lỏng. Sự thăng hoa là nguyên nhân dẫn đến sự biến mất chậm giữa mùa đông của băng và tuyết ở nhiệt độ quá thấp để gây tan chảy. Nam Cực cho thấy hiệu ứng này ở một mức độ độc đáo vì cho đến nay nó là lục địa có tỷ lệ mưa thấp nhất trên Trái đất. Kết quả là, có những khu vực rộng lớn nơi các lớp tuyết hàng nghìn năm tuổi đã thăng hoa, để lại bất kỳ vật liệu không bay hơi nào mà chúng chứa đựng. Điều này cực kỳ có giá trị đối với một số ngành khoa học, một ví dụ ấn tượng là việc thu thập các thiên thạch còn lại trên bề mặt Trái Đất với số lượng vô cùng nhiều và ở trạng thái bảo quản tuyệt vời.
Sự thăng hoa rất quan trọng trong việc chuẩn bị một số lớp mẫu vật sinh học để quét kính hiển vi điện tử. Thông thường, các mẫu vật được chuẩn bị bằng phương pháp đông lạnh và đứt gãy đông lạnh, sau đó bề mặt vỡ được khắc bằng đông lạnh, bị ăn mòn khi tiếp xúc với chân không cho đến khi nó hiển thị mức độ chi tiết cần thiết. Kỹ thuật này có thể hiển thị các phân tử protein, cấu trúc bào quan và lớp kép lipid với mức độ biến dạng rất thấp.
Ngưng tụ
Hơi nước sẽ chỉ ngưng tụ trên bề mặt khác khi bề mặt đó mát hơn nhiệt độ điểm sương, hoặc khi vượt quá trạng thái cân bằng hơi nước trong không khí. Khi hơi nước ngưng tụ trên một bề mặt, bề mặt đó sẽ xảy ra hiện tượng nóng lên. Phân tử nước mang theo nhiệt năng. Đến lượt mình, nhiệt độ của khí quyển giảm nhẹ. Trong khí quyển, sự ngưng tụ tạo ra mây, sương mù và lượng mưa (thường chỉ khi được tạo điều kiện bởi các hạt nhân ngưng tụ mây). Điểm sương của một lô không khí là nhiệt độ mà nó phải nguội trước khi hơi nước trong không khí bắt đầu ngưng tụ. Sự ngưng tụ trong khí quyển tạo thành các giọt mây.
Ngoài ra, sự ngưng tụ thực của hơi nước xảy ra trên các bề mặt khi nhiệt độ của bề mặt bằng hoặc thấp hơn nhiệt độ điểm sương của khí quyển. Sự ngưng kết là một quá trình chuyển pha tách biệt với sự ngưng tụ dẫn đến sự hình thành nước đá trực tiếp từ hơi nước. Băng giá và tuyết là những ví dụ về sự ngưng kết.
Có một số cơ chế làm mát xảy ra hiện tượng ngưng tụ: 1) Mất nhiệt trực tiếp bằng dẫn truyền hoặc bức xạ. 2) Làm mát do giảm áp suất không khí xảy ra khi không khí nâng lên, còn được gọi là làm mát đoạn nhiệt. Không khí có thể được nâng lên bởi các ngọn núi, làm lệch hướng không khí lên trên, bằng đối lưu, và bởi các mặt trước lạnh và ấm. 3) Làm mát hoạt tính - làm mát do chuyển động ngang của không khí.
Phản ứng hoá học
Một số phản ứng hóa học tạo thành nước như là một sản phẩm. Nếu các phản ứng xảy ra ở nhiệt độ cao hơn điểm sương của không khí xung quanh, nước sẽ được hình thành ở dạng hơi và làm tăng độ ẩm cục bộ, nếu dưới điểm sương sẽ xảy ra hiện tượng ngưng tụ cục bộ. Các phản ứng điển hình dẫn đến hình thành nước là đốt cháy hydro hoặc hydrocarbon trong không khí hoặc hỗn hợp khí có chứa oxy khác, hoặc là kết quả của phản ứng với chất oxy hóa.
Theo cách tương tự, các phản ứng hóa học hoặc vật lý khác có thể diễn ra khi có hơi nước dẫn đến hình thành các hóa chất mới như gỉ sắt hoặc thép, xảy ra quá trình trùng hợp (một số bọt polyurethane và keo cyanoacrylate phản ứng khi tiếp xúc với độ ẩm không khí) hoặc các dạng thay đổi chẳng hạn như trong đó hóa chất khan có thể hấp thụ đủ hơi để tạo thành cấu trúc tinh thể hoặc làm thay đổi cấu trúc hiện có, đôi khi dẫn đến thay đổi màu sắc đặc trưng có thể được sử dụng để đo lường.
Đo lường
Việc đo lượng hơi nước trong môi trường có thể được thực hiện trực tiếp hoặc từ xa với các mức độ chính xác khác nhau. Các phương pháp từ xa như vậy có thể hấp thụ năng lượng điện từ của các vệ tinh trên bầu khí quyển hành tinh. Phương pháp trực tiếp có thể sử dụng đầu dò điện tử, nhiệt kế được làm ẩm hoặc vật liệu hút ẩm để đo những thay đổi về tính chất vật lý hoặc kích thước.
Tham khảo
Nước
Trạng thái vật chất
Khí nhà kính
Dạng nước
|
25361
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2n%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Cân (định hướng)
|
Cân có thể chỉ các khái niệm:
Dụng cụ đo khối lượng: Cân (dụng cụ đo) ''
Hành động đo lường khối lượng
Đơn vị đo: khối lượng cân
Một loại khăn được dùng làm mũ cho nhân vật trong sân khấu tuồng, chèo: cân (sân khấu).
|
25362
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%E1%BA%BFn
|
Yến
|
Yến có thể có các nghĩa:
Các loài chim thuộc họ Apodidae (yến, cụ thể hơn còn gọi là vũ yến) và họ Hemiprocnidae (yến mào)
Gọi tắt của yến sào - món ăn làm từ tổ yến của một số loài thuộc họ Apodidae nói trên; yến tiệc.
Trong văn chương, người ta dùng từ yến để chỉ các loài thuộc họ Hirundinidae (én, gần đây cũng gọi là nhạn)
Một số loài thuộc chi yến hót Serinus
Đơn vị đo khối lượng: yến
Họ người Á Đông: Yến
Tên một con suối tại khu thắng cảnh chùa Hương: suối Yến
|
25368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nit%C6%A1
|
Nitơ
|
Nitơ (danh pháp IUPAC: nitrogen) là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn các nguyên tố có ký hiệu N và số nguyên tử bằng 7, nguyên tử khối bằng 14. Ở điều kiện bình thường nó là một chất khí không màu, không mùi, không vị và khá trơ và tồn tại dưới dạng phân tử N2, còn gọi là đạm khí. Nitơ chiếm khoảng 78% khí quyển Trái Đất và là thành phần của mọi cơ thể sống. Nitơ tạo ra nhiều hợp chất quan trọng như các amino acid, amonia, acid nitric và các cyanide. Liên kết hóa học cực kỳ bền vững giữa các nguyên tử nitơ gây khó khăn cho cả sinh vật và công nghiệp để chuyển hóa thành các hợp chất hóa học hữu dụng, nhưng đồng thời cũng giải phóng một lượng lớn năng lượng hữu ích khi cháy, nổ hoặc phân hủy trở lại thành khí nitơ. Các ammoniac và nitrat được tổng hợp là các loại phân công nghiệp chính và phân nitrat là các chất ô nhiễm chính gây ra hiện tượng phú dưỡng môi trường nước.
Nitơ có mặt trong tất cả các cơ thể sống, chủ yếu ở dạng các amino acid (và protein) và cũng có trong các acid nucleic (DNA và RNA). Cơ thể người chứa khoảng 3% nitơ theo trọng lượng, là nguyên tố phổ biến thứ tư trong cơ thể sau oxy, carbon và hydro. Chu trình nitơ miêu tả sự chuyển động của nguyên tố này từ không khí vào sinh quyển và các hợp chất hữu cơ, sau đó quay trở lại không khí.
Tính chất
Nitơ là một phi kim, với độ âm điện là 3,04. Nó có 5 điện tử trên lớp ngoài cùng, vì thế thường thì nó có hóa trị III trong phần lớn các hợp chất để đạt cơ cấu bền (8 điện tử hóa trị). Nitơ tinh khiết là một chất khí ở dạng phân tử không màu và chỉ tham gia phản ứng hóa học ở nhiệt độ phòng khi nó phản ứng với Lithi. Nó hóa lỏng ở nhiệt độ 77 K (-196°C) trong điều kiện áp suất khí quyển và đóng băng ở 63 K (-210°C) thành dạng thù hình có tinh thể lục phương đóng kín. Dưới 35,4K (−237.6°C) nitơ được cho là có thù hình của hệ lập phương (được gọi là pha alpha). Nitơ lỏng, có dạng giống như nước, nhưng có tỷ trọng chỉ bằng 80,8% (tỷ trọng nitơ lỏng ở điểm sôi là 0,808 g/mL), là chất làm lạnh phổ biến.
Các thù hình không bền của nitơ có hơn hai nguyên tử đã được tạo ra trong phòng thí nghiệm, như và . Trong điều kiện áp suất cực kỳ cao (1,1 triệu atm) và nhiệt độ cao (2000 K), khi tạo ra bằng diamond anvil cell, nitơ polymer hóa thành các cấu trúc tinh thể lập phương liên kết đơn. Cấu trúc này tương tự cấu trúc của kim cương, và cả hai có các liên kết cộng hóa trị cực mạnh. còn có tên gọi là "kim cương nitơ".
Các dạng thù hình khác (chưa tổng hợp được) bao gồm hexazine (, một vòng benzen) và octaazacuban (, một cubane đơn). Dạng nitơ 6 được dự đoán là không ổn định trong cao, trong khi dạng nitơ 8 được dự đoán là ổn định động học, vì sự đối xứng quỹ đạo.
Đồng vị
Có hai đồng vị ổn định của nitơ là: 14N và 15N. Phổ biến nhất là 14N (99,634%), là đồng vị tạo ra trong chu trình CNO trong các ngôi sao. Phần còn lại là 15N. Trong số 10 đồng vị tổng hợp nhân tạo thì 1 có chu kỳ bán rã là 9 phút còn các đồng vị còn lại có chu kỳ bán rã ở mức độ 1 giây hay nhỏ hơn.
Các phản ứng trung gian sinh học (ví dụ: đồng hóa, nitrat hóa và khử nitrat) kiểm soát chặt chẽ cân bằng động của nitơ trong đất. Các phản ứng này gần như là tạo ra sự làm giàu 15N trong chất nền và làm suy kiệt sản phẩm. Mặc dù nước mưa chứa các lượng tương đương amônium và nitrat, nhưng do amônium là tương đối khó chuyển hóa/hấp thụ hơn so với nitrat khí quyển nên phần lớn nitơ trong khí quyển chỉ có thể đi vào trong đất dưới dạng nitrat. Nitrat trong đất được các loại rễ cây hấp thụ tốt hơn so với khi nitơ ở dưới dạng amônium.
Một phần nhỏ (0,73%) của nitơ phân tử trong khí quyển Trái Đất là isotopologue 14N15N, và hầu hết phần còn lại là 14N2.
Đồng vị phóng xạ 16N là thành phần hạt nhân phóng xạ chiếm ưu thế trong chất làm mát của các lò phản ứng hạt nhân nước áp lực hoặc lò phản ứng nước sôi ở chế độ vận hành bình thường. Nó được tạo ra từ 16O (trong nước) qua phản ứng (n,p). Nó có chu kỳ bán rã khoảng 7,1 giây, nhưng trong khi nó phân rã ngược lại tạo ra 16O thì sinh ra tia phóng xạ gama năng lượng cao (5 đến 7 MeV). Do đó, việc tiếp cận các ống dẫn chất làm lạnh sơ cấp trong lò phản ứng nước áp lực phải được kiểm soát chặt chẽ trong quá trình vận hành lò phản ứng.16N là một trong những công cụ chính được dùng để nhận dạng nhanh các vụ rò rỉ thậm chí nhỏ từ chất làm lạnh sơ cấp đến chu trình hơi thứ cấp.
Phổ điện từ
Nitơ phân tử (14N2) phần lớn có quang phổ trong suốt đến hồng ngoại và nhìn thấy do nó là một phân tử cấu tạo bởi cùng hạt nhân và do đó, không có môment lưỡng cực để kết hợp với bức xạ điện từ ở các bước sóng này. Sự hấp thụ đáng kể xảy ra ở các bước sóng siêu cực tím, bắt đầu vào khoảng 100 nm. Điều này liên quan với sự chuyển tiếp điện tử trong phân tử sang các trạng thái tích điện không được phân bố thậm chí giữa các nguyên tử nitơ. Sự hấp thụ nitơ dẫn đến sự hấp thụ đáng kể các bức xạ cực tím trong thượng tầng khí quyển và khí quyển của các hành tinh khác. Vì các lý do tương tự, các tia laser nitơ phân tử tinh khiết đặc biệt phát xạ ánh sáng trong dải cực tím.
Phản ứng
Nhìn chung, nitơ không hoạt động ở điều kiện nhiệt độ và áp suất chuẩn. Nitơ phản ứng với nguyên tố lithi. Lithi cháy trong không khí có N2 tạo ra lithi nitride:
6 Li + N2 → 2 Li3N
Magiê cũng cháy trong nitơ tạo ra Magiê nitrua:
3 Mg + N2 → Mg3N2
N2 tạo thành nhiều sản phẩm cộng với các kim loại chuyển tiếp như [Ru(NH3)5(N2)]2+ (xem hình). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phối tử N2 thu được bằng cách phân hủy hydrazin, và không phối với đi nitơ tự do. Các hợp chất này hiện có rất nhiều như IrCl(N2)(PPh3)2, W(N2)2(Ph2PCH2CH2PPh2)2, and [(η5-C5Me4H)2Zr]2(μ2, η2,η2-N2). Các phức này minh hoạ bằng cách nào N2 có thể kết hợp với các kim loại trong các enzym nitrogenase và xúc tác cho quá trình Haber. Quá trình xúc tác để khử N2 thành ammoniac bằng cách sử dụng phức molybden với sự có mặt của nguồn proton được công bố năm 2005.
Ứng dụng
Hợp chất nitơ
Phân tử nitơ trong khí quyển là tương đối trơ, nhưng trong tự nhiên nó bị chuyển hóa rất chậm thành các hợp chất có ích về mặt sinh học và công nghiệp nhờ một số cơ thể sống, chủ yếu là các vi khuẩn (xem Vai trò sinh học dưới đây). Khả năng kết hợp hay cố định nitơ là đặc trưng quan trọng của công nghiệp hóa chất hiện đại, trong đó nitơ (cùng với khí thiên nhiên) được chuyển hóa thành amonia (thông qua phương pháp Haber). Amonia, trong lượt của mình, có thể được sử dụng trực tiếp (chủ yếu như là phân bón), hay làm nguyên liệu cho nhiều hóa chất quan trọng khác, bao gồm thuốc nổ, chủ yếu thông qua việc sản xuất acid nitric theo phương pháp Ostwald.
Các muối của acid nitric bao gồm nhiều hợp chất quan trọng như xanpet (hay diêm tiêu- trong lịch sử nhân loại nó là quan trọng do được sử dụng để làm thuốc súng) và nitrat amôni, một phân bón hóa học quan trọng. Các hợp chất nitrat hữu cơ khác, chẳng hạn trinitrôglyxêrin và trinitrotoluen (tức TNT), được sử dụng làm thuốc nổ. Acid nitric được sử dụng làm chất oxy hóa trong các tên lửa dùng nhiên liệu lỏng. Hiđrazin và các dẫn xuất của nó được sử dụng làm nhiên liệu cho các tên lửa.
Khí nitơ
Nitơ dạng khí được sản xuất nhanh chóng bằng cách cho nitơ lỏng (xem dưới đây) ấm lên và bay hơi. Nó có nhiều ứng dụng, bao gồm cả việc phục vụ như là sự thay thế trơ hơn cho không khí khi mà sự oxy hóa là không mong muốn.
để bảo quản tính tươi của thực phẩm đóng gói hay dạng rời (bằng việc làm chậm sự ôi thiu và các dạng tổn thất khác gây ra bởi sự oxy hóa),
trên đỉnh của chất nổ lỏng để đảm bảo an toàn
Nó cũng được sử dụng trong:
sản xuất các linh kiện điện tử như transitor, diode, và mạch tích hợp (IC).
sản xuất thép không gỉ,
bơm lốp ô tô và máy bay do tính trơ và sự thiếu các tính chất ẩm, oxy hóa của nó, ngược lại với không khí (mặc dù điều này là không quan trọng và cần thiết đối với ô tô thông thường)
Ngược lại với một số ý kiến, nitơ thẩm thấu qua lốp cao su không chậm hơn không khí. Không khí là hỗn hợp chủ yếu chứa nitơ và oxy (trong dạng N2 và O2), và các phân tử nitơ là nhỏ hơn. Trong các điều kiện tương đương thì các phân tử nhỏ hơn sẽ thẩm thấu qua các vật liệu xốp nhanh hơn.
Một ví dụ khác về tính đa dụng của nó là việc sử dụng nó (như là một chất thay thế được ưa chuộng cho dioxide cacbon) để tạo áp lực cho các thùng chứa một số loại bia, cụ thể là bia đen có độ cồn cao và bia ale của Anh và Scotland, do nó tạo ra ít bọt hơn, điều này làm cho bia nhuyễn và nặng hơn. Một ví dụ khác về việc nạp khí nitơ cho bia ở dạng lon hay chai là bia tươi Guinness.
Nitơ lỏng
Nitơ lỏng được sản xuất theo quy mô công nghiệp với một lượng lớn bằng cách chưng cất phân đoạn không khí lỏng và nó thường được nói đến theo công thức giả LN2. Nó là một tác nhân làm lạnh (cực lạnh), có thể làm cứng ngay lập tức các mô sống khi tiếp xúc với nó. Khi được cách ly thích hợp khỏi nhiệt của môi trường xung quanh thì nó phục vụ như là chất cô đặc và nguồn vận chuyển của nitơ dạng khí mà không cần nén. Ngoài ra, khả năng của nó trong việc duy trì nhiệt độ một cách siêu phàm, do nó bay hơi ở 77 K (-196°C hay -320°F) làm cho nó cực kỳ hữu ích trong nhiều ứng dụng khác nhau, chẳng hạn trong vai trò của một chất làm lạnh chu trình mở, bao gồm:
làm lạnh để vận chuyển thực phẩm
bảo quản các bộ phận thân thể cũng như các tế bào tinh trùng và trứng, các mẫu và chế phẩm sinh học.
trong nghiên cứu các tác nhân làm lạnh
để minh họa trong giáo dục
trong da liễu học để loại bỏ các tổn thương da ác tính xấu xí hay tiềm năng gây ung thư, ví dụ các mụn cóc, các vết chai sần trên da v.v.
Nitơ lỏng có thể sử dụng như là nguồn làm mát để tăng tốc CPU, GPU, hay các dạng phần cứng khác.
Nitơ lỏng là nitơ ở trạng thái lỏng, nhiệt độ của nó rất là thấp khoảng -196 độ C, ở nhiệt độ này thì bạn cũng biết nó có thể phá hủy mọi thứ liên quan đến cơ thể sống.
Nitơ là một trong các loại khí công nghiệp và có ứng dụng rộng rãi, là khí trơ, không màu, không mùi, không độc hại, không gây cháy nổ.
Nitơ lỏng có trọng lượng riêng là 0,807g/ml và có hằng số điện môi là 1,4. Số nguyên tử của nó là 7.
Nitơ chiếm 78% trong bầu khí quyển, nitơ lỏng được nén lại bằng phương pháp chưng cất phân đoạn không khí => thu được nitơ long và oxi lỏng => Các khí nitơ lỏng sẽ được đưa vào thùng chứa và đưa vào sử dụng trong công nghiệp
Các khí nitơ này được đưa vào công nghiệp sẽ có hệ thống giàn hóa hơi biến khí Nitơ lỏng này trở lại thành khí Nitơ thông thường
Sau khi qua giàn hóa hơi nitơ được hóa hơi sẽ đưa qua các van áp để phân chia vào công nghiệp
Nitơ lỏng được ứng dụng trong hằng trăm lĩnh vực kể không bao giờ hết cả, từ lĩnh vực thực phẩm đến lĩnh vực dệt nhuộm và còn rất nhiều lĩnh vực khác.
Lịch sử
Nitơ (tiếng Latinh: nitrum, tiếng Hy Lạp: Nitron có nghĩa là "sinh ra sôđa", "nguồn gốc", "tạo thành") về hình thức được coi là được Daniel Rutherford phát hiện năm 1772, ông gọi nó là không khí độc hại hay không khí cố định. Có điều này là do một phần của không khí không hỗ trợ sự cháy đã được các nhà hóa học biết đến vào cuối thế kỷ XVIII. Nitơ cũng được Carl Wilhelm Scheele, Henry Cavendish và Joseph Priestley nghiên cứu vào cùng khoảng thời gian đó, là những người nói đến nó như là không khí đã cháy hay không khí phlogiston. Khí nitơ là trơ đến mức Antoine Lavoisier coi nó như là azote vào năm 1789, có nghĩa là không có sự sống; thuật ngữ này đã trở thành tên gọi trong tiếng Pháp để chỉ "nitơ" và sau đó đã lan rộng sang nhiều thứ tiếng khác. Năm 1790, Jean Antoine Chaptal đặt ra tên gọi nitrogen để chỉ nitơ.
Các hợp chất của nitơ đã được biết tới từ thời Trung cổ. Các nhà giả kim thuật đã biết acid nitric (HNO3) như là aqua fortis (tức nước khắc đồng). Hỗn hợp của acid nitric và acid clohiđríc (HCl) được biết đến dưới tên gọi aqua regia (tức nước cường toan), do nó có khả năng hòa tan cả vàng. Các ứng dụng sớm nhất trong công nghiệp và nông nghiệp của các hợp chất nitơ sử dụng nó trong dạng xanpet (có thể là nitrat natri (NaNO3) hay nitrat kali (KNO3)), chủ yếu làm thuốc súng và sau đó là làm phân bón, và muộn hơn nữa là để làm hóa chất bổ sung. Năm 1910, Lord Rayleigh đã phát hiện rằng việc phóng điện trong khí nitơ tạo ra "nitơ hoạt động", là một thù hình được xem là đơn nguyên tử. "đám mây xoáy có ánh sáng vàng rực rỡ" được tạo ra bởi bộ máy của ông phản ứng với thủy ngân để tạo ra chất nổ thủy ngân nitride.
Sự phổ biến
Nitơ là thành phần lớn nhất của khí quyển Trái Đất (78,084% theo thể tích hay 75,5% theo trọng lượng). Henry Cavendish là người đã xác định tương đối chính xác thành phần "khí cháy" (oxy, khoảng 21%) của không khí vào cuối thế kỷ XVIII. Hơn một thế kỷ sau, người ta xác định phần còn lại ("không cháy") của không khí chủ yếu là nitơ.
Nitơ được sản xuất cho các mục đích công nghiệp nhờ chưng cất phân đoạn không khí lỏng hay bằng các biện pháp cơ học khác đối với không khí ở dạng khí (màng thẩm thấu nghịch áp suất hay PSA (viết tắt của từ tiếng Anh: Pressure Swing Adsorption).
Các hợp chất chứa nitơ cũng được quan sát là có trong vũ trụ. Nitơ N14 được tạo ra như là một phần của phản ứng tổng hợp hạt nhân trong các ngôi sao. Phân tử nitơ và các hợp chất nitơ đã được các nhà thiên văn học phát hiện trong môi trường liên sao bằng cách sử dụng Far Ultraviolet Spectroscopic Explorer. Nitơ là thành phần lớn của các chất thải động vật (ví dụ phân), thông thường trong dạng urê, acid uric, và các hợp chất của các sản phẩm chứa nitơ này.
Nitơ ở dạng phân tử đã được biết là có trong khí quyển của Titan, và cũng đã được David Knauth và các cộng sự phát hiện là tồn tại trong không gian liên sao nhờ sử dụng FUSE.
Các hợp chất chính của nitơ
Hydride chính của nitơ là amonia (NH3) mặc dù hiđrazin (N2H4) cũng được biết đến rất nhiều. Amonia là một chất có tính base nhiều hơn nước, và trong dung dịch thì nó tạo ra các cation amôni (NH4+). Amonia lỏng trên thực tế là một chất có tính tạo các ion kép (amôni và amit (NH2-); cả hai loại muối amit và nitride (N3-) đều được biết đến, nhưng đều bị phân hủy trong nước. Các hợp chất của amonia bị thay thế đơn và kép được gọi là các amin. Các chuỗi lớn, vòng và cấu trúc khác của hydride nitơ cũng được biết đến nhưng trên thực tế không ổn định.
Các lớp anion khác của nitơ là azua (N3-), chúng là tuyến tính và đồng electron với dioxide cacbon. Các phân tử khác có cấu trúc tương tự là đinitơ mônoxide (N2O), hay khí gây cười. Đây là một trong các dạng oxide của nitơ, nổi bật nhất trong số các oxide là nitơ mônoxide (NO) và nitơ dioxide (NO2), cả hai oxide này đều chứa các điện tử không bắt cặp. Oxide sau thể hiện một số xu hướng với sự nhị trùng hóa và là thành phần chính trong các loại khói.
Các oxide tiêu chuẩn hơn là đinitơ trioxide (N2O3) và đinitơ pentoxide (N2O5), trên thực tế là tương đối không ổn định và là các chất nổ. Các acid tương ứng là acid nitrơ (HNO2) và acid nitric (HNO3), với các muối tương ứng được gọi là nitrit và nitrat. Acid nitric là một trong ít các acid mạnh hơn hydroni.
Điều chế
Trong công nghiệp, nitơ được sản xuất bằng phương pháp chưng cất phân đoạn không khí lỏng. Sau khi đã loại bỏ CO2 và hơi nước, không khí được hóa lỏng dưới áp suất cao và nhiệt độ thấp. Nâng dần nhiệt độ không khí lỏng đến -196 độ C thì nitơ sôi và tách khỏi được oxy vì oxy có nhiệt độ sôi cao hơn (-183 độ C). Khí nitơ được vần chuyển trong các bình thép, nén dưới áp suất 150 atm.
Trong phòng thí nghiệm, người ta điều chế một lượng nhỏ nitơ tinh khiết bằng cách đun nóng nhẹ dung dịch bão hòa muối amoni nitrit:
NH4NO2 → N2 + 2H2O
Có thể thay muối amoni nitrit kém bền bằng dung dịch bão hòa của muối natri nitrit và amoni chloride
NH4Cl + NaNO2 → N2 + NaCl + 2H2O
Vai trò sinh học
Nitơ là thành phần quan trọng của các amino acid và acid nucleic, điều này làm cho nitơ trở thành thiết yếu đối với sự sống. Nitơ nguyên tố trong khí quyển không thể được động và thực vật sử dụng trực tiếp mà phải qua quá trình khử trùng hoặc cố định. Giáng thủy thường chứa một lượng đáng kể amonia và nitrat, được cho là sản phẩm cố định nitơ bởi các tia sét và các hiện tượng điện khác trong khí quyển. Điều này được Liebig đưa ra đầu tiên vào năm 1827 và sau đó được xác nhận. Tuy nhiên, do amonia được ưu tiên giữa lại bởi tác cây rừng tương đối so với nitrat khí quyển, hầu hết nitơ được cố định đến được bề mặt đất bên dưới cây ở dạng nitrat. Nitrat trong đất được rễ cây ưu tiên hấp thụ so với ammoniac trong đất. Các cây họ Đậu như đậu tương, có thể hấp thụ nitơ trực tiếp từ không khí do rễ của chúng có các nốt sần chứa các vi khuẩn cố định đạm để chuyển hóa nitơ thành amonia. Các cây họ Đậu sau đó sẽ chuyển hóa amonia thành các ion oxide nitơ và các amino acid để tạo ra các protein. Vi khuẩn đặc biệt (như Rhizobium trifolium) sở hữu các enzym nitrogenase có khả năng cố định nitơ trong khí quyển thành các chất hữu ích cho các sinh vật bậc cao hơn. Quá trình này đòi hỏi một lượng năng lượng lớn và các điều kiện thiếu oxy. Các vi khuẩn như thế có thể sống tự do trong đất (như Azotobacter) nhưng thường tồn tại ở dạng cộng sinh trong các nốt sần của rễ câu họ Đậu (như clover, Trifolium, hay đậu nành, Glycine max). Vi khuẩn cố định nitơ cũng cộng sinh với nhiều loài thực vật không liên quan như Alnus, địa y, Casuarina, Myrica, Marchantiophyta, và Gunnera.
Phòng ngừa
Các chất phân bón chứa nitrat bị rửa trôi là nguồn ô nhiễm chính nước ngầm và các con sông. Các hợp chất chứa xyanua (-CN) tạo ra các muối cực độc hại và gây ra cái chết của nhiều động vật.
Hợp chất hóa học của nitơ
Nitơ có 8 số oxy hóa lần lượt là -3; -2; -1; +1; + 2; +3; +4 và +5. Ở điều kiện bình thường mặc dù độ âm điện của nitơ lớn hơn photpho nhưng lại hoạt động hóa học yếu hơn photpho do đơn chất nitơ có liên kết ba với năng lượng liên kết lớn.
Oxide của nitơ
Hầu hết các oxide của nitơ đều là các oxide trung tính như NO, N2O nhưng cũng có một số oxide là oxide acid như N2O3, N2O5, NO2.
Nitơ monoxide và Nitơ đioxide
Ở nhiệt độ khoảng 3000oC hay các tia hồ quang điện, nitơ tác dụng với khí oxi trong không khí tạo ra nitơ monoxide (NO).N2 + O2 <=>[t^o] 2 NO với Trong tự nhiên khí NO được tạo thành khi có cơn giông. Khí NO không màu dễ dàng phản ứng với oxi trong không khí ở điều kiện thường tạo thành khí nitơ đioxide (NO2) có màu đỏ nâu.2NO + O2 -> 2NO2NO2 dễ dàng bị đime hóa thành N2O4 (điniơ tetraoxide, không màu) ở nhiệt độ thấp. Theo nguyên lí Le Chatelier, phản ứng sẽ chuyển dịch theo chiều nghịch tạo thành NO2 khi tăng nhiệt độ.2NO2 <=> N2O4NO2 là oxide acid hỗn hợp khi tác dụng với nước cho ra hỗn hợp acid.2NO2 + H2O → HNO3 + HNO2Ngay lập tức HNO2 sẽ phân hủy. 3HNO2 → HNO3 + 2NO + H2ONO, NO2 là chất oxy hóa khi tác dụng với các chất khử mạnh khác như SO2, H2S.SO2 + NO2 → SO3 + NO2NO + 2H2S → 2S + N2 + H2ONO2 có thể điều chế bằng cách cho lưu huỳnh, cacbon tác dụng với acid nitric đặc, nóng.4HNO3 + C → CO2 + 4NO2 + 2H2O6HNO3 + S → H2SO4 + 6NO2 + 2H2OCho khí amonia tác dụng với oxi ở nhiệt độ cao có mặt xúc tác4NH3 + 5O2 ->[t^o, xt] 4NO + 6H2O
Nitrơ oxide và đinitơ pentoxide
N2O là khí không màu, mùi dễ chịu, vị hơi ngọt. N2O không tác dụng với oxi. Ở 500oC bị nhiệt phân hủy thành N2 và O2. N2O có thể điều chế bằng cách cho NO cháy trong SO2 hoặc nhiệt phân muối amoni nitrat.2NO + SO2 → SO3 + N2ONH4NO3 → N2O + 2H2ON2O5 (Đinitơ pentoxide) là một oxide khi tan vào nước tạo ra acid nitric. N2O5 có thể điều chế bằng cách cho NO2 phản ứng với ozon O32NO2 + O3 → N2O5 + O2
Hydride
Có hai hydride của nitơ là NH3 (amoniac) và N2H4 (hiđrazin), cả hai đều có mùi khai nhưng hiđrazin nguy hiểm hơn.
Hidrazin
Hidrazin là nhiên liệu dùng trong tên lửa do các phản ứng tỏa nhiệt dưới đây3N2H4 → 4NH3 + N2N2H4 → N2 + H2Tuy nhiên cũng có phản ứng là thu nhiệt4NH3 + N2H4 → 3N2 + 8H2Hydrazin được điều chế bằng cách cho amonia tác dụng với hydro peroxide (oxy già)2NH3 + H2O2 → N2H4 + 2H2OHoặc cũng có thể cho phân urê tác dụng với dung dịch natri hipoclorit và xút(NH2)2CO + NaClO + 2NaOH → N2H4 + H2O + N2CO3 + NaCl
Amonia
Xem thêm
Chất dinh dưỡng
Chu trình nitơ
NOx
Tham khảo
Liên kết ngoài
WebElements.com – Nitơ
Nguyên tố nitơ
Schenectady County Community College – Nitơ
Nitơ N2-Thuộc tính, sử dụng, ứng dụng
Wiki hóa điện toán
Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos – Nitơ
Phi kim
Nhóm nitơ
Nguyên tố hóa học
Khí công nghiệp
|
25397
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%89
|
Chỉ
|
Trong tiếng Việt, chỉ có thể bao gồm nhiều nghĩa:
Chỉ: một loại dây (chỉ cước, chỉ may vá).
Chỉ: đơn vị đo trọng lượng thường dùng trong ngành kim hoàn và trong Đông y nặng khoảng 3,75 gram.
Chỉ: đường kẻ hay nét vẽ nhỏ dài (chỉ tay, kẻ chỉ).
Chỉ (止, tiếng Phạn śamatha): thuật ngữ Phật học, chỉ một loại định an chỉ. Cũng được thấy trong thuật ngữ Chỉ quán (止觀, śamatha-vipaśyanā)
Chỉ: một loài thực vật thuộc họ Cửu lý hương (Rutaceae)
Chỉ (chữ Nho: 旨): là một văn bản luật pháp thời phong kiến của các triều đình Việt Nam
|
25402
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Struts
|
Struts
|
Apache Struts (trước đây là thuộc dự án Apache Jakarta, Struts bây giờ là một dự án độc lập) là một bộ khung mã nguồn mở cho việc phát triển các ứng dụng web bằng J2EE. Nó sử dụng và mở rộng Java Servlet API để giúp cho các nhà phát triển áp dụng kiến trúc MVC (Model-view-controller). Struts ra đời bởi Craig McClanahan và cống hiến cho Tổ chức Apache vào tháng 5, 2000.
Bộ khung (framework) cho phép thiết kế và hiện thực các ứng dụng web ở quy mô lớn có thể được đảm nhiệm bởi nhiều nhóm khác nhau. Cụ thể hơn, các nhà thiết kế trang, các nhà phát triển thành phần và các nhà phát triển khác có thể xử lý phần việc của họ một cách trình tự và độc lập. Nó hỗ trợ I18N (hỗ trợ quốc tế), một thư viện thẻ tùy biến phong phú, hiển thị theo dạng lát gạch và kiểm chứng nội dụng (form validation). Nó cũng hỗ trợ nhiều lớp hiển thị khác nhau (presentation layers), bao gồm JSP, XML/XSLT, JavaServer Faces (JSF), và Velocity, cũng như nhiều lớp mô hình khác nhau, bao gồm JavaBeans và EJB.
Các bộ khung MVC khác
Mặc dù Struts được lập tài liệu hướng dẫn rất tốt, trở thành một bộ khung phổ biến và vững chắc cho việc phát triển các ứng dụng Java, nó vẫn đang gặp những thử thách mới từ các bộ khung MVC "nhẹ và đơn giản hơn" mới ra đời như Spring và Tapestry. Chuẩn và bộ khung mới XForms có thể là một lựa chọn khác cho việc kiểm chứng nội dung các trang web phức tạp (web form validations) kèm theo Struts trong tương lai.
Các bộ khung MVC khác mà không phụ thuộc vào Java gồm có Ruby on Rails và WebObjects.
Xem thêm
Model-view-controller
Jakarta
Java 2 Platform, Enterprise Edition
Tham khảo
Bill Siggelkow: Jakarta Struts Cookbook, O'Reilly, ISBN 0-596-00771-X
James Goodwill, Richard Hightower: Professional Jakarta Struts, Wrox Press, ISBN 0764544373
John Carnell và Rob Harrop: Pro Jakarta Struts, Second Edition, Apress, ISBN 159059228X
John Carnell, Jeff Linwood và Maciej Zawadzki: Professional Struts Applications: Building Web Sites with Struts, ObjectRelationalBridge, Lucene, and Velocity, Apress, ISBN 1590592557
Ted Husted, etc: Struts in Action, Manning Publications Company, ISBN 1-930110-50-2
Struts View Assembly and Validation, (PDF format).
Stephan Wiesner: Learning Jakarta Struts 1.2, Packt Publishing, 2005 ISBN 1-904811-54-X
Liên kết ngoài
Apache Struts' home page
AppFuse
Struts-Layout : Thư viện TagLib rất phong phú cho Struts
Công nghệ Java
Dự án của tổ chức Phần mềm Apache
Bộ khung ứng dụng Web
|
25409
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diesel%20sinh%20h%E1%BB%8Dc
|
Diesel sinh học
|
Diesel sinh học là một loại nhiên liệu có tính chất tương đương với nhiên liệu dầu diesel nhưng không phải được sản xuất từ dầu mỏ mà từ dầu thực vật hay mỡ động vật. Diesel sinh học nói riêng, hay nhiên liệu sinh học nói chung, là một loại năng lượng tái tạo. Nhìn theo phương diện hóa học thì diesel sinh học là methyl este của những axít béo.
Để kỷ niệm ngày 10 tháng 8 năm 1893, ngày chiếc động cơ Diesel do Rudolf Diesel phát triển tại Ausburg tự chạy lần đầu tiên, ngày 10 tháng 8 là ngày Diesel sinh học Quốc tế (International Biodiesel Day).
Sản xuất
Để sản xuất diesel sinh học người ta pha khoảng 10% mêtanol vào dầu thực vật và dùng nhiều chất xúc tác khác nhau (đặc biệt là hiđrôxít kali, hiđrôxít natri và các ancolat). Ở áp suất thông thường và nhiệt độ vào khoảng 60 °C liên kết este của glyxêrin trong dầu thực vật bị phá hủy và các axít béo sẽ được este hóa với mêtanol. Chất glyxêrin hình thành phải được tách ra khỏi dầu diesel sinh học sau đấy.
Thông qua việc chuyển đổi este này dầu diesel sinh học có độ nhớt ít hơn dầu thực vật rất nhiều và có thể được dùng làm nhiên liệu thay thế cho dầu diesel mà không cần phải cải biến động cơ để phù hợp.
Chữ đầu tự dùng cho tất cả các methyl este từ dầu thực vật theo DIN EN 14214 là PME (có giá trị toàn châu Âu từ 2004).
Tùy theo loại của nguyên liệu cơ bản người ta còn chia ra thành:
RME: Mêthyl este của cây cải dầu (Brassica napus) theo DIN EN 14214 (có giá trị toàn châu Âu từ 2004)
SME: Mêthyl este của dầu cây đậu nành hay dầu cây hướng dương.
PME: Mêthyl este của dầu dừa hay dầu hạt cau.
Bên cạnh đó còn có mêthyl este từ mỡ nhưng chỉ có những sản phẩm hoàn toàn từ dầu thực vật (PME và đặc biệt là RME) là được dùng trong các loại xe diesel hiện đại, khi được các nhà sản xuất cho phép.
Các vấn đề khi chuyển sang dùng diesel sinh học
Khi muốn chuyển sang sử dụng diesel sinh học thì chính sách thông tin của nhà sản xuất xe có thể trở thành một vấn đề lớn. Thường thì chỉ sau khi tốn nhiều thời gian kiên trì đặt câu hỏi người ta mới nhận được thông tin về việc là liệu một kiểu xe nhất định đã được cho phép dùng diesel sinh học hay không và mặc dù là diesel sinh học đã có trên thị trường từ 10 năm nay nhưng phần lớn các ô tô được sản xuất hằng loạt đều không thích nghi với diesel sinh học.
Khi dùng nhiên liệu diesel sinh học cho một xe cơ giới không thích nghi với PME, diesel sinh học sẽ phá hủy các ống dẫn nhiên liệu và các vòng đệm bằng cao su. Nguyên nhân là do diesel sinh học có tính chất hóa học của một chất làm mềm, chất cũng có trong các ống dẫn nhiên liệu và vòng đệm bằng cao su. Diesel sinh học sẽ thay thế các chất làm mềm trong các ống và vòng đệm này, vật liệu lúc đầu sẽ phồng lên, lúc này nếu dùng dầu diesel có nguồn gốc từ dầu mỏ thì dầu diesel này sẽ rửa sạch diesel sinh học. Không có chất làm mềm vật liệu sẽ cứng và bị thẩm thấu nước.
Một vấn đề khác là việc nhiên liệu đi vào nhớt động cơ tại các động cơ Diesel có bộ phun nhiên liệu trực tiếp. Vấn đề này thường xảy ra trong thời gian vận hành khi động cơ được vận hành có những thời gian chạy không tải lâu dài. Lượng nhiên liệu phun càng ít thì chất lượng phân tán của miệng phun càng giảm và vì thế có xu hướng hình thành những giọt nhiên liệu không cháy bám vào thành của xi lanh nhiều hơn và sau đó là đi vào hệ thống tuần hoàn bôi trơn. Tại đây độ bền hóa học kém của RME là một nhược điểm: RME bị phân hủy dần trong hệ tuần hoàn bôi trơn vì nhiệt độ cao tại đây, dẫn đến các chất cặn thể rắn hay ở dạng keo. Vấn đề này và tính bôi trơn kém đi của nhớt động cơ khi có nồng độ nhiên liệu cao có thể dẫn đến việc động cơ bị hao mòn nhiều hơn, vì thế mà người ta khuyên là khi vận hành bằng PME nên rút ngắn thời kỳ thay nhớt.
Một ưu điểm của PME có thể lại trở thành nhược điểm khi được sử dụng thực tế ở các loại xe cơ giới: dễ bị phân hủy bằng sinh học và đi cùng là không bền lâu. Oxy hóa và nước tích tụ sẽ làm xấu đi các tính chất của PME sau một thời gian tồn trữ. Vì thế mà PME thường ít được khuyên dùng cho các xe ít được vận hành.
Ngoài ra thì vì việc đốt cháy khác nhau nên các động cơ mới không được chứng nhận là thích nghi với PME có thể có vấn đề với các bộ phận điện tử của động cơ, những thiết bị mà đã được điều chỉnh để dùng với diesel thông thường. Đặc biệt là những xe cơ giới được trang bị bộ lọc muội than trong khí thải thường hay có vấn đề vì những hệ thống này đã được điều chỉnh trước để tăng lượng nhiên liệu phun sau mỗi 500 đến 1.000 km nhằm đốt các hạt muội than trong bộ lọc. Điều tốt và có lý nếu dùng diesel thông thường này lại trở thành điều xấu khi dùng diesel sinh học: nếu sử dụng diesel sinh học thì việc tăng lượng nhiên liệu phun sẽ làm loãng nhớt động cơ. Nếu sử dụng thuần túy diesel sinh học thì việc đốt các hạt muội than trong bộ lọc trở thành không cần thiết nữa. Vì thế trong tương lai sẽ có những thiết bị cảm biến nhiên liệu dùng để nhận biết chất lượng của nhiên liệu. Lượng và thời điểm phun nhiên liệu đều có thể được tối ưu hóa.
Kinh nghiệm trong lãnh vực xe chuyên chở cho thấy là việc sử dụng diesel sinh học nhiều năm có thể dẫn đến hư hỏng bơm nhiên liệu, đặc biệt là ở những động cơ có bộ phận bơm–phun nhiên liệu trực tiếp. Xe này tuy đã được cho phép vận hành với diesel sinh học nhưng nhà sản xuất bộ phận bơm phun (Bosch AG) thì lại không cho phép công khai dùng với RME. Người ta nói là vì phân tử RME có độ lớn khác với diesel thông thường và các phân tử RME trong các kênh dẫn tinh vi không có khả năng bôi trơn đầy đủ ở áp suất cao và vì thế là nguyên nhân dẫn đến hao mòn nhanh hơn.
Nguyên liệu cây cải dầu
Sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu
Với điều kiện ở châu Âu thì cây cải dầu (Brassica napus) với lượng dầu từ 40% đến 50% là cây thích hợp để dùng làm nguyên liệu sản xuất diesel sinh học. Dầu được ép ra từ cây cải dầu, phần còn lại được dùng trong công nghiệp sản xuất thức ăn cho gia súc. Trong một phản ứng hóa học đơn giản giữa dầu cải và mêtanol có sự hiện diện của một chất xúc tác, glyxêrin và mêtanol trao đổi vị trí cho nhau, tạo thành methyl este của axít béo và glyxêrin.
Ưu và nhược điểm đối với môi trường
Quy trình sản xuất không có chất thải vì tất cả các sản phẩm phụ đều có thể được tiếp tục sử dụng. Bã cây cải dầu được dùng làm thức ăn gia súc và glyxêrin có thể được tiếp tục dùng trong công nghiệp hóa (thí dụ như trong mỹ phẩm).
Thế nhưng cây cải dầu phải được trồng luân canh, tức là chỉ có thể trồng cây cải dầu trên cùng một cánh đồng từ 3 đến 5 năm một lần. Vì nguyên nhân này mà việc tiếp tục tăng sản xuất cải dầu là một việc khó khăn.
Một hạn chế khác là diện tích canh tác. Hiện nay (2006) ở Đức có hơn 1,2 triệu hecta, tức 1/10 diện tích canh tác nông nghiệp, được dùng để trồng cây cải dầu. Theo nhiều chuyên gia, việc mở rộng diện tích canh tác lên khoảng 1,5 triệu hecta là điều không thể. Do đó, tối đa nước Đức chỉ có thể sản xuất được vào khoảng 2 triệu tấn diesel sinh học. Trong khi đó nhu cầu dầu mỏ hiện nay của nước Đức là vào khoảng 130 triệu tấn hằng năm.
Ngoài ra, việc sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu cần dùng rất nhiều năng lượng cho phân bón và xử lý tiếp theo và vì thế tiêu hủy một phần lớn tiềm năng tiết kiệm năng lượng.
Tiềm năng thị trường của diesel sinh học
Diesel sinh học được tạo thành từ một phản ứng hóa học rất đơn giản. Diesel sinh học có nhiều ưu điểm đối với môi trường so với diesel thông thường: Diesel sinh học từ cây cải dầu phát sinh khí thải ít hơn rất nhiều so với nhiên liệu hóa thạch. Bụi trong khí thải được giảm một nửa, các hợp chất hyđrocacbon được giảm thiểu đến 40%. Diesel sinh học gần như không chứa đựng lưu huỳnh, không độc và có thể được dễ dàng phân hủy bằng sinh học. Diesel sinh học hiện nay được coi là một trong những nhiên liệu thân thiện với môi trường nhất trên thị trường. Mặc dầu hiện nay có thể mua diesel sinh học tại rất nhiều trạm xăng (riêng tại Đức là 1.900 trạm) nhưng diesel sinh học chưa được người tiêu dùng sử dụng nhiều do có nhiều nguyên nhân: Nhiều người tiêu dùng không tin tưởng vào loại nhiên liệu mới này vì không tưởng tượng được là có thể lái xe dùng một nhiên liệu hoàn toàn từ thực vật. Một vấn đề khác là rất nhiều người không biết chắc chắn là liệu ô tô của họ có thể sử dụng được diesel sinh học hay không.
Thiếu thông tin cho người tiêu dùng và các câu hỏi về hư hỏng sau này do diesel sinh học gây ra có thể là những vấn đề lớn nhất cho việc chấp nhận rộng rãi việc dùng diesel sinh học. Tại châu Âu đã nhiều lần có ý kiến cho là nên pha thêm vào nhiên liệu diesel thông thường khoảng từ 3% đến 5% diesel sinh học vì phần diesel sinh học này được coi là không có hại ngay cả cho những xe cơ giới chưa được trang bị thích hợp. Ở Pháp việc này đã được thực hiện từ lâu: Diesel thông thường được pha trộn thêm lượng diesel sinh học mà nông nghiệp nước Pháp có khả năng sản xuất. Tại Pháp chất lượng diesel thông thường có thành phần diesel sinh học là 5%, tránh được các nhược điểm kỹ thuật.
Từ đầu năm 2004 các trạm xăng ARAL và Shell ở Đức đã bắt đầu thực hiện chỉ thị 2003/30/EC của EU mà theo đó từ ngày 31 tháng 12 năm 2005 ít nhất là 2% và cho đến 31 tháng 12 năm 2010 ít nhất là 5,75% các nhiên liệu dùng để chuyên chở phải có nguồn gốc tái tạo.
Tại Áo một phần của chỉ thị của EU đã được thực hiện sớm hơn và từ ngày 1 tháng 11 năm 2005 chỉ còn có dầu diesel với 5% có nguồn gốc sinh học là được phép bán.
Các lựa chọn khác
Ngoài ra cũng cần phải nhắc đến các lựa chọn thích hợp khác cho diesel sinh học. Người ta cũng có thể sử dụng nhiên liệu dầu thực vật trực tiếp không cần phải chuyển đổi este. Tùy theo loại động cơ mà phải thay đổi một số thông số cho động cơ Diesel để điều chỉnh thích ứng với các tính chất vật lý khác đi.
Trong tương lai sẽ còn có nhiên liệu sinh khối lỏng (tiếng Anh: Biomass to Liquids) thay vì là dầu thực vật sẽ sử dụng toàn bộ khối lượng của cây như là nguồn cung cấp năng lượng. Các thử nghiệm đầu tiên với nhiên liệu sinh học tổng hợp này đã được tiến hành từ tháng 4 năm 2003 tại Đức. Loại nhiên liệu này, gọi là SunDiesel, được sản xuất từ gỗ và các loại sinh khối khác.
Đọc thêm
Năng lượng tái tạo
Nhiên liệu dầu thực vật
Tham khảo
Sven Geitmann: Erneuerbare Energien und alternative Kraftstoffe (Năng lượng tái tạo và nhiên liệu lựa chọn khác), Hydrogeit Verlag, 2. Aufl., Jan.
Spiegel special 5/2006
Liên kết ngoài
Học cách sản xuất diesel sinh học - Một hướng dẫn tập thể về diesel sinh học (tiếng Anh)
Quá trình biến đổi – transeste hóa dầu thực vật thành biodiesel có sự trợ giúp của siêu âm
U.S. National Biodiesel Board (NBB) (tiếng Anh)
Nhiên liệu sinh học
Hóa chất hàng hóa
|
25432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Điện tử (định hướng)
|
Điện tử (tương đương tiếng Anh: Electronic) nghĩa Hán Việt là phần tử mang điện, và đã được dùng trong tiếng Việt với các nghĩa:
Ban đầu, điện tử được dùng để gọi tên hạt electron.
Sau này, các hệ thống hoạt động với dòng các điện tử được gọi là linh kiện điện tử.
Môn học nghiên cứu các linh kiện điện tử và công nghệ thiết kế, chế tạo, lắp ráp chúng được gọi là điện tử học.
Phân khoa trong trường đại học giảng dạy về môn điện tử học thường được gọi là "khoa điện tử".
Ngành công nghiệp chế tạo và phân phối các sản phẩm chứa các linh kiện điện tử là công nghiệp điện tử.
|
25437
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A7n%20Lan
|
Phần Lan
|
Phần Lan (, ), tên chính thức là Cộng hòa Phần Lan (, ) là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía Bắc và Estonia về phía Nam qua Vịnh Phần Lan. Thủ đô của Phần Lan là Helsinki và cũng là thành phố lớn nhất.
Phần Lan là một trong những quốc gia dân cư thưa thớt nhất châu Âu. Theo số liệu tháng 12 năm 2020, dân số Phần Lan là 5.546.233 người. Với mật độ dân số chỉ khoảng 18 người/km², Phần Lan trở thành quốc gia có mật độ dân cư thấp nhất trong các nước Liên minh châu Âu. Ngôn ngữ chính tại nước này là tiếng Phần Lan - một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ural. Bên cạnh đó, tiếng Thuỵ Điển là ngôn ngữ chính thức thứ hai của nước này.
Trong lịch sử, Phần Lan từng là một phần của Thụy Điển trong một thời gian dài (từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII) rồi sau đó trở thành một đại công quốc dưới sự cai trị của Sa hoàng nước Nga trong khoảng thời gian 1809-1917. Ngày 6 tháng 12 năm 1917, Phần Lan chính thức tuyên bố độc lập, trở thành một nước cộng hòa. Năm 1918, đất nước Phần Lan non trẻ bị chia rẽ bởi cuộc nội chiến, giữa một bên là phe Hồng quân Bolshevik được hỗ trợ bởi nước Nga Xô Viết, và một bên là phe Bạch vệ, được Đế chế Đức hậu thuẫn. Sau một nỗ lực ngắn để thiết lập một vương quốc, đất nước đã trở thành một nền cộng hòa. Trong Thế chiến II, Liên Xô đã liên tục tìm cách chiếm đóng Phần Lan, Phần Lan đã buộc phải cắt nhượng cho Liên Xô một phần lãnh thổ của mình bao gồm Karelia, Salla, Kuusamo, Petsamo và một số đảo, nhưng đất nước vẫn giữ được độc lập. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan giữ vai trò như một nước trung lập và đã chuyển đổi nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp phát triển cao vào hàng bậc nhất châu Âu.
Phần Lan đã xây dựng được một nhà nước phúc lợi rộng rãi dựa trên mô hình Bắc Âu, đem lại sự thịnh vượng cho toàn dân và trở thành một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trên thế giới. Phần Lan giữ thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng quốc tế về giáo dục, khả năng cạnh tranh kinh tế, tự do dân chủ, chất lượng cuộc sống và phát triển con người . Ngày nay, Phần Lan là một quốc gia dân chủ theo chế độ cộng hòa nghị viện. Nước này là thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1955 và gia nhập Liên minh châu Âu vào năm 1995.
Từ nguyên
Tên gọi "Phần Lan" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, Phần Lan được gọi là "Finland". Bằng tiếng Trung, "Fin-land" được phiên âm là “芬蘭” (pinyin: "Fēn lán"). “芬蘭” có âm Hán Việt là “Phân Lan”. Do "Phân" là từ tế nhị, “Phân Lan” trong tiếng Việt được gọi chệch thành “Phần Lan”.
Nguồn gốc xa xưa của tên gọi Phần Lan (Finland) được cho là bắt nguồn từ 3 tảng đá khắc chữ Rune (hệ thống chữ cái của người Bắc Âu từ thế kỉ I đến giữa thời Trung Cổ). 2 tảng đá được tìm thấy ở Uppland, một vùng nhỏ thuộc Thuỵ Điển, và trên 2 tảng này có khắc chữ finlonti (U 582). Tảng đá thứ 3 được tìm thấy ở Gotland, khu biển Ban-tích (Baltic Sea). Trên tảng này có khắc từ Finlandi (G319) và có từ thế kỷ XIII.
Địa lý
Phần Lan nằm ở phía Bắc châu Âu giữa vĩ tuyến 60° và 70°. Một phần tư lãnh thổ là nằm phía bắc của Vòng Bắc Cực (vĩ tuyến 66°33' Bắc). Các nước láng giềng của Phần Lan là Thụy Điển, Na Uy, Nga và Estonia. Phần Lan thuộc Bắc Âu. Gần 1/3 lãnh thổ của Phần Lan nằm ở phía bắc vành đai Bắc cực. Hồ chiếm 1/10 diện tích của Phần Lan (tổng số khoảng 188.000 hồ). Hồ lớn nhất là hồ Saimaa rộng hơn 4.400 km². Phần Lan có 179.000 đảo khác nhau. Vào mùa đông, vịnh Bothnia ở phía Tây và Vịnh Phần Lan ở phía Nam đóng băng, ở các cảng phải sử dụng tàu phá băng. Đất của Phần Lan là đất băng giá. Trừ khu vực núi cao có đỉnh tới 1.342 m ở phía Tây Bắc, phần lớn diện tích còn lại của Phần Lan là đất thấp.
Khí hậu: Mùa hạ ấm. Mùa đông dài và rất lạnh, nhất là ở phía Bắc.
Khí hậu của Phần Lan có sự khác biệt rõ rệt vào mùa đông và mùa hè, nhiệt độ trung bình hằng năm tại thủ đô Helsinki khoảng 5,3°C. Nhiệt độ cao nhất vào ban ngày ở miền Nam của Phần Lan đôi khi cũng lên tới 25 °C. Vào mùa đông, nhất là vào những tháng 1, tháng 2, nhiệt độ thông thường là -20 °C. Phía cực bắc của Phần Lan, dưới vòng Bắc Cực, vào mùa hè có đợt Mặt trời không lặn trong khoảng 73 ngày, đó là những ngày "hè đêm trắng", còn vào mùa đông Mặt Trời không mọc trong 51 ngày liền.
Lịch sử
Khoảng thế kỷ I, người Phần Lan ở Estonia đến định cư ở các vùng phía Nam và đến khoảng năm 800 thì mở rộng đến vùng Karelia, nơi đã xuất hiện những cư dân khác gốc Phần Lan-Ugria, từ phía Đông đến lập nghiệp. Họ buôn bán lông thú rất phát đạt đến khi bị dân Viking cạnh tranh dần khắp vùng phía Nam. Khoảng năm 1150, vua Erik IX của Thụy Điển đã tiến hành một cuộc Thập tự chinh nhằm vào những người Phần Lan vô thần.
Cuộc chinh phục Phần Lan của Thụy Điển bắt đầu từ thế kỷ XII và kết thúc vào năm 1634. Trong cuộc cải cách tôn giáo ở thế kỷ XVIII, phần lớn người Phần Lan theo giáo phái của Martin Luther. Nga xâm lược phần lớn lãnh thổ của Phần Lan vào năm 1809. Trong suốt thế kỷ XIX, Phần Lan là một đại công quốc do Sa hoàng cai quản. Tình hình trở nên căng thẳng khi Đế quốc Nga muốn củng cố quyền lực chính trị và tăng cường ảnh hưởng văn hoá. Năm 1906, Phần Lan được phép triệu tập viện Duma (quốc hội) riêng, nhưng đến năm 1910 lại bị bãi bỏ. Sau cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, nội chiến nổ ra tại Phần Lan. Năm 1919, Lenin và nhà nước Xô Viết của Nga đã buộc phải trao quyền tự do cho Phần Lan. Thể chế cộng hòa độc lập được thiết lập và tồn tại cho tới ngày nay. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan giữ vai trò của một nước độc lập và trung lập. Phần Lan có được phần nào ảnh hưởng do thực hiện nghiêm chỉnh vai trò trung lập của mình, ví dụ vai trò chủ nhà của các phiên họp đầu tiên của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu. Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), Phần Lan đã nối lại quan hệ gần gũi vốn có với Nga và xin gia nhập Cộng đồng châu Âu.
Từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX, Phần Lan là phần lãnh thổ lớn thuộc Thụy Điển và sau đó là lãnh thổ tự trị của Nga sau năm 1809. Phần Lan hoàn toàn độc lập vào năm 1917. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan đã bảo vệ được nền độc lập của mình và chống lại sự xâm lược của Liên Xô (Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan) mặc dù bị mất một phần lãnh thổ. Nửa thế kỷ sau đó, người Phần Lan đã có một sự biến đổi lớn từ một nền kinh tế nông-lâm nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế công nghiệp hiện đại đa dạng hoá, thu nhập đầu người tương đương với các nước Tây Âu. Là thành viên của Liên minh châu Âu, Phần Lan là quốc gia Bắc Âu duy nhất tham gia đồng tiền chung euro bắt đầu từ tháng 1 năm 1999.
Niên biểu
1155: Giáo sĩ đầu tiên là người Thụy Điển đến Phần Lan. Phần Lan trở thành một phần lãnh địa của Thụy Điển.
1809: Thụy Điển nhượng Phần Lan cho Nga hoàng, Nga hoàng tuyên thệ Phần Lan là lãnh thổ tự trị thuộc Nga.
1917: 2 tháng sau cuộc Cách mạng Phần Lan tuyên bố độc lập chủ quyền, cũng như không còn là vùng tự trị của Nga hoàng vào ngày 6 tháng 12.
1919: Phần Lan thiết lập hiến pháp, trở thành một quốc gia cộng hòa với sự đứng đầu là tổng thống.
1939-1940: Liên Xô tấn công Phần Lan, nổ ra cuộc Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940).
1941-1944: Cuộc chiến tranh giữa Phần Lan và Liên Xô tiếp tục trong cuộc chiến tranh Tiếp diễn.30% lãnh thổ của Phần Lan phải nhựơng lại cho Liên Xô và 11% sản lượng công nghiệp của nước này bị mất vào tay Liên Xô.
1955: Phần Lan gia nhập Liên hiệp quốc và trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956.
1995: Phần Lan trở thành thành viên của EU.
Chính trị
Phần Lan đã có hiến pháp và hình thức chính quyền riêng khi còn là một đại công quốc tự trị thuộc Nga. Hiến pháp Phần Lan được phê chuẩn ngày 17 tháng 7 năm 1919 và vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. Về cơ bản, hiến pháp đảm bào các quyền công dân, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Quyền lực tối cao nằm trong tay người dân, mà quốc hội là đại diện.
Quốc hội
Quốc hội Phần Lan gồm một viện với 200 ghế. Năm 1928, Luật Quốc hội được thông qua. Nó đặt ra cơ cấu, trách nhiệm và cơ chế bầu cử quốc hội. Các thành viên trong quốc hội được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo hiến pháp, quốc hội bầu ra thủ tướng, sau đó được tổng thống bổ nhiệm vào nội các. Các bộ trưởng cũng được tổng thống bổ nhiệm dựa trên sự đề xuất của thủ tướng.Trong vài thập kỷ qua quyền lực của Tổng thống đã bị giảm bớt. Trong bản sửa đổi hiến pháp, có hiệu lực vào năm 1991 hoặc 1992 cùng với một hiến pháp mới được soạn thảo năm 2000, được sửa đổi vào năm 2012, Tổng thống đã dần dần trở thành một nhân vật mang tính nghi thức. Nhiều tổng thống đã từng là thủ tướng trước khi tiếp nhận chức tổng thống. Juha Sipilä là Thủ tướng Phần Lan hiện tại, đồng thời là chủ tịch Đảng Trung tâm Phần Lan, một đảng trung dung.
Sau cuộc bầu cử quốc hội ngày 19 tháng 4 năm 2015, các ghế trong quốc hội được phân chia như sau:
Tổng thống
Tổng thống Phần Lan là người đứng đầu nhà nước Phần Lan, được bầu với nhiệm kỳ 6 năm. Kể từ năm 1991, không vị tổng thống nào được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống phải là người Phần Lan. Các chính đảng có ít nhất 1 ghế trong quốc hội được quyền đề cử ứng viên tổng thống. Tuy nhiên bất cứ ai thu thập được hơn 20.000 chữ ký cũng có thể ứng cử.
Thủ tướng Phần Lan hiện tại là ông Petteri Orpo, nhậm chức kể từ ngày 20 tháng 6 năm 2023.
Ngoại giao
Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ quá khứ của lịch sử, trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực; giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, các khối; không tham gia các khối quân sự; ủng hộ và thúc đẩy cho các hoạt động vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế; ủng hộ đối thoại giữa các nước và khu vực.
Năm 2008, Phần Lan là Chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng như các nước Bắc Âu, Nga và các nước ở vùng biển Baltic. Mới đây, Phần Lan đã thông qua Hiệp ước Lisbon. Hiện nay, Phần Lan đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình (Partnership for Peace) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO (tuy nhiên phần lớn dân Phần Lan muốn tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại trung lập). Chính phủ Phần Lan cũng chú trọng phát triển quan hệ với châu Á, nhất là với các nền kinh tế đang nổi lên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Phần Lan thâm nhập thị trường, phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh.
Phần Lan trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1950; Liên Hợp Quốc và Hội đồng Bắc Âu năm 1955; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1969; liên kết với Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ năm 1986; ký Hiệp định Tự do thương mại với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) năm 1973. Phần Lan gia nhập Liên hiệp châu Âu (EU) từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 và EMU từ 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan cũng là thành viên của Tổ chức Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng phát triển trên thế giới như ADB...
Sau chiến dịch quân sự đặc Biệt của Nga năm 2022 Phần Lan đã tuyên bố chấm thời kỳ trung lập và xin gia nhập NATO.
Hành chính
Phần Lan bao gồm 19 khu vực được gọi là maakunta bằng tiếng Phần Lan và landskap bằng tiếng Thụy Điển. Các khu vực được quản lý bởi các hội đồng khu vực đóng vai trò là diễn đàn hợp tác cho các đô thị của một khu vực. Nhiệm vụ chính của khu vực là quy hoạch vùng và phát triển doanh nghiệp và giáo dục. Ngoài ra, các dịch vụ y tế công cộng thường được tổ chức trên cơ sở các vùng. Hiện tại, khu vực duy nhất nơi một cuộc bầu cử phổ biến được tổ chức cho hội đồng là Kainuu. Hội đồng khu vực khác được bầu bởi các hội đồng thành phố, mỗi đô thị gửi đại diện theo tỷ lệ dân số của nó.
Phần Lan được chia thành 6 tỉnh Åland • Đông Phần Lan • Lapland • Nam Phần Lan • Oulu • Tây Phần Lan, ngoài ra, Åland được chỉ định là tỉnh thứ bảy.
Luật pháp
Hệ thống tư pháp của Phần Lan là một hệ thống luật dân sự được phân chia giữa những tòa án với thẩm quyền dân sự và hình sự thường xuyên với những tòa án hành chính có thẩm quyền đối với các vụ kiện giữa các cá nhân và chính quyền công. Luật Phần Lan được luật hóa và dựa trên luật pháp Thụy Điển và rộng hơn là bộ luật La Mã. Hệ thống tòa án dân sự và quyền tài phán hình sự bao gồm các tòa án địa phương (käräjäoikeus, tingsrätt), tòa phúc thẩm khu vực (hovioikeus, hovrätt), và Tòa án tối cao (korkein oikeus, högsta domstolen). Chi nhánh hành chính của tòa án bao gồm các tòa án hành chính (hallinto-oikeus, förvaltningsdomstol) và Tòa án Hành chính Tối cao (korkein hallinto-oikeus, högsta förvaltningsdomstolen). Ngoài các tòa án thông thường, có một vài tòa án đặc biệt ở chi nhánh nhất định của chính quyền. Ngoài ra còn có một Tòa án Tối cao chuyên luận tội đối với các cáo buộc hình sự chống lại các cán bộ cấp cao trong chính quyền.
Khoảng 92% người dân Phần Lan tuyên bố họ tin tưởng vào lực lượng an ninh của đất nước này . Tỷ lệ tội phạm của Phần Lan nhìn chung là không cao trong số các nước EU. Một số loại tội phạm có tỉ lệ ở trên mức trung bình, đáng chú ý tỷ lệ giết người ở Phần Lan là cao nhất trong số các nước Tây Âu .
Phần Lan đã chiến đấu mạnh mẽ để chống lại tình trạng tham nhũng trong bộ máy chính phủ từ những năm 70 và 80. Ngày nay, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng Phần Lan là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất ở châu Âu.
An sinh xã hội
Phần Lan có một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới, một hệ thống đảm bảo tốt điều kiện sống cho tất cả người dân. Kể từ những năm 1980, an sinh xã hội đã được cắt giảm, nhưng hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan vẫn là một trong những hệ thống an sinh xã hội phát triển toàn diện nhất và tiến bộ nhất trên thế giới. Hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh.
Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.
Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương – các chính quyền tự trị – cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp rất cao.
Hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan cung cấp cho người dân:
Các chương trình an sinh xã hội: Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhập được phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội .
Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày .
Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có một con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động .
Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5% .
Trợ cấp gia đình: Được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng. Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó . Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con. Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ ở Phần Lan kéo dài đến 18 tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 70-90% tiền lương. Theo đó trợ cấp dành cho một đứa trẻ mới sinh trong mỗi gia đình là 100 euro/tháng, từ đứa thứ 3 là 141 euro/tháng và từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng. Khoản tiền này có thể được cung cấp cho đến khi đứa trẻ 17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ được chào đời, chính phủ sẽ tặng cho mỗi bà mẹ một chiếc hộp dụng cụ với đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ trẻ em, túi ngủ, đồ dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn miễn phí và được áp dụng với tất cả mọi người không kể giàu nghèo.
Dịch vụ chăm sóc trẻ em: Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp.
Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả… được cung cấp miễn phí .
Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sĩ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sĩ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sĩ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác .
Kinh tế
Từ một nước bị tàn phá sau chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung vào xây dựng đất nước và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển hàng đầu thế giới với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống, có chuyên môn hoá cao như công nghiệp gỗ giấy; luyện kim; đóng tàu và vận tải; cơ khí; điện tử, viễn thông; công nghiệp hoá chất, dược phẩm. Về nông nghiệp, Phần Lan có 2.504 ngàn héc-ta đất trồng trọt (chiếm 8% diện tích), tự túc 85% lương thực.
Chính phủ Phần Lan luôn chú trọng gắn giáo dục với nghiên cứu và sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, trong đó hiện nay tập trung vào công nghệ thông tin. Theo xếp hạng của Ủy ban Sáng tạo châu Âu (EIS), Phần Lan được xếp là nền kinh tế sáng tạo thứ ba thế giới, vượt xa mức trung bình của châu Âu và Mỹ, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2004) đánh giá là đất nước có "văn hóa sáng tạo", trong đó Nokia là một điển hình.
Tình hình kinh tế của Phần Lan hiện nay nhìn chung ổn định. Kinh tế Phần Lan đã chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu (thu nhập từ xuất khẩu, chiếm 40% GDP của Phần Lan, đã giảm mạnh). Tuy nhiên, theo đánh giá mới đây của EU, về trung và dài hạn, Phần Lan có nền kinh tế ổn định và vững chắc. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2017 là là 7,5% (2010 là 8,4%).
Rừng chiếm 2/3 diện tích của Phần Lan và các sản phẩm gỗ chiếm 45% số ngoại tệ thu được ở Phần Lan. Điện thoại di động Nokia (chính gốc là của Phần Lan) hiện đang chiếm một con số đáng kể trong doanh thu của kinh tế Phần Lan. Chế biến kim loại và cơ khí, đặc biệt đóng tàu là các ngành công nghiệp chính của Phần Lan nổi tiếng về chất lượng và thiết kế. Ngoài gỗ, quặng đồng và thủy điện, các nguồn tài nguyên khác đều nghèo. Phần Lan có mức sống cao, mặc dù việc buôn bán với Nga, bạn hàng chủ yếu, bị sụp đổ kéo theo những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế trong những năm 1991-1992. Công nghiệp đánh cá có quy mô đáng kể. Nông nghiệp sản xuất ra các sản phẩm sữa cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Các đối tác thương mại lớn nhất của Phần Lan là với Đức, Nga, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc. Phần Lan là quốc gia Bắc Âu duy nhất tham gia Eurozone.
Tính đến năm 2016, GDP của Phần Lan đạt 239,186 tỷ USD, đứng thứ 44 thế giới và đứng thứ 17 châu Âu.
Công nghiệp
Phần Lan tiến hành công nghiệp hóa nhanh chóng sau Thế chiến II, đạt mức GDP bình quân đầu người ngang bằng với Nhật Bản và Anh vào đầu những năm 1970. Ban đầu, phần lớn sự phát triển dựa trên hai nhóm ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, là "công nghiệp kim loại" (metalliteollisuus) và "công nghiệp rừng" (metsäteollisuus). Các "ngành công nghiệp kim loại" bao gồm đóng tàu, gia công kim loại, ngành công nghiệp xe hơi, các sản phẩm thiết kế như động cơ và điện tử, và sản xuất kim loại (thép, đồng và crom). Những con tàu du lịch lớn nhất thế giới được chế tạo tại các xưởng đóng tàu của Phần Lan. "Ngành công nghiệp rừng" bao gồm lâm nghiệp, gỗ, bột giấy và giấy, và là một sự phát triển hợp lý dựa trên nguồn tài nguyên rừng rộng lớn của Phần Lan (77% diện tích được bao phủ bởi rừng, phần lớn là sử dụng tái tạo). Trong ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nhiều công ty lớn nhất có trụ sở tại Phần Lan (Ahlstrom, Metsä Board, và UPM). Tuy nhiên, nền kinh tế Phần Lan đang dần đa dạng hóa, mở rộng sang các lĩnh vực khác như điện tử (như Nokia), đo lường (Vaisala), nhiên liệu vận tải (Neste), hóa chất (Kemira), tư vấn kỹ thuật (Pöyry) và công nghệ thông tin (ví dụ Rovio Entertainment, nổi tiếng với tựa game Angry Birds), và không còn bị chi phối bởi hai ngành công nghiệp kim loại và rừng. Tương tự như vậy, cấu trúc đã thay đổi, với tỉ trọng các ngành dịch vụ ngày càng tăng, và với việc công nghiệp sản xuất ngày càng giảm tầm quan trọng; nông nghiệp thì chỉ chiếm một phần nhỏ.
Thương mại
Thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Phần Lan, trong đó xuất khẩu chiếm tỷ trọng GDP cao. Ba ngành xuất khẩu quan trọng trong nền kinh tế Phần Lan là: Các sản phẩm thép, máy móc và thiết bị vận tải (chiếm 31,1% xuất khẩu); Thiết bị quang học và điện tử (chiếm 28% xuất khẩu); và sản phẩm giấy và gỗ (chiếm 20,3% xuất khẩu). Công nghiệp Phần Lan phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô, máy móc và phụ kiện cần thiết cho sản xuất các sản phẩm tiêu thụ trong nước cũng như cho xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu chính của Phần Lan là Đức, Thuỵ Điển, Nga và Mỹ. Các đối tác nhập khẩu chính là Đức (15,8%), Nga (14%), Thụy Điển (13,7%) và Hà Lan (6,8%).
Chính sách ODA
Phần Lan luôn coi trọng chính sách viện trợ và hợp tác phát triển, coi đây là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Thông qua viện trợ phát triển, Phần Lan mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, qua đó tăng cường khả năng thu hút đầu tư và thương mại của các nước này ("aid for trade"), hướng tới xoá bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới. Ngày 18 tháng 10 năm 2007, chính phủ Phần Lan đã thông qua Chương trình chính sách phát triển (Development Policy Programme) mới với chủ đề "Toward a Sustainable and Just World Community"(Hướng tới một cộng đồng thế giới công bằng và bền vững). Mục tiêu chính của chính sách phát triển mới này là xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững phù hợp với các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Năm 2009, viện trợ phát triển của Phần Lan đạt 0,5% GDI. Phần Lan cam kết tăng viện trợ phát triển lên 0,58% GDI năm 2011 và 0,7% GDI năm 2015. Hiện nay, hợp tác phát triển của Phần Lan tập trung vào 8 nước đối tác dài hạn gồm: Mozambique, Tanzania, Ethiopia, Zambia, Kenya ở châu Phi; Nicaragua ở châu Mỹ Latin; Việt Nam và Nepal ở châu Á.
Du lịch
Phần Lan đã đón hơn 3 triệu du khách nước ngoài trong năm 2017, trong đó có khoảng 1,5 triệu đến từ các quốc gia Liên minh châu Âu . Năm 2013, giá trị của ngành du lịch chiếm khoảng 2,5% GDP của Phần Lan, và cung cấp khoảng 136 700 việc làm .
Cảnh quan chiếm ưu thế tại Phần Lan là những cánh rừng thông dày và những ngọn đồi thoai thoải, cùng với một số lượng rất lớn các hồ nước và những con lạch. Phần lớn lãnh thổ Phần Lan là nguyên sơ và hoang sơ, bao gồm 40 công viên quốc gia từ bờ biển phía Nam của Vịnh Phần Lan đến vùng núi cao Lapland. Phần Lan cũng có các vùng dân cư với nhiều sự kiện và hoạt động văn hóa.
Các chuyến du lịch thương mại giữa các thành phố cảng biển và ven biển lớn ở khu vực Baltic, bao gồm Helsinki, Turku, Tallinn, Stockholm và Travemünde, đóng một vai trò quan trọng trong ngành du lịch địa phương. Phần Lan được coi là quê hương của Thánh Nicholas hay Ông già Noel, sống ở vùng Lapland phía bắc . Ông già Noel thường được cho là sống ở Rovaniemi vùng Lapland phía bắc Phần Lan. Ở thị trấn Rovaniemi còn có một ngôi làng gọi là Làng Santa Claus cho khách du lịch đến tham quan.
Khu vực nằm bên trong Vòng Bắc Cực, vào giữa mùa đông thường xảy ra hiện tượng đêm vùng cực, một khoảng thời gian mà mặt trời không mọc trong nhiều ngày hoặc vài tuần, hoặc thậm chí hàng tháng, vào giữa mùa hè thì lại có hiện tượng ban ngày vùng cực, khi mà mặt trời vẫn có thể chiếu sáng ngay cả khi nửa đêm (73 ngày liên tục, tại điểm cực bắc). Hiện tượng cực quang cũng thường xuyên xuất hiện ở vùng phía bắc đất nước vào một thời điểm nhất định trong năm, đây cũng là thời điểm thu hút khách du lịch.
Ngoài ra, vào mùa đông, Phần Lan mang đến cơ hội trượt tuyết băng đồng và trượt tuyết trên núi cao. Nhiều khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng nằm ở phía bắc của vòng Bắc cực ở Lapland, ngoài ra còn có khu trượt tuyết Kuusamo ở phía đông bắc của tỉnh Oulu và Himos ở Jämsä, chỉ cách Helsinki 200 km về phía bắc.
Nhân khẩu
Dân số
Dân số của Phần Lan xấp xỉ 5.500.000 người. Phần Lan là quốc gia rộng xếp thứ 6 ở châu Âu, mật độ dân số trung bình 18 người/km². Hầu hết người Phần Lan, khoảng 54% sống ở ngoại ô, trong đó 26% sống ở khu vực vùng xa thành phố. Thành phố Helsinki, thủ đô của Phần Lan, có số dân khoảng 626.305 người, Espoo có khoảng 267.906 người và Vantaa có khoảng 212.473 người; một số các thành phố lớn khác là Tampere với số dân 223.238 người, Bắc Oulu 196.860 người, Turku 184.190 người, Jyväskylä 135.591 người và Kuopio là 111.000 người.
Có khoảng 1,8 triệu gia đình ở Phần Lan. Trong số đó các gia đình có trẻ em chiếm khoảng 1,9%. Vào năm 1960 con số đó là 2,27%. Năm 1999 số lực lượng lao động nữ chiếm 2.5 triệu người. Mức thu nhập của họ chiếm 80% so với nam giới và tuổi thọ của nữ giới cũng cao hơn nam. Trung bình tuổi thọ của nữ giới là 83 trong khi nam giới là 76. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1999, nữ chiếm 74 ghế trong tổng số 200.
Chính sách phúc lợi xã hội của Phần Lan rất tốt.Trẻ em khi sinh ra được chính phủ trợ cấp 100 Euro/tháng cho đến khi đủ 18 tuổi. Phụ nữ mang thai được nghỉ 20 tuần nhưng vẫn được trả 100% lương.
Tôn giáo
Phần Lan là một trong các nước có tỉ lệ dân số theo tôn giáo lớn nhất châu Âu, tuy tỉ lệ này đang giảm. Vào năm 2014, khoảng 74% dân số thuộc Giáo hội Lutheran và khoảng 2% thuộc các nhánh Cơ Đốc giáo khác, hay các cộng đồng tôn giáo khác. Khoảng 23,5% dân số không theo tôn giáo nào. Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan chỉ có dưới 60.000 tín đồ, tức là khoảng 1.1% dân số. Tự do tín ngưỡng ở Phần Lan đã được bảo đảm từ năm 1923.
Sự mộ đạo của Phần Lan đã được mô tả một cách khá đúng là "theo đạo nhưng không thường xuyên dự lễ", vì phần lớn người dân không thường xuyên dự các buổi lễ hàng tuần tại nhà thờ. Vai trò của nhà thờ trong đời sống ở Phần Lan được thể hiện rõ hơn trong các sự kiện hàng năm như lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh, và trong các sự kiện quan trọng trong gia đình như lễ báp têm, lễ kiên tín, lễ cưới, và lễ tang.
Cơ Đốc giáo đến Phần Lan vào thế kỷ XI từ cả hai phía Đông và Tây, khi đó Phần Lan thuộc ảnh hưởng của Thụy Điển. Vua Thụy Điển Gustavus Vasa, người trị vì trong thế kỷ XVI, quyết định ủng hộ cuộc Cải cách Tin Lành trong vương quốc của mình, kết quả là tài sản của Giáo hội Công giáo ở Phần Lan bị tịch thu và Giáo hội Lutheran dần được thiết lập là giáo hội dân tộc cùng với Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan sau này.
Trong một thời gian dài, Giáo hội đảm trách các chức năng quan trọng của xã hội như hành chính địa phương và giáo dục, trong khi đó Nhà nước tham gia một phần trong các vấn đề như hành chính, tài chính và điều lệ của Nhà thờ. Giáo hội Tin Lành Lutheran Phần Lan và Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan tiếp tục giữ vai trò đặc biệt, như trong trường học và các nghi lễ quốc gia.
Tín đồ của hai nhà thờ này trả một khoản lệ phí thành viên dưới dạng thuế nhà thờ khoảng từ 1 đến 2.25%, tùy theo từng giáo xứ, được thu cùng với thuế thu nhập. Ngoài ra, các nhà thờ còn được hưởng một phần nhỏ trong thuế doanh nghiệp do các công ty, tập đoàn hay các tổ chức tương tự như vậy đóng góp. Khoản tiền này được dùng để hỗ trợ quản lý các hoạt động phát triển xã hội của nhà thờ như tạo việc làm cho thanh thiếu niên, công việc xã hội, tu sửa nghĩa trang, duy trì sổ đăng ký của nhà thờ, tu sửa các khu nhà lịch sử.
Ngôn ngữ
Tiếng Phần Lan là thành viên của hệ ngôn ngữ Ural. Tiếng Phần Lan, tiếng Estonia nằm trong một nhánh; tiếng Hungary thuộc nhóm lớn trong nhóm ngôn ngữ người Ugri. Ngôn ngữ chính thức của Phần Lan là tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển được sử dụng như tiếng mẹ đẻ khoảng 6% số dân. Một tiếng bản xứ nữa là tiếng Sami được sử dụng bởi những người Sami, còn được biết đến là người Lapp (miền Bắc của Scandinavia). Tiếng Thụy Điển xuất hiện ở Phần Lan do có lịch sử trước đây, thời kỳ đầu thế kỷ XIII cho đến năm 1809, lúc đó Phần Lan là một phần của lãnh địa Thụy Điển.
Số lượng người nước ngoài sống tại Phần Lan khoảng 322,700 người vào năm 2014, chủ yếu tới từ Nga, Estonia, Somalia, Iraq và Nam Tư .
Giáo dục
Hệ thống giáo dục ở Phần Lan là hoàn toàn miễn phí. Chương trình mầm non được dành cho trẻ từ 4 tuổi đến 6 tuổi. Chương trình giáo dục toàn diện bắt buộc trong 9 năm bắt đầu từ 7 tuổi và kết thúc vào 16 tuổi. 6 năm đầu tiên học sinh sẽ được học với 1 giáo viên duy nhất dạy các môn (trừ các môn năng khiếu), 3 năm cuối cấp sẽ được học theo từng giáo viên bộ môn như: Toán, Khoa học, Kinh tế gia đình,... Đại học hoặc học nghề sau phổ thông (bắt buộc) được thực hiện ở năm 17 tuổi.
Các trường Đại học ở Phần Lan:
Đại học Helsinki
Đại học Metropolia
Đại học Aalto
Đại học Haaga-Helia
Đại học Oulu
Đại học Häme
Đại học Vaasa
Đại học Tampere
Đại học Turku
Văn hóa
Biểu tượng quốc gia
Trinh nữ Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomi-neito, tiếng Thụy Điển: Finlands mö) là một cô gái trẻ được xây dựng thành một hình tượng quốc gia (National personification) của Phần Lan, biểu thị sự hiện thân của Phần Lan.
Văn học
Mặc dù được ghi nhận là một trong những nền văn học xuất hiện muộn nhất địa vực Âu châu, nhưng Phần Lan thường được mệnh danh Ngôi sao phương Bắc vì những thành tựu khiến nhiều nền văn học lâu đời phải ganh tị. Cái bất thường của nền văn học từ khi ra đời đến nay là hầu như không song hành ngôn ngữ bản địa, cho dù ngôn ngữ Phần Lan cũng có lịch sử ít nhất một thiên niên kỷ. Trong thực tế, các giá trị tạo nên văn học Phần Lan lại không hữu hạn trong quốc thổ mà tỏa ra Thụy Điển, Estonia, Nga và đặc biệt Karjala - miền đất huyền thoại này được coi là khởi thủy dòng văn học tiếng Phần Lan. Do vậy, thuật ngữ văn học Phần Lan còn có tính quốc tế khá cao.
Do nhiều biến cố lịch sử, văn học Phần Lan được cấu thành trên ba ngôn ngữ: Thụy Điển, Phần Lan và Nga. Vì thế, đôi khi Phần Lan được giới phê bình gọi vui là nền văn học chân thiên nga. Trong đó, văn học tiếng Thụy Điển có giá trị cao nhất và khối lượng cũng đồ sộ hơn cả. Sau Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Phần Lan cùng các cơ quan đặc trách văn hóa đã ra sức nâng tầm tiếng Phần Lan thành quốc ngữ, qua đó dòng văn học tiếng Phần Lan có sự tăng trưởng mạnh hơn các thời trước. Tuy nhiên, dòng nghệ thuật này lại phổ biến ở Karjala và Estonia hơn.
Ngày nay, văn học Phần Lan được san xẻ chung giữa Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Nga và Estonia như bộ phận rất quan trọng cấu thành văn hóa mỗi quốc gia. Tại Latvia, Lietuva, Belarus và Ba Lan, thậm chí Komi từ đầu thập niên 1990 đã diễn ra những tranh luận sôi nổi trong vấn đề có hay không công nhận dòng văn học Phần Lan từng tồn tại trong diễn trình lịch sử văn học xứ mình, nhiều quan điểm cho rằng đã tới lúc cần chấp nhận nó như một đặc tính bản địa thay vì coi là ngoại lai.
Xem thêm
Lịch sử Phần Lan
Xã hội Phần Lan
Chú thích
Tham khảo
Barnett, Andrew - Sibelius.
Edwards, Robert - Winter war: Russia's invasion of Finland, 1939-1940.
Hooven, F. Valentine - Tom of Finland: his life and times.
Kent, Neil - Helsinki: a cultural and literary history.
Mann, Chris - Hitler's Arctic War: the German campaigns in Norway, Finland, and the USSR, 1940-1943.
Nieminen, Raija - Voyage to the island.
Quantrill, Malcolm - Reima Pietila: architecture, context, and modernism.
Steinbock, Dan - The Nokia revolution: the story of an extraordinary company that transformed an industry.
Stenman, Kari - Luftwaffe over Finland.
Torvalds, Linus - Just for Fun: The Story of an Accidental Revolutionary.
Trotter, William R. - A Frozen Hell: The Russo-Finnish Winter War of 1939-1940.
Liên kết ngoài
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Phần Lan
Quốc gia Bắc Âu
Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu
Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu
Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Nhà nước hậu Đế quốc Nga
Cộng hòa
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Thụy Điển
Phe Trục
|
25454
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%95%20H%C3%B3a
|
Phổ Hóa
|
Phổ Hoá (zh. pǔhuà 普化, ja. fuke), ?-860, cũng được gọi là Trấn Châu Phổ Hoá, là Thiền sư Trung Quốc dòng Mã Tổ Đạo Nhất, môn đệ của Thiền sư Bàn Sơn Bảo Tích. Sư nổi danh vì những hành động quái dị và những hành động này còn được ghi lại trong Lâm Tế lục.
Cơ duyên hoằng hoá
Sau khi Bàn Sơn tịch, sư đến trợ giúp Lâm Tế hoằng hoá trong thời gian đầu. Khi việc đã xong, toàn thân biến mất không để lại dấu vết. Dòng Thiền của sư được Thiền sư người Nhật Tâm Địa Giác Tâm truyền sang Nhật với tên Phổ Hoá tông (ja. fukeshū)
Bàn Sơn sắp tịch, gọi đệ tử đến bảo: "Có người vẽ được chân dung ta chăng?" Tất cả môn đệ đều trình đã vẽ đến nhưng chẳng hợp ý Bàn Sơn. Sư liền ra thưa: "Con vẽ được." Bàn Sơn bảo: "Sao chẳng trình Lão tăng?" Sư liền lộn nhào rồi đi ra. Bàn Sơn liền bảo: "Gã này sau chụp gió chạy loạn đây."
Như Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch tiên đoán trước, sư là người phụ giúp Lâm Tế Nghĩa Huyền hoằng hoá trong thời gian đầu tại Trấn Châu. Lâm Tế lục ghi lại nhiều giai thoại của sư với Lâm Tế. Một trong những câu chuyện thường được nhắc đến nhất là việc thiên hoá của Sư.
Một hôm sư ra giữa chợ hô hào xin người qua lại một cái áo dài. Ai cũng cho nhưng sư không vừa lòng. Lâm Tế nghe vậy liền khiến một vị đệ tử mua một chiếc quan tài. sư đến viện, Lâm Tế bảo: "Ta có cho ông cái áo dài rồi!" Sư bèn tự vác đi quanh chợ kêu lên rằng: "Lâm Tế làm cho tôi một cái áo dài rồi. Tôi qua cửa Đông Thiên hoá đây!" Mọi người đua nhau theo xem, sư bèn nói: "Hôm nay chưa, ngày mai ra cửa Nam thiên hoá!" Cứ như thế ba ngày thì không ai đi theo và đến ngày thứ tư, một mình sư ra ngoài thành, tự đặt mình vào quan tài, nhờ người đóng nắp lại. Tin đồn ra thì mọi người đổ xô lại, mở quan tài ra xem thì không thấy xác đâu, chỉ nghe trên không tiếng chuông văng vẳng xa dần.
Phổ Hoá tông
Phổ Hoá tông (zh. pǔhuà-zōng 普化宗, ja. fuke-shū) là một nhánh thiền nhỏ không quan trọng tại Trung Quốc, được Thiền sư Phổ Hoá khai sáng trong thế kỉ thứ 9. Trong tông này, người ta thay thế việc tụng kinh niệm Phật bằng cách thổi sáo – cây sáo này được gọi là Xích bát (zh. 尺八, ja. shakuhachi).
Phổ Hoá tông được Thiền sư Tâm Địa Giác Tâm (zh. 心地覺心, ja. shinchi kakushin, 1207-1298) truyền sang Nhật trong thời đại Liêm Thương (zh. 鐮倉, ja. kamakura). Các người theo tông này – phần lớn thuộc giới Cư sĩ – chu du khắp nơi, lúc nào cũng mang một cái nón tre che cả khuôn mặt và thổi sáo. Họ được gọi là "Hư vô tăng" (zh. 虛無僧, ja. komusō). Tông này sau bị cấm vì có nhiều hiệp sĩ (thị 侍, ja. samurai) vô chủ, lợi dụng chiếc nón tre che mặt che đậy tông tích, hành vi bất thiện.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Trung Quốc
Sinh năm 770
Mất thế kỷ 9
|
25455
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A1n%20V%C3%B4%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20th%E1%BB%8D%20kinh
|
Quán Vô lượng thọ kinh
|
Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. Amitāyurdhyāna Sūtra), còn gọi là Thập Lục Quán Kinh, là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông (cùng với Vô lượng thọ kinh và A-di-đà kinh). Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A-di-đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ của A-di-đà.
Kinh này chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vi-đề-hi, mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-bà-sa-la (sa., pi. bimbisāra). Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc của A-di-đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.
Mười sáu phép quán tưởng đó là: quán mặt trời lặn; quán nước; quán đáy sông; quán cây cối; quán nước cam lộ; quán thế giới thực vật; quán nước và đáy nước; quán toà sen; quán ba báo thân của ba vị thánh A-di-đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; quán ba ứng thân của Phật A-di-đà; của Quán Thế Âm; của Đại Thế Chí; quán A-di-đà trong Tịnh độ; quán ba vị thánh trong Tịnh độ; quán cấp thượng căn trong Tịnh độ; quán cấp trung căn và hạ căn trong Tịnh độ. Các phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A-di-đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc chắn hành giả sẽ được tái sinh về Tịnh độ.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Liên kết ngoài
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật , Hán dịch: Lưu Tống, Tam Cương Lương Gia Xá, Việt dịch: Tỳ kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh độ tông
Kinh văn Phật giáo Đại thừa
|
25456
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam%20Th%C3%A1nh%20Hu%E1%BB%87%20Nhi%C3%AAn
|
Tam Thánh Huệ Nhiên
|
Tam Thánh Huệ Nhiên, hay còn gọi Tam Thánh Tuệ Nhiên ( hoặc 三圣慧然, ja. sanshō enen), tk. 9, là Thiền sư Trung Quốc, một trong những môn đệ thượng thủ nối pháp của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Sư cũng là người biên soạn những pháp ngữ của Lâm Tế trong Lâm Tế Lục.
Sau khi được Lâm Tế ấn khả, sư chu du khắp nơi, tiếng tăm lừng lẫy. Sư thăm viếng nhiều tùng lâm và đến đâu cũng được tiếp đãi trọng hậu. Công án 49 trong Bích nham lục thuật lại cuộc gặp gỡ của sư với Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn. Sư hỏi: "Cá vàng thoát lưới lấy gì làm thức ăn?" Tuyết Phong đáp: "Đợi ông ra khỏi lưới rồi đến đây sẽ nói." Sư bảo: "Là thiện tri thức của 1500 người mà thoại đầu cũng không biết." Tuyết Phong bèn nói: "Lão tăng trụ trì nhiều việc."
Đến gặp Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn. Hương Nghiêm hỏi: "Từ đâu đến?" Sư đáp: "Từ Lâm Tế đến." Hương Nghiêm hỏi: "Đem được kiếm của Lâm Tế đến chăng?" Sư chẳng nói, lấy toạ cụ đánh Hương Nghiêm rồi đi. Hương Nghiêm im lặng mỉm cười.
Đến viếng Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám. Vừa thấy sư trải toạ cụ ra, Đức Sơn liền bảo: "Chớ có trải cái khăn phủi bụi, nơi đây không có canh cặn cơm thừa." Sư đáp: "Dù có cũng không có chỗ đổ." Đức Sơn liền đánh, sư chụp gậy và đẩy thẳng đến giường thiền. Đức Sơn cười to. Sư nói: "Trời xanh!" rồi xuống nhà tham thiền.
Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch rất mến tài hùng biện của sư. Lúc mới gặp, Ngưỡng Sơn hỏi: "Ông tên gì?" sư thưa: "Huệ Tịch." Ngưỡng Sơn ngạc nhiên bảo: "Huệ Tịch là tên của ta." Sư liền nói: "Huệ Nhiên." Ngưỡng Sơn cười lớn.
Một ông quan đến thăm, Ngưỡng Sơn hỏi: "Quan ở vị nào?" Quan thưa: "Dẹp quan." Ngưỡng Sơn dựng phất tử hỏi: "Lại dẹp được cái này chăng?" Ông quan không đáp được và trong chúng cũng không ai trả lời vừa lòng Ngưỡng Sơn. Lúc đó sư đang nằm tại Niết-bàn đường (nơi nuôi dưỡng bệnh nhân), Ngưỡng Sơn sai thị giả đến trình. sư đáp: "Hoà thượng có việc." Ngưỡng Sơn lại sai thị giả hỏi: "Chưa biết có việc gì?" Sư lại đáp: "Tái phạm chẳng tha." Nghe vậy Ngưỡng Sơn thầm nhận và có ý định truyền Phất tử của Bách Trượng lại cho sư (Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải trao cho Hoàng Bá Hi Vận thiền bản bồ đoàn, trao cho Quy Sơn Linh Hựu phất tử, Quy Sơn lại truyền cho Ngưỡng Sơn) nhưng sư từ chối không nhận vì đã có thầy. Ngưỡng Sơn nhân đây mới biết sư là môn đệ của Lâm Tế.
Sau, sư trụ trì tại Viện Tam Thánh, học chúng đến rất đông.
Không biết sư tịch nơi nào, năm nào.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thích Phước Hảo & Thích Thông Phương (dịch và chú giải): Ngũ đăng hội nguyên tiết dẫn, Thiền sư Trí Quang, TP HCM 1996.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Trung Quốc
|
25457
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A5t%20Bi%E1%BA%BFn
|
Nhất Biến
|
Nhất Biến (zh. 一遍, ja. ippen), 1234 - 1289, là Cao tăng Nhật Bản, được xem là vị tổ của Thời tông (時宗), một nhánh của Tịnh độ Phật giáo, có chùa chính là Du Hành tự (zh. 遊行寺) ở thành phố Fujisawa (Đằng Trạch thị 藤沢市).
Nhất Biến sinh ra tại Ehime (Ái Viện huyện 愛媛県) và tu tập rất sớm với một đệ tử của Pháp Nhiên. Sư xuất gia rồi hoàn tục một lần, nhưng sau đó thay đổi ý định. Sau khi hành hương đến Thiện Quang tự (zh. 善光寺, ja. zenkōji), huyện Nagano (Trường Dã huyện 長野県), Sư đến một ngôi chùa hẻo lánh ở Ehime, thực hành pháp tu rất nghiêm mật và cuối cùng, đạt được sự an trú toàn vẹn nơi Phật A-di-đà. Qua kinh nghiệm của mình, Sư trở nên rất tự tin cho rằng với bất kì tầng bực thiết tha tu tập của bất cứ căn cơ nào của chúng sinh, dù nam hay nữ, họ đều có thể được vãng sinh ở Tịnh độ, dù chỉ bằng công đức trì niệm một danh hiệu đức Phật A-di-đà. Sau đó, sư đi khắp nơi trong nước, phát cho mọi người những tờ giấy ghi chép lời chỉ dạy căn bản cho pháp tu Tịnh độ. Có đến hàng ngàn người hành trì theo sự khuyến giáo của sư. Khi biết mình sắp viên tịch vào năm 51 tuổi, sư đốt tất cả những gì sư đã trước tác, nên nay chẳng còn tác phẩm nào của sư được lưu hành.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Phật giáo Nhật Bản
Người Ehime
Đại sư Phật giáo
Tịnh độ tông
|
25473
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3n%20Gi%C3%A1c
|
Mãn Giác
|
Mãn Giác (滿覺), 1052 – 1096, là một thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền sư Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh. Với bài thơ "Cáo tật thị chúng", ông được nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu của dòng văn thơ Lý – Trần.
Gia thế và cơ duyên
Đại sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường (theo là Lý Trường 李長), cha là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang.
Thiếu thời, Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi. Sư là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Sư làm trụ trì.
Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ, sau này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng:
Nói xong Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45 tuổi. Sau lễ hoả táng, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, vua thuỵ hiệu là Mãn Giác.
Bàn về Cáo tật thị chúng
Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời kỳ văn học Lý – Trần, một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương. Bài thơ mượn cảnh thị tình, lấy tình "trực chỉ chân tâm" nhằm khai phóng nhân sinh.
Dùng tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ bắt đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản, sinh động: Khai, lạc của mai hoa (đào hoa, xuân hoa...) là cái nhãn tiền tự nhiên nhi nhiên:
Xuân khứ bách hoa lạc / Xuân đáo bách hoa khai
Không có mới cũng chẳng có cũ, không có đi cũng chẳng có về; đáo hay khứ thực ra chỉ là một thực tại bị chia cắt thành những khái niệm mà chỉ cần khởi tâm trí tuệ thì bỗng dưng được con mắt sáng mà nhìn, mà nghe, mà cảm nhận cái thi vị của cuộc đời sau những tột cùng vô biên của sự phân chia, tách bạch.
Tự nhiên, có con mắt thứ nhất mở ra phía sau trước nhìn vào chốn sinh linh mà lời rằng: đừng bảo, đừng nói, đừng ngộ nhận, chớ lời, chớ chắc, chớ đoan... và còn con mắt thứ hai dành cho kẻ Xuân Thu biết vui thú du xuân bốn mùa sẽ có được:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cùng với muôn vàn con mắt không phô diễn.
Một cành mai trước sân cũng khiến cho sự liên tưởng (của người đọc) đến tâm thế của kẻ như đứng một mình giữa trời đất mà rơi lệ trong Đăng U Châu đài ca (登幽州臺歌) của Trần Tử Ngang (陳子昂):
thì bỗng dưng thấy con đường trung đạo cho thi thiền quả thật thênh thang vạn dặm:
Khứ (lạc, quá) ------------ nhất chi mai ------------đáo (khai, lai)
Đạo bản vô nhan sắc, nhưng ta (và người) thì có thể thấy được (nhất chi mai) kia là vật của đất trời, rỗng rang độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà như vô sự. Biết đâu lâu nay người sợ hãi là sợ cái có không không đối đãi, thì đây là vật chứng, là hiển nhiên của sinh diệt mà cũng là bất diệt. Cái giả hợp tất chịu đổi thay: còn trẻ răng trắng má hồng, lúc tuổi già răng long tóc bạc. Nhưng trong chỗ diệt diệt sinh sinh ấy có một thứ nhẩn nha ra ngoài sinh tử, và một lúc nào nhận diện được nhành mai trước sân thì tức là đang sống, đang vui đùa với ông Phật vĩnh cửu của chính mình. Tìm kiếm Phật ở bên ngoài thì cũng giống như cá chép tranh nhau nhảy ở Vũ Môn, muôn đời làm sao hóa rồng được (?!)
Chân tánh là vô tánh. Tử – sanh chẳng nói.Vì "không hoa, mặc bướm để lòng chi"?
Tham khảo
Thích Thanh Từ: Thiền sư Việt Nam, TP HCM 1995.
Nguyễn Huệ Chi (chủ biên): Thơ văn Lý-Trần, tập II, quyển thượng, Hà Nội 1988.
Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận I-III, Hà Nội 1992.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thêm hai cách đọc bài thơ/kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền Sư, Như Huy, Tiền Vệ.
Thiền sư Việt Nam
Nhà thơ Việt Nam thời Lý
Thiền phái Vô Ngôn Thông
|
25484
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blog
|
Blog
|
Blog, gọi tắt của weblog (tiếng Anh, "nhật ký web"), là một dạng nhật ký trực tuyến, bùng nổ từ cuối thập niên 1990. Các blogger (người viết blog), có thể là cá nhân hoặc nhóm, đưa thông tin lên mạng với mọi chủ đề, thông thường có liên quan tới kinh nghiệm hoặc ý kiến cá nhân, chủ yếu cung cấp thông tin đề cập tới những chủ đề chọn lọc, không giống như các báo truyền thống. Được phần mềm hỗ trợ, dễ sử dụng, blog phổ biến rất nhanh và ai cũng có thể dễ dàng tạo ra một blog cho mình.
Một trang blog có thể chứa các siêu liên kết, hình ảnh và liên kết (tới các trang chứa phim và âm nhạc). Văn bản blog dùng phong cách thảo luận. Một blog thường chỉ liên quan đến một chủ đề yêu thích.
Vào tháng 11 năm 2006, trình tìm kiếm blog Technorati đã theo dõi hơn 57 triệu blog.
Lịch sử
Tin thời sự, sổ tay và nhật ký cá nhân có thể được coi là những ông tổ của blog.
Trước khi blog trở nên phổ biến thì các tổ chức xã hội trên mạng mang nhiều hình thức, bao gồm Usenet, các dịch vụ kinh doanh trực tuyến như GEnie, BiX và CompuServe, gồm cả danh sách email và các hệ thống bảng tin nhắn điện tử (BBS). Trong thập niên 1990, các phần mềm diễn đàn Internet như WebEx, tạo ra các luồng trao đổi thông tin (thread). Các luồng thông tin là các kết nối giữa các lời nhắn trao đổi cùng topic trên một bảng trực tuyến. Một số người đã coi blog là phong trào quan sát tập thể của thế kỷ 20.
1994–2001
Blog hiện nay phát triển từ nhật ký trực tuyến, nơi mọi người ghi lại một phần của cuộc sống riêng tư. Hầu hết những người viết tự gọi mình là người viết nhật ký hoặc nhà báo. Trang webring The Open Pages là một trong những cộng đồng viết nhật ký trực tuyến như vậy. Justin Hall bắt đầu viết blog cá nhân từ năm 1994 khi còn là sinh viên tại Swarthmore College, được coi là blogger lâu đời nhất, as is Jerry Pournelle.
Những dạng khác của những bản tin (hay nhật ký) được giữ trực tuyến cũng đã tồn tại. Một ví dụ đáng chú ý là nhật ký được nhiều người đọc rộng rãi của John Carmack's, được phát hành theo hướng finger protocol. Những trang web, bao gồm cả những site của đoàn thể hoặc những trang web cá nhân (personal homepages), đã và vẫn có phần "Có gì mới" hoặc "tin tức", thường trên trang chủ hoặc trang mặc định (index page) và được sắp xếp theo ngày tháng. Một ví dụ về những tin tức dựa trên weblog là Drudge Report được thành lập bởi phóng viên tự xưng và tự do Matt Drudge, dù hình như anh ta không phải loại này. Một trang khác là Institute for Public Accuracy mà đã bắt đầu đưa lên những tin phát hành một vài tin vắn những trích dẫn một đoạn vài lần trong một tuần từ năm 1998. Một tiền thân đáng chú ý của blog là một trang web trào phúng cá nhân thường xuyên được cập nhật bởi huyền thoại của Usenet, Kibo.
Phân loại
Có rất nhiều loại blog, khác nhau từ nội dung bài đến cách truyền tải.
Bằng phương tiện truyền đạt Một blog có video được gọi là vlog, blog gồm các link gọi là linklog. Một trang gồm những bản phác thảo được gọi là sketchblog hoặc một trang gồm có ảnh được gọi là photoblog. Những blog có bài viết ngắn và gồm nhiều dạng tranh ảnh, video đa dạng được gọi là tumblelog.
Một loại blog ít gặp được để trên Gopher Protocol được biết tới như Phlog.
Bằng phương tiện sáng tác Blog được viết bằng phương tiện di động ví dụ như điện thoại di động hoặc PDA được gọi là moblog.
Thể loại Một số blog tập trung vào một vấn đề cụ thể, ví dụ như blog chính trị, blog du lịch, blog thời trang, blog dự án, hoặc blog pháp luật (tên tiếng Anh là blawg). Một blog không có mục đích chính đáng mà chỉ dành để spam gọi là Splog. Một Slog (Site hoặc website log) là một phần của một website kinh doanh, được hợp nhất trong cả cấu trúc website bình thường, nhưng được viết bởi các phần mềm viết blog.
Tính hợp pháp của người xuất bản Một blog phần lớn được để cá nhân, hoặc được dùng cho mục đích kinh doanh. Blog công ty, có thể được dùng đối nội để hỗ trợ truyền đạt và văn hóa riêng của tập đoàn hoặc dùng đối ngoại để tiếp thị, tạo dựng thương hiệu hoặc PR.
Công cụ tìm kiếm blog Một số các công cụ tìm kiếm blog được dùng để tìm nội dung blog (còn được biết với tên blogosphere, ví dụ như blogdigger, Feedster và Technorati. Technorati cung cấp những thông tin cập nhật về những tìm kiếm phổ biết và tag dùng để phân loại bài viết trong blog.
Sự phổ biến
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã phân tích nguyên do blog được ưa chuộng. Hai thước đo được sử dụng là: số lần được trích dẫn, và số lần được để link liên kết (ví dụ: blogroll). Kết luận ban đầu từ các nghiên cứu về kết cấu blog là mặc dù để trở nên nổi tiếng, một blog mất khá nhiều thời gian, nhưng liên kết link vĩnh viễn làm tăng độ nổi tiếng của blog rất nhanh, và có thể chỉ ra độ ảnh hưởng của một blog hơn blogroll, bởi vì chúng cho biết người đọc có thực sự đọc nội dung blog hay không, và đánh giá blog là đáng đọc trong những trường hợp cụ thể.
Dự án blogdex được bắt đầu bởi những nhà nghiên cứu của MIT Media Lab để dò Web và thu thập thông tin từ hàng ngàn blog và nghiên cứu các tính xã hội của chúng. Thông tin được thu thập trong hơn 4 năm trời, và những thông tin nổi bật nhất lan truyền trong cộng đồng blog được tự động thu thập, và đánh giá dựa vào mức độ nóng hổi và nổi tiếng. Do đó dự án này có thể được coi như cố gắng đầu tiên để memetracker. Mặc dù dự án không còn hoạt động, nhưng tailrank.com hiện nay đã cung cấp một dịch vụ tương tự.
Blog được Technoratti xếp thứ hạng dựa vào số link liên kết và được Alexa Internet xếp dựa vào số lần truy cập của người dùng Alexa Toolbar. Tháng 8/2006, Technorati đã liệt kê blog được liên kết nhiều nhất là của cô diễn viên Trung Quốc Xu Jinglei, và blog được viết bởi một nhóm được đọc nhiều nhất là Boing Boing.
Gartner dự đoán hoạt động blog sẽ lên tới đỉnh điểm trong năm 2007, rồi chững lại khi số người viết có duy trì một trang web cá nhân đạt tới con số 100 triệu. Các nhà phân tích Gartner dự tính rằng blog sẽ giảm độ thu hút vì tính mới lạ, bởi vì hầu hết những người chú ý đến hiện tượng này đều đã xem qua blog, và những người viết blog mới sẽ không vượt quá số lượng những người đã bỏ viết blog do nhàm chán. Công ty này ước lượng rằng có hơn 200 triệu người dừng việc viết nhật ký mạng, tạo nên một số lượng các "dotsam" và "netsam", những thứ bị bỏ bê trên web, gia tăng một cách chóng mặt.
Truyền thông Trung Quốc Xinhua đã báo cáo là blog của Từ Tịnh Lôi (Xu Jinglei) là Xu Jinglei's Blog) nhận được hơn 50 triệu lượt xem, là blog nổi tiếng nhất trên toàn thế giới. Giữa năm 2006, blog này có nhiều link dẫn đến nhất trên toàn Internet.
Mập mờ với phương tiện truyền thông đại chúng
Nhiều blogger tự phân biệt mình với các phương tiện truyền thông đại chúng, và một số khác là người làm việc cho các phương tiện truyền thông đại chúng này, đồng thời tham gia một kênh thông tin khác. Một số tổ chức cho rằng viết blog là một phương tiện để tránh bị kiểm duyệt và trực tiếp đưa thông điệp của mình tới công chúng. Một số các nhà phê bình lo rằng blogger không tôn trọng bản quyền và vị trí của phương tiện truyền thông đại chúng trong việc đưa những thông tin đáng tin cậy đến xã hội.
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nhà báo viết blog, theo như danh sách các J-blog của CyberJournalist.net nhiều hơn con số 300 rất nhiều. Lần đầu tiên một blog được sử dụng trên một trang web thông tin là vào tháng 8 năm 1998, khi Jonathan Dube của tờ Charlotte Observer đăng một ký sự về cơn bão Bonnie.
Blog cũng có tầm ảnh hưởng tới những ngôn ngữ thiểu số, góp phần tập hợp những người nói và học những ngôn ngữ này; ví dụ nổi bật là các blog tiếng Gaelic, với những người viết blog ở rất xa khu vực nói tiếng Gaelic thậm chí ở cả Kazakhstan và Alaska. Xuất bản bằng ngôn ngữ thiểu số có thể tìm đường đến tới độc giả bằng cách tạo blog, không tốn kém và khả thi hơn cách thông thường rất nhiều.
Blogger
Những người hoặc nhóm người hoặc tổ chức viết blog được gọi là blogger... Các blogger được xem là những công dân điện tử của một xã hội điện tử. Tuy nhiên, gần đây một số người gọi những người tham gia các mạng xã hội là blogger, vì họ cũng tham gia vào các xã hội điện tử và viết nhật ký của mình lên đó.
Các dịch vụ blog phổ biến
My Opera
Blogger
Wordpress
Yahoo 360
Yahoo 360 Plus
Drupal
Blog City
Live Journal
Blog Tiếng Việt
Chú thích
Sách đọc thêm
Alavi, Nasrin. We Are Iran: The Persian Blogs, Soft Skull Press, New York, 2005. ISBN 1-ngày 95 tháng 5 năm 3368.
Bruns, Axel, and Joanne Jacobs, eds. Uses of Blogs, Peter Lang, New York, 2006. ISBN 0-8204-8124-6.
Kline, David; Burstein, Dan. Blog!: How the Newest Media Revolution is Changing Politics, Business, and Culture, Squibnocket Partners, L.L.C., 2005. ISBN 1-59315-141-1.
Michael Gorman. "Revenge of the Blog People!". Library Journal.
Initials
Internet
Thuật ngữ Internet
Từ viết tắt
|
25487
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20tho%E1%BA%A1i
|
Điện thoại
|
Điện thoại là thiết bị viễn thông dùng để trao đổi thông tin, thông dụng nhất là truyền giọng nói - tức là "thoại" (nói), từ xa giữa hai hay nhiều người. Điện thoại biến tiếng nói thành tín hiệu điện và truyền trong mạng điện thoại phức tạp thông qua kết nối để đến người sử dụng khác. Hệ thống thực hiện công năng như vậy có hai hợp phần cơ bản:
Thiết bị đầu cuối, thường gọi bằng chính tên "điện thoại", thực hiện biến tiếng nói thành tín hiệu điện để truyền đi, và biến tín hiệu điện nhận được thành âm thanh.
Mạng điện thoại điều khiển kết nối và truyền dẫn, thực hiện nối những người dùng liên quan với nhau và truyền dẫn tín hiệu.
Sự phát triển của kỹ thuật dẫn đến ngày nay mạng điện thoại có nhiều công năng hơn, như truyền fax, internet,... và bên cạnh đôi dây nối truyền thống thì có những cách thức phương tiện truyền dẫn mới.
Giới thiệu
Có bốn cách điện thoại kết nối vào mạng điện thoại sử dụng ngày nay: phương pháp truyền thống điện thoại cố định, dùng dây điện kết nối truyền tín hiệu vào một vị trí cố định; loại điện thoại không dây, dùng cả sóng vô tuyến truyền tín hiệu tương tự hoặc kỹ thuật số; điện thoại vệ tinh, dùng vệ tinh liên lạc; và VoIP (điện thoại qua giao thức Internet), dùng với kết nối Internet băng thông rộng.
Giữa hai người dùng, việc truyền nhận qua mạng có thể dùng cáp quang, kết nối điểm-điểm sóng vi ba hay qua vệ tinh.
Cho đến gần đây, từ "điện thoại" chỉ dùng để nói tới điện thoại có dây. Điện thoại mẹ con và điện thoại di động hiện nay khá phổ biến ở nhiều nơi, với điện thoại di động có triển vọng thay thế điện thoại có dây. Không như điện thoại di động, điện thoại mẹ con cũng phụ thuộc điện thoại có dây vì nó chỉ có ích trong một khoảng cách nhỏ chung quanh trạm phát được kết nối với dây điện thoại.
Việc xác định người phát minh ra điện thoại (Antonio Meucci hay Johann Philipp Reis hoặc Alexander Graham Bell) vẫn còn tranh cãi.
Lịch sử
Những phát triển ban đầu
Nguyên tắc
Từ những chiếc điện thoại thô sơ ban đầu và cách chuyển mạch bằng nhân công, ta có thể nêu cụ thể một cuộc điện đàm như sau:
Một thuê bao A gọi cho một thuê bao B thì tín hiệu (cụ thể là giọng nói) của thuê bao A được chuyển đổi thành tín hiệu điện và chuyển đến tổng đài. Ở đây một nhân viên trực tổng đài có nhiệm vụ gạt cần chuyển mạch sang thuê bao B và cuộc điện đàm được diễn ra. Nhưng nếu thuê bao B đang bận thì cuộc điện thoại đó sẽ bị rớt.
Năm 1854 Pháp mới bắt đầu có điện tín.
Charles Bourseul lúc bấy giờ là nhân viên hành chính về điện tín viết bài trong báo l'Illustration: "Từ ngày 26/08/1854 đây là nguyên tắc cho máy điện thoại".
Năm 1860, một giáo viên người Đức Philippe Reiss thực hiện một máy có thể truyền những âm thanh về nhạc bằng cách dùng điện.
Ông đã thành công trong việc kinh doanh máy của ông nhưng nó vẫn còn yếu kém và không có khả năng truyền lời nói. Tuy nhiên ông Reiss đã tiến đến rất gần cái có thể gọi là điện thoại. Phát minh của P. Reiss được trình bày tại Mỹ.
Hai người Mỹ, Alexander Graham Bell và Eliza Gray cuối cùng thực hiện được máy điện thoại. Graham Bell làm được nhiều mẫu máy truyền âm thanh và năm 1875 cho ra đời hệ thống điện tín hoàn chỉnh. Elisha Gray làm việc cùng lĩnh vực và ngày 14/02/1876, cả hai cùng trình bằng sáng chế điện thoại của họ.
Lịch sử chỉ giữ lại tên của Bell bởi vì sau cuộc tranh chấp pháp luật, Bell được thắng kiện với bằng phát minh số 174465 ngày 7/03/1876.
Tuy nhiên không một điện thoại nào dùng được. Phải đợi đến tháng 6 năm 1876 người ta mới thấy lần đầu tiên điện thoại hoạt động tại hội chợ triễn lãm ở Philadelphie. Điện thoại vào Hoa Kỳ từ năm 1877 sau khi hãng Bell Telephone Company sáng lập.
Cùng năm 1877, Western Union Telegraph yêu cầu Thomas A. Edison làm một điện thoại khác để chống lại Bell Company. Edison bắt đầu từ máy của Reiss và nghiên cứu cho ra một máy phát có điện trở thay đổi nhạy hơn của Bell, và trở thành microphone đầu tiên bằng graphite, ngày 27/04/1877
Vài tuần sau, ngày 9/7/1877, Bell giới thiệu Hand Telephone.
Cuối năm 1877, Frédérick Gower, người Mỹ, cải thiện máy của Bell và hệ thống của ông được lắp đặt tại Paris năm 1879. Đó là trung tâm điện thoại đầu tiên của nước Pháp.
Cuộc gọi đầu tiên
Cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: “Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại dùng để liên lạc.
Cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên
Tổng đài điện thoại đầu tiên được đi vào hoạt động là tại New Haven, bang Connecticut, Mỹ. Vào ngày 21/2/1878, cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên trên thế giới được xuất bản bởi công ty điện thoại New Haven với 1 trang duy nhất liệt kê tên của 50 người đã quyên góp cho công ty nhưng không hề có một số điện thoại nào kèm theo.
Nó chủ yếu được dùng để ghi nhận công lao của những nhà tài trợ, hoàn toàn khác xa với mục đích tra cứu của những cuốn sổ danh bạ mà ngày nay chúng ta vẫn dùng.
Những chiếc điện thoại thời kỳ đầu chỉ để dành cho những người giàu có sử dụng và hiếm thấy có những thiết kế đa dạng mà hầu hết đều rất kiểu cách và cầu kì với nét đặc trưng là có 2 đầu: một ống nói và ống nghe.
Bốt điện thoại ra đời
Chiếc bốt điện thoại khi mới ra đời đã từng được xem là một xu hướng trong tương lai khi mà chúng giúp bạn có thể gọi cho bất cứ ai khi đi trên đường.
Lịch sử gần đây
Điện thoại trong xe
Khi các mẫu điện thoại tiến gần hơn tới “mốc” di động, chúng đã dần trở nên nhỏ gọn hơn để có thể gắn vào trong xe và thực sự trở nên tiện ích rất nhiều với người sử dụng. Có thể là bây giờ, chúng ta nhìn lại thì điện thoại được “tích hợp” trong xe chỉ là một thứ công nghệ thô sơ, lạc hậu vô cùng nhưng vào thời kì đó, đây thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ.
Điện thoại di động
Chiếc điện thoại đầu tiên được cho là “di động” được quảng cáo vào năm 1967 với tên gọi là “Carry phone” đánh dấu một bước tiến gần hơn đến mẫu điện thoại di động nguyên bản. Mang danh là di động nhưng việc sử dụng nó thì vô cùng bất tiện khi người ta cứ phải vác “kè kè” bên mình một chiếc hộp máy to sụ nặng tới 4,5 kg. Giá thành lại rất cao nên nó hầu như không được phổ biến rộng rãi cho đến khi phiên bản nhỏ gọn của nó được tung ra thị trường.
Điện thoại cầm tay
Vào ngày 3/4/1973, mẫu điện thoại cầm tay đầu tiên Motorola Dyna Tac do nhà phát minh Martin Cooper của hãng sáng chế được “trình làng” thực sự đã làm công chúng kinh ngạc và đầy sửng sốt. Tuy nhiên, khi đó chúng đơn thuần là một màn trình diễn công nghệ mới chứ chưa thể được dùng để thay thế hoàn toàn cho điện thoại cố định. Hình dáng ban đầu của chúng trông giống như một “cục gạch” nặng nề với hình dáng thô kệch và vô cùng bất tiện khi mang theo mình.
Dòng điện thoại thông minh Smart Phone
Chiếc điện thoại Iphone của Apple thực sự là một sự sáng tạo đột phá về kiểu dáng với nét đặc trưng là màn hình cảm ứng siêu nhạy giúp người sử dụng có thể thao tác dễ dàng chỉ bằng việc “lướt” nhẹ các ngón tay. Nó tạo nên cơn sốt chưa từng có khi xuất hiện vào năm 2007 và khởi đầu cho một cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng trong phân khúc dòng điện thoại smartphone.
Nhưng thực ra những đóng góp của Apple với công nghệ màn hình cảm ứng phải được ghi nhận từ năm 1983 với mẫu điện thoại để bàn cảm ứng Ciara, tiền đề cho một bước tiến lớn trong ngành công nghệ thông tin.
Điện thoại thông minh (smartphone)
Hiện nay có những hãng smartphone nổi tiếng như Apple, Samsung với những siêu phẩm như IPhone, Samsung Galaxy, Samsung Galaxy Note, Huawei, Oppo, Xiaomi...
Điện thoại sử dụng IP
Thuật ngữ điện thoại IP (IP Telephony) thường dùng để chỉ phương pháp kết nối máy điện thoại tới tổng đài hoặc trung kế sử dụng Giao thức Internet hay phương pháp truyền tín hiệu thoại (VoIP) qua giao thức Internet VoIP. Tuy vậy, trên thực tế, thông thường hai khái niệm vẫn được dùng lẫn cho nhau.
Điện thoại truyền thống dựa trên công nghệ chuyển mạch kênh (curcuit switching) và vì vậy đòi hỏi phải có đường kết nối trực tiếp và dành riêng cho mỗi điểm dầu cuối. Chi phí lắp đặt, bảo dưỡng lớn cũng như khó thêm, bớt, thay đổi hay di chuyển thiết bị đầu cuối. Ngược lại, công nghệ IP là công nghệ chuyển gói tin (packet switching) cho phép sử dụng chung một đường kết nối cho nhiều kênh thoại hoặc kết hợp cùng với dữ liệu mang lại tính kinh tế cao hơn cũng như cho phép thêm, bớt, thay đổi, di chuyển thiết bị đầu cuối dễ dàng.
Thay vì việc sử dụng một đường kết nối trực tiếp và dành riêng để nối máy điện thoại tới hệ thống chuyển mạch như tổng đài hoặc trung kế (PaBX), điện thoại IP sử dụng kết nối Ethernet của mạng IP cho mục đích này. Điện thoại có thể được kết nối tới PaBX thông qua hạ tầng mạng LAN hoặc mạng WAN. Một số nhà cung cấp viễn thông còn cung cấp dịch vụ SIP qua đó thuê bao có thể nối trực tiếp máy điện thoại vào Internet. Đầu cuối của công nghệ điện thoại IP thường là các máy điện thoại được thiết kế riêng hoặc một phần mềm chạy trên máy tính. Chi phí để triển khai điện thoại IP thường lớn hơn so với điện thoại thường nhưng ngược lại, chi phí vận hành, quản lý, khai thác sẽ giảm đáng kể đồng thời chất lượng cuộc gọi và khả năng sử dụng điện thoại và tiếp nhận cuộc gọi được tăng lên.
Công nghệ Truyền giọng nói qua IP (VoIP) chủ yếu liên quan tới việc chuyển các tín hiệu thoại thành các gói tin IP và truyền qua hạ tầng Internet. Một số ví dụ như các dịch vụ 171, 177, 178, Skype, Yahoo Voice v.v. Tùy theo dịch vụ, người sử dụng có thể sử dụng điện thoại bình thường vẫn có thể tận dụng được lợi thế về chi phí do điện thoại Internet mang lại. Lợi ích chính của VoIP là mang lại lựa chọn cho khách hàng về một dịch vụ thoại có chất lượng thấp hơn nhưng cũng có chi phí rẻ hơn và thường áp dụng cho các dịch vụ Điện thoại đường dài.
Xem thêm
Điện thoại cố định
Điện thoại di động
Bưu điện
VoIP
Chú thích
Liên kết ngoài
Lịch sử điện thoại
Bài cơ bản sơ khai
Phát minh của Hoa Kỳ
Phát minh của Đức
Phát minh Scotland
Dụng cụ văn phòng
Thiết bị viễn thông
Hàng gia dụng
Biểu tượng
Giới thiệu năm 1876
|
25496
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20FPT
|
Tập đoàn FPT
|
Tập đoàn FPT (tiếng Anh: FPT Corporation), tên chính thức là Công ty Cổ phần FPT, được biết đến rộng rãi dưới cái tên FPT, là công ty thuộc top 20 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất tại Việt Nam, với ba lĩnh vực kinh doanh cốt lõi gồm: Công nghệ, Viễn thông và Giáo dục.
Lịch sử
Ngày 13 tháng 9 năm 1988, FPT được thành lập với tên gọi Công ty Công nghệ Thực phẩm hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sấy, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa. (Chữ gốc FPT ban đầu có nghĩa là The Food Processing Technology Company - Công ty Công nghệ Thực phẩm).
Ngày 27 tháng 10 năm 1990, được đổi tên thành The Corporation for Financing Promoting Technology - Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ với hoạt động kinh doanh cốt lõi là CNTT.
Năm 1998, FPT trở thành 1 trong 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên tại Việt Nam, tạo bước phát triển đột phá cho lĩnh vực này tại Việt Nam.
Tháng 4 năm 2002, FPT trở thành công ty cổ phần.
Ngày 8 tháng 9 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký quyết định thành lập trường Đại học FPT trực thuộc Công ty FPT. Hiệu trưởng của trường là Tiến sĩ Lê Trường Tùng, còn Chủ tịch Hội đồng Quản trị là Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Gia Bình.
Ngày 24 tháng 10 năm 2006, FPT đã công bố quyết định phát hành thêm cổ phiếu cho hai nhà đầu tư chiến lược là Quỹ đầu tư Texas Pacific Group (TPG) và Intel Capital. FPT nhận được một khoản đầu tư là 36,5 triệu USD thông qua quỹ đầu tư TPG Ventures và Intel Capital.
Ngày 18 tháng 11 năm 2006, Tập đoàn Microsoft và công ty FPT ký thoả thuận liên minh chiến lược.
Ngày 13 tháng 12 năm 2006, cổ phiếu FPT lên sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE).
Ngày 25 tháng 12 năm 2006, Chủ tịch HĐQT Công ty FPT đã ký quyết hợp nhất các Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT (FIS), Công ty TNHH Giải pháp Phần mềm FPT (FSS) và Trung tâm dịch vụ ERP (FES) kể từ ngày 01/01/2007. Công ty hợp nhất có tên là Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT.
Ngày 1 tháng 1 năm 2007, FPT thành lập Công ty TNHH Bán lẻ FPT với mô hình Công ty TNHH một thành viên.
Ngày 13 tháng 3 năm 2007, thành lập Công ty Cổ phần Quảng cáo FPT (FPT Promo JSC) và Công ty TNHH Phần mềm Châu Á Thái Bình Dương đặt tại Singapore (FAPAC).
Ngày 19 tháng 12 năm 2008, Công ty FPT công bố được chấp thuận đổi tên từ "Công ty Cổ phần Phát triển và Đầu tư Công nghệ" thành "Công ty Cổ phần FPT" viết tắt là "FPT Corporation".
Ngày 24 tháng 12 năm 2008, Công ty FPT công bố quyết định bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới là ông Nguyễn Thành Nam thay ông Trương Gia Bình. Ông Nam là thành viên sáng lập Công ty FPT, Chủ tịch HĐQT của Công ty Phần mềm FPT (FSOFT).
Tháng 2 năm 2011, Hội đồng Quản trị Công ty FPT có nghị quyết bổ nhiệm ông Trương Đình Anh làm Tổng giám đốc thay thế cho ông Nguyễn Thành Nam.
Ngày 31 tháng 7 năm 2013, Hội đồng Quản trị Công ty FPT FPT đã thông qua nghị quyết bổ nhiệm ông Bùi Quang Ngọc, Tiến sĩ về cơ sở dữ liệu, làm Tổng Giám đốc FPT thay thế ông Trương Gia Bình. Ông Ngọc là một trong các thành viên sáng lập và hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị FPT.
Năm 2014, FPT là công ty CNTT đầu tiên của Việt Nam mua lại 1 công ty CNTT nước ngoài, RWE IT Slovakia (đơn vị thành viên của Tập đoàn năng lượng hàng đầu châu Âu, RWE).
Tháng 8 năm 2017, FPT chuyển nhượng 30% vốn tại Công ty Cổ phần Bán lẻ kỹ thuật số FPT (FPT Retail) cho Vina Capital và Dragon Capital, giảm tỷ lệ sở hữu của Công ty tại FPT Retail xuống còn 55%.
Tháng 9 năm 2017, FPT chuyển nhượng 47% vốn tại Công ty Cổ phần Thương mại FPT (FPT Trading) cho Tập đoàn Synnex (Đài Loan), giảm tỷ lệ sở hữu của Công ty tại FPT Retail xuống còn 48%.
Tháng 7 năm 2018, FPT mua 90% cổ phần của Intellinet Consulting (Intellinet), một trong những công ty tư vấn công nghệ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất tại Mỹ.
Tháng 3 năm 2019, FPT đã bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Khoa - Phó Tổng Giám đốc FPT kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT - đảm trách vị trí Tổng Giám đốc FPT, thay thế ông Bùi Quang Ngọc hết nhiệm kỳ.
Tháng 6 năm 2020, FPT ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với Viện nghiên cứu trí tuệ nhân tạo hàng đầu thế giới Mila, mở ra cơ hội cọ xát, nâng cao năng lực công nghệ cho cộng đồng công nghệ trẻ của Việt Nam.
Tháng 5 năm 2021, FPT đầu tư chiến lược vào nền tảng quản trị doanh nghiệp số 1 Việt Nam - Base.vn thúc đẩy chuyển đổi số doanh nghiệp SMEs.
Tháng 7 năm 2021, FPT mua công ty Intertec International - doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin có hơn 20 năm kinh nghiệm ở châu Mỹ Latinh.
Tháng 8 năm 2021, FPT khởi xướng chương trình FPT eCovax - Vaccine số cho doanh nghiệp, hỗ trợ hơn 3.000 doanh nghiệp vận hành, kinh doanh không gián đoạn và tăng trưởng bứt phá trong bình thường xanh.
Tháng 9 năm 2021, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn FPT đã khởi xướng ý tưởng xây dựng một ngôi trường dành cho các em nhỏ mất cha, mẹ do dịch COVID-19. Tròn một năm sau, Trường Hy Vọng (tại quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng) đón nhận 200 học sinh đầu tiên trong năm học 2022-2023.
Tháng 5 năm 2022, FPT tổ chức khởi công xây dựng Tổ hợp giáo dục FPT UniSchool Hà Nam - cơ sở tập trung đào tạo các cấp học từ phổ thông đến cao đẳng với quy mô đào tạo 10.000 người theo học, nâng tổng số cơ sở đào tạo tại 14 tỉnh, thành phố.
Bằng việc mở thêm văn phòng thứ hai tại New York vào tháng 5 năm 2022 và khai trương văn phòng đại diện đầu tiên ở Bắc Âu tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 9 năm 2022, FPT đã tăng cường sự hiện diện tại 27 quốc gia trên thế giới.
Tháng 9 năm 2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Singapore Heng Swee Keat thăm FPT Software (Công ty thành viên của Tập đoàn FPT), đẩy mạnh hoạt động liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân giữa Việt Nam và Singapore.
Tháng 10 năm 2022, FPT trở Thành Cổ Đông Chiến Lược Của LTS, Inc. - công ty trong Top 20 công ty tư vấn, quản trị kinh doanh và chuyển đổi số tại Nhật với hơn 20 năm kinh nghiệm.
Cơ cấu tổ chức
FPT có hệ thống văn phòng tại 29 quốc gia trên thế giới, và hạ tầng viễn thông phủ khắp 59/63 tỉnh, thành phố tại Việt Nam. Công ty đặt trụ sở chính tại Tòa nhà FPT, số 10 Phố Phạm Văn Bạch, Phuờng Dịch Vọng, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, với 8 công ty thành viên và 2 công ty liên kết.
8 Công ty thành viên:
Công ty TNHH Phần mềm FPT (FPT Software)
Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT (FPT Information System)
Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom)
Công ty Cổ phần Dịch vụ Trực tuyến FPT (FPT Online)
Công ty TNHH Giáo dục FPT (FPT Education)
Công ty TNHH Đầu tư FPT (FPT Investment)
Công ty TNHH FPT Smart Cloud (FPT Smart Cloud)
Công ty TNHH FPT Digital (FPT Digital)
2 Công ty liên kết:
Công ty Cổ phần Synnex FPT (Synnex FPT)
Công ty Cổ phần Bán lẻ Kỹ thuật số FPT (FPT Retail)
Lĩnh vực hoạt động chính của FPT
Công nghệ: bao gồm Tư vấn chuyển đổi số; Phát triển phần mềm; Tích hợp hệ thống; và Dịch vụ CNTT.
Viễn thông: bao gồm Dịch vụ viễn thông; [Truyền hình FPT] và Nội dung số
Giáo dục: từ tiểu học đến sau đại học, liên kết quốc tế và đào tạo trực tuyến.
Thành tựu
Tại Việt Nam
Huân chương Lao động hạng Nhất (1998-2002) nhận năm 2003
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1998)
Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo bảng xếp hạng VNR500 (Từ năm 2007 tới 2021)
Top 20 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam theo bảng xếp hạng VNR500 (Từ năm 2007 tới 2021)
Top 50 thương hiệu công ty có giá trị nhất Việt Nam (Từ năm 2015 tới 2021)
Số 1 tại Việt Nam cả về doanh thu và nhân lực trong lĩnh vực tích hợp hệ thống; cung cấp dich vụ CNTT, quảng cáo trực tuyến, phân phối sản phẩm công nghệ
Số 2 tại Việt Nam về dịch vụ truy nhập internet băng rộng cố định (Sách trắng CNTT – TT Việt Nam do Bộ Thông tin Truyền thông phát hành năm 2014)
FPT đạt danh hiệu #1 Nơi làm việc tốt nhất trong ngành CNTT/Phần mềm & Ứngdụng/Thương mại điện tử, đồng thời nằm trong Top 50 Doanh nghiệp Việt có Thương hiệu nhà tuyển dụng hấp dẫn năm 2021
Các sản phẩm 'Made by FPT' được vinh danh Sao Khuê (từ năm 2015 tới 2022)
FPT được Forbes Việt Nam vinh danh trong Top 50 Công Ty Niêm Yết Tốt Nhất (Từ năm 2012 tới 2022)
FPT IS cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử
FPT nằm trong top 3 doanh nghiệp nhóm vốn hóa lớn có hoạt động IR được nhà đầu tư yêu thích nhất và top 3 doanh nghiệp nhóm vốn hóa lớn có hoạt động IR được định chế tài chính đánh giá cao nhất (Năm 2022)
FPT nhận danh hiệu Doanh nghiệp CSR tiêu biểu của Việt Nam năm 2023
FPT nhận danh hiệu Top 50 công ty niêm yết tốt nhất trong hơn 1 thập kỷ năm 2023
Trên thế giới
FPT nằm trong Top 100 nhà cung cấp dịch vụ ủy thác (IAOP) (năm 2014)
FPT nằm trong Top 300 công ty châu Á có hoạt động kinh doanh tốt nhất (năm 2015)
FPT nằm trong Top 130 công ty có môi trường làm việc tốt nhất khu vực châu Á (năm 2018)
FPT được AsiaMoney vinh danh là công ty nổi bật nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin và Dịch vụ viễn thông (Năm 2021 và 2022)
Doanh nghiệp Việt Nam duy nhất được vinh danh ở hạng mục Doanh nghiệp Ứng phó Covid-19 hiệu quả nhất (Most Valuable Corporate Response) theo Stevie® Award.
Đại học FPT là đại học đầu tiên của Việt Nam được QS, tổ chức xếp hạng ĐH uy tín hàng đầu thế giới, xếp hạng 3 sao trong 3 kỳ liên tiếp.
FPT được Fortune vinh danh FPT Americas là nơi làm việc tốt nhất Texas Mỹ năm 2023
Xem thêm
Nhà thuốc Long Châu, thương hiệu trực thuộc Công ty cổ phần bán lẻ kỹ thuật số FPT – thành viên Tập đoàn FPT.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Công ty cổ phần Việt Nam
Công ty thành lập năm 1988
Công ty có trụ sở tại Hà Nội
Công ty công nghệ thông tin Việt Nam
|
25505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93i%20sinh
|
Hồi sinh
|
Hồi sinh là một môn khoa học nghiên cứu về dự phòng và điều trị các tình trạng hấp hối khác nhau. Môn này được hình thành và phát triển từ giữa thế kỷ 20 nhờ những tiến bộ trong phẫu thuật nhất là phẫu thuật tim phổi, mạch máu. Phương pháp hồi sinh là phương pháp khoa học đấu tranh chống lại cái chết. Nhờ phương pháp này, con người có thể khôi phục được các chức phận của cơ thể đã lâm vào thời kỳ hấp hối hay chết lâm sàng. Nói chung phương pháp này có kết quả tốt trong những trương hợp chết não trong khi các cơ quan quan trọng trong cơ thể vẫn còn khá tốt. Những bệnh mãn tính đã gây ra rối loạn chức phận sâu sắc thì kết quả thấp. Người hấp hối có tỷ lệ hồi sinh cao hơn người chết lâm sàng, và chết càng lâu thì khả năng phục hồi càng kém. Khi hồi sinh có kết quả thì tuần hoàn não được khôi phục có tác dụng đem oxy lên cho tổ chức não, làm khôi phục chức năng của hệ thần kinh. Khi khu hành tủy được khôi phục thì hô hấp tự động xuất hiện. Hưng phấn khu hành tủy lan tới trung khu vận mạch có tác dụng cải thiên tuần hào não, phục hồi các chức năng cao cấp khác.
Mặc dù hiểu biết của con người về quá trình chết cũng như kỹ thuật hồi sinh ngày càng hiện đại song chết lâm sàng và chết sinh vật vẫn chưa được hiểu rõ, thường chỉ được kết luận theo kinh nghiệm. Vì vậy đôi khi vẫn có "phép mầu nhiệm" xảy ra: một bệnh nhân được coi là đã chết, các can thiệp y học đã chấm dứt, nhưng vì lý do nào đó xác chết sống lại bất chấp thời gian chết lâm sàng hàng chục tiếng.
Từ tham vọng thay đầu người tới dùng tế bào gốc tái sinh não
Trong một bài phỏng vấn thực hiện trên tờ Ooom, bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Italia Sergio Canavero mới đây cho biết ông có thể hồi sinh một bộ não đã giữ lạnh và cấy ghép vào cơ thể hiến tặng. Bộ não giữ lạnh có thể được lấy từ Tổ chức kéo dài sự sống Alcor – một công ty đang giữ lạnh rất nhiều thi thể với mong ước được tái sinh, tuy nhiên công ty này đã cho biết mình không hề có mối liên hệ nào với bác sĩ Canavero cả.
Trước đó, ông này cũng từng gây xôn xao dư luận khi cho biết mình sẽ thực hiện ca cấy ghép đầu người đầu tiên trên thế giới. Theo những thông tin được tiết lộ, đầu của người cho sẽ được giữ lạnh để giữ cho các tế bào sống. Tiếp đó, cổ sẽ bị cắt ra và các mạch máu sẽ được nối với rất nhiều ống nhỏ. Khi tủy sống bị ảnh hưởng, chiếc đầu sau đó được chuyển sang cho người nhận và lúc này mới là khâu quan trọng nhất: gắn các đầu của tủy sống 2 người với nhau.
Để làm được việc này, Canavero cho biết mình sẽ sử dụng một hóa chất phụ trợ có tên polyethylene glucol, giúp các màng tế bào mỡ nối lại với nhau. Cuối cùng là khâu các mạch máu và cơ trước khi đưa bệnh nhân vào trạng thái hôn mê khoảng 1 tháng. Sau khi tập vật lý trị liệu cường độ cao, bệnh nhân có thể tự điều chỉnh cơ thể và đi lại được.
Phòng trường hợp cơ thể đào thải vật thể lạ, Canavero cho biết ông có thể sử dụng thuốc ức chế miễn dịch để ngăn chặn điều này xảy ra.
Khi giới y học và cả cộng đồng còn đang bàn tán về chuyện thay đầu người thì một startup ở Phaladelphia, Mỹ có tên Bioquark lại cho biết họ sắp tiến hành thử nghiệm việc đưa bệnh nhân chết não sống trở lại nhờ vào tế bào gốc. Cuộc thử nghiệm đáng ra đã diễn ra từ năm 2016 ở Ấn Độ nhưng sau đó nó bị chính quyền nước này chấm dứt.
Ý tưởng này như sau: các nhà khoa học sẽ tiêm tế bào gốc từ mỡ hoặc máu của chính bệnh nhân chết não vào tủy sống của họ. Sau đó, bệnh nhân vẫn tiếp tục được tiêm hỗn hợp protein vào tủy sống với mục đích nuôi dưỡng sự phát trienr của các neuron mới. Bước tiếp theo là kích thích xung điện thần kinh và sử dụng liệu pháp laser trực tiếp với não trong thời gian khoảng hơn 15 ngày để chúng kết nối với nhau, từ đó hồi sinh não.
Còn nhiều rào cản cần vượt qua
Điểm chung giữa 2 ý tưởng trên là gặp phải rất nhiều sự phản đối và nghi ngờ. Ý tưởng cấy ghép đầu người được các nhà khoa học chỉ ra là có khá nhiều điểm bất cập. Thứ nhất: đầu người không thể tự "sống" được sau khi tách khỏi cơ thể hoặc nếu giữ lạnh hay một môi trường muối để giữ các tế bào sống thì cũng chỉ được trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: hệ miễn dịch chắc chắn sẽ phản ứng khi có "vật thể lạ" xâm nhập cơ thể. Khả năng rất cao là cơ thể sẽ đào thải chiếc đầu ghép.
Tiếp nữa là chiếc đầu và tủy phải được cấy ghép một cách vô cùng hoàn hảo để từ đó mới điều chỉnh được toàn bộ cơ thể - trong một thời gian vô cùng ngắn, chỉ khoảng 1 tiếng đồng hồ - trước khi cơ thể hoàn toàn "chết". Đây là một công việc gần như không tưởng bởi có quá nhiều việc phải làm trong khoảng thời gian đó.
Còn với ý tưởng cấy tế bào gốc, nhiều nhà khoa học hàng đầu về thần kinh học như Charles Cox, Trung tâm khoa học sức khỏe, Đại học Texas, Mỹ đã thể hiện sự hoài nghi. "Một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng tế bào ở một vài phàn của não thuộc khu vực hạ lưu có thể phát triển được trong môi trường đặc biệt, ngay cả sau khi một người đã chết. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là điều trị bằng biện pháp tế bào gốc có thể dẫn tới sự hình thành của những neuron mới và cả những liên kết mới. Các neuron sẽ phải rất khó khăn mới sống được bởi những dòng máu chảy tới não đã mất đi ngay khi bệnh nhân chết não".
Còn bác sĩ Ed Cooper - một bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác dụng của xung điện tới vận động ở North Carolina, Mỹ thì cho biết "kỹ thuật này không bao giờ có thể sử dụng được với một người chết não. "Công nghệ này buộc phải sử dụng một cuống não vẫn còn hoạt động – nơi các dây thần kinh vận động đi qua trước khi kết nối với vỏ não thích hợp. Tuy nhiên, ở những người chết não, cuống não đã không còn hoạt động nữa".
Ngoài những hoài nghi về công nghệ, rất nhiều người, đứng trên góc độ đạo đức, tỏ ra lo ngại trước những ý tưởng trên.
Tờ New Scientists dẫn lời bình luận của độc giả cho thấy nhiều người lo ngại mọi người sẽ muốn thay đổi cơ thể vì những lý do thẩm mỹ. và dẫn tới việc phải đưa ra những quy tắc nghiêm ngặt để tránh tính trạng này.
Các nhà thần kinh học như Bác sĩ Ariane Lewwis và nhà sinh học Arthur Caplan thì cho rằng ý tưởng hồi sinh não chỉ tạo ra một "hi vọng giả tạo và tàn độc" với người nhà bệnh nhân về một khả năng hồi phục. Và điều này là độc ác.
Tham khảo
|
25509
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A5p%20h%E1%BB%91i
|
Hấp hối
|
Hấp hối là tình trạng cơ thể trước khi chết.
Tình trạng hấp hối có thể chia làm 3 giai đoạn:
Thời kỳ cuối cùng: trong thời kỳ này, hoạt động của tim và hô hấp ngừng tạm thời 30-90 giây, mất phản xạ mắt, đồng tử giãn rộng. Điểm chủ yếu trong giai đoạn này là sự ức chế vỏ não lan đến các trung tâm quan trọng ở hành tủy. Các hoạt động sống bị rối loạn. Chuyển hóa rối loạn: quá trình giáng hóa mạnh hơn quá trình tổng hợp, dung giải đường mạnh hơn oxy hóa. Tại não bộ glucose, phosphocreatinin giảm, axit lactic và phospho vô cơ tăng... Thời kỳ này kéo dài khoảng 2-3 phút.
Thời kỳ hấp hối: trong thời kỳ này cơ thể sống đấu tranh chống lại cái chết. Hô hấp xuất hiện trở lại nhưng là loại hô hấp có chu kỳ gọi là thở cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trở lai, người bệnh có thể tỉnh lại. Trong thời kỳ này trung tâm điều hòa hành tủy hoạt động đến mức tối đa để duy trì sự hoạt động của các chức phận sinh lý trong điều kiện ức chế các bộ phận thần kinh. Thời kỳ hấp hối kéo dài vài phút tới vài giờ.
Thời kỳ chết lâm sàng: Hoạt động của tim và phổi ngừng. Thường thì phổi ngừng hoạt động trước tim nhưng đôi khi có trường hợp tim đã ngừng hoạt động mà vẫn thấy thở nhè nhẹ ít lâu. Trong lúc thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức chế. Không còn quá trình oxy hóa và có những rối loạn sâu sắc các men hô hấp. Lượng axit lactic tăng vọt, phospho vô cơ cũng tăng lên do sự phá hủy các phức hợp đại năng lượng. ATP, phosphocreatinin đều giảm.
Thời gian chết
Thời gian chết lâm sàng tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
Tuổi: tuổi trẻ thời gian này kéo dài hơn người già vì dự trữ năng lượng lớn và khả năng hồi phục tốt hơn.
Nhiệt độ môi trường: nhiệt độ càng thấp thời gian này càng dài.
Tính chất quá trình tử vong: những trường hợp chết đột ngột (như bị điện giật) có thời gian chết lâm sàng dài hơn là khi chết kéo dài (như chết do ngạt thở).
Thời gian hấp hối: cũng như tính chất quá trình tử vong, hấp hối càng ngắn thời gian chết lâm sàng càng dài và ngược lại. (Do quá trình hấp hối tiêu hao nhiều năng lượng.) Thời gian chết lâm sàng kéo dài khoảng 5-10 phút, bắt đầu từ lúc tim phổi ngừng hoạt động cho tới lúc não có những rối loạn không hồi phục dẫn tới chết sinh vật.
Chết sinh vật
Giai đoạn cuối cùng của quá trình tử vong mà khi mọi khả năng hồi phục không còn nữa. Tổn thương chủ yếu vẫn là rối loạn hoạt động thần kinh trung ương. Do đó có những trường hợp khôi phục chức năng hô hấp, tuần hoàn nhưng không khôi phục được chức năng thần kinh trung ương nên bệnh nhân vẫn chết.
Xem thêm
Trải nghiệm cận tử
Tham khảo
Chết
|
25510
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thomas%20Jefferson
|
Thomas Jefferson
|
Thomas Jefferson (13 tháng 4 năm 1743 – 4 tháng 7 năm 1826) là chính khách, nhà ngoại giao, luật sư, kiến trúc sư, nhà triết học người Mỹ. Ông là một trong các kiến quốc phụ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và là tổng thống thứ 3 của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (nhiệm kỳ 1801 – 1809). Jefferson sáng lập ra Đảng Dân chủ-Cộng hòa Hoa Kỳ và là một nhà triết học chính trị có ảnh hưởng lớn, một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại. Ông sinh ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, tiểu bang Virginia, lúc đó còn là vùng biên giới hoang vu, trong một gia đình kĩ sư gốc Anh. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, rồi sau đó vào trường Đại học William & Mary (1760–1762). Năm 23 tuổi, ông trở thành luật sư. 7 năm sau, ông thôi hành nghề với một tài sản kha khá và với mối ác cảm sâu sắc về giới luật sư, rồi sống cuộc sống của một nhà quý tộc nông thôn độc lập.
Tuy nhiên, sự quan tâm đến các vấn đề xã hội của Jefferson không cho phép ông hưởng thú ẩn dật. Ông được cử làm thành viên Viện đại biểu bang Virginia, và khi các vấn đề thuộc địa trở nên gay gắt, ông đóng vai trò tích cực ngày càng tăng trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Những kiến nghị của Jefferson trong đoàn đại biểu Virginia với Hội nghị lục địa được công bố trong quyển sách nhỏ tựa đề "Quan điểm tóm tắt về các quyền của nước Mỹ", đã đưa ông lên vị trí của một trong những nhà lãnh đạo cách mạng hàng đầu. Ông được cử làm công tác đặc biệt ở Anh, và tại Mỹ ông được các cộng sự chọn để dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776.
Từ bỏ ghế đại biểu ở Quốc hội, Jefferson quay ra quan tâm đến việc xây dựng một bản hiến pháp cho quê hương Virginia. Nhiều tư tưởng của ông tập trung trong văn kiện đó, và nhiều ý tưởng khác được thể hiện trong các đạo luật ban hành những năm sau đấy. Năm 1779, Jefferson được bầu làm thống đốc bang Virginia và giữ chức vụ này cho đến năm 1781. Năm 1783, trở lại tham gia Quốc hội một lần nữa, ông đứng đầu ủy ban được cử ra để xem xét hiệp ước hòa bình với Anh. Năm kế ông được cử làm công sứ đại diện cho chính phủ Mỹ non trẻ ở Pháp và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này.
Từ năm 1789, với tư cách là ngoại trưởng Mỹ trong nội các của Tổng thống George Washington, ông đã công bố tư tưởng dân chủ mà dựa vào đó Đảng Dân chủ Hoa Kỳ được xây dựng, điều này đã đưa đến việc Jefferson đắc cử Tổng thống Mỹ năm 1800. Sau 2 nhiệm kì, ông rút lui và cống hiến những năm cuối đời cho việc thiết lập trường Đại học Virginia, được ông xem là một trong những công trình quan trọng nhất của mình.
Jefferson mất ngày 4 tháng 7 năm 1826 ở Monticello, gần Charlottesville, tại căn nhà tự ông xây cất, cùng một ngày với John Adams, hưởng thọ 83 tuổi. Trên mộ bia được ông chọn từ trước, có mang dòng chữ: "Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Thomas Jefferson, tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, của Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng, và là cha đẻ của trường Đại học Virginia".
Tiểu sử
Thomas Jefferson chào đời vào ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, quận Goochland, Virginia, vùng đất mà ngày nay thuộc quận Albemarle. Cha của Thomas, ông Peter Jefferson, là một người đo đất và là chủ một đồn điền. Ông có gốc tổ tiên miền Wales. Mẹ của Thomas, Jane Randolph, là con gái của Isham Randolph, một thuyền trưởng và thỉnh thoảng cũng canh tác đồn điền. Hai người kết hôn với nhau vào năm 1739. Thomas Jefferson không quan tâm mấy đến việc tìm hiểu về tổ tiên của mình, ông chỉ biết về sự tồn tại của ông nội của mình mà thôi.
Thomas là người con thứ ba và là con trai lớn trong một gia đình 4 trai 6 gái, phần lớn đều qua đời khi tuổi còn thơ. Thomas đã trải qua 7 năm trong số 9 năm đầu tiên tại Tuckahoe, một nông trại của gia đình Randolph bên bờ sông James, gần Richmond, Virginia. Năm Thomas lên 9 tuổi, gia đình Jefferson dọn về Shadwell và tại nơi này, cậu Thomas tập đọc và tập viết tại trường học và cậu cũng được cha dạy kèm. Ông Peter dạy con câu cá, săn bắn gà lôi rừng, săn hươu nai gần dòng sông Rivanna cùng cưỡi ngựa. Thomas cũng học kéo đàn vĩ cầm và biết yêu chuộng âm nhạc từ dạo đó. Khi Thomas được 14 tuổi, ông Peter qua đời. Cậu Thomas trở nên gia trưởng vì là con trai lớn trong nhà. Cậu thừa hưởng hơn đất cùng với khoảng 20-40 người nô lệ, trong khi gia sản do người quản gia tên là John Harvie trông nom.
Sự nghiệp học hành
Thomas Jefferson bắt đầu đi học từ khi được 5 tuổi rồi khi lên 9 tuổi vào ở nội trú trong trường của William Douglas, một vị tu sĩ gốc Scotland. Về sau, Thomas còn ghi nhớ rằng các loại bánh nướng trái cây của ông Douglas ngon tuyệt vời và các bài giảng của ông cũng rất xuất sắc, ngoại trừ văn học cổ điển. Ngoài các môn học thông thường, Thomas còn được học về tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp. Sau khi cha chết, Thomas theo học ngôi trường gần Gordonsville của James Maury, một tu sĩ theo Anh giáo kiêm học giả. Ông được huấn luyện về lòng nhân đạo và về niềm tin vào Thượng đế nhưng cậu không hoàn toàn tin tưởng vào một tổ chức tôn giáo nào.
Năm 1760, vào tuổi 16, Thomas Jefferson theo học Học viện Williams and Mary tại Williamsburg. Đây là thủ phủ của thuộc địa Virginia với dân số thời đó chỉ vào khoảng 1,000 người. Thomas làm quen với xã hội thành thị và trong 2 năm trường, ông học về toán học, văn chương và triết học với Tiến sĩ William Small, một học giả gốc Scotland. Năm 1762, Tiến sĩ Small đã thu xếp để Thomas Jefferson học luật với vị Thẩm phán George Wythe, một trong các vị luật gia uyên thâm nhất của địa phương. George Wythe ảnh hưởng tới Thomas Jefferson rất nhiều và sau này, chính Wythe là một trong những người ký tên vào Bản tuyên ngôn độc lập.
Nhờ quen biết với hai Small và Wythe, Thomas Jefferson được giới thiệu với Thống đốc Virginia Francis Fauquier. Bốn người này thường trải qua các buổi chiều tại tư dinh của Thống đốc, bàn luận về thời cuộc cũng như dạo các bản nhạc thính phòng. Cũng nhân dịp này, Thomas Jefferson được gặp Patrick Henry.
Trong thời gian học môn luật, Thomas Jefferson quan tâm tới sự căng thẳng chính trị giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bảy Năm, hay còn được gọi là cuộc Chiến tranh Pháp và người Da đỏ ở Bắc Mỹ đã loại người Pháp ra khỏi tiểu lục địa Ấn Độ và lục địa Bắc Mỹ. Người Pháp đã bị người Anh thay thế và thế lực Anh đã lấn át tại phía tây bán cầu và trên các mặt biển. Nước Anh nhờ thế đã thụ hưởng được sự phát triển thương mại trên rất nhiều lãnh thổ. Năm 1760, vua George III lên ngôi nhưng do sự bất lực của nhà vua này, đã sinh ra các bất ổn đối với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.
Tại miền Bắc Hoa Kỳ, các doanh nhân thường buôn lậu với các kẻ địch và các quốc hội lục địa đã không cung cấp nhân lực và tiếp liệu cho chính quyền Anh trong khi số nợ nần của nước Anh tăng lên do việc quản trị các vùng đất mới. Để có tiền, Quốc hội nước Anh đã thông qua Đạo Luật Tem Thuế vào tháng 3 năm 1765 để gia tăng lợi tức cho nước Anh. Khi đạo luật này được công bố, Thomas Jefferson nghe Patrick Henry hùng biện, đả kích sự bất công và cho rằng Quốc hội Anh không có quyền đánh thuế các thuộc địa Bắc Mỹ. Sau này, Thomas kể lại rằng: "Đối với tôi, ông Henry đã nói hùng hồn giống như Thi hào Hómēros làm thơ vậy".
Năm 1767, Thomas Jefferson được nhận vào Luật sư đoàn và bắt đầu hành nghề luật sư một cách khá thành công. Ông chia thời gian qua lại hai địa điểm là Williamsburg và Shadwell. Tại nơi sau này, ông vẽ kiểu và trông coi xây dựng tòa nhà Monticello trên một ngọn đồi gần đó.
Kết hôn và gia đình
Thomas Jefferson cưới bà góa phụ 23 tuổi Martha Wayles Skelton vào năm 1772. Bà là con gái của ông John Wayles, một luật sư danh tiếng sống gần Williamsburg. Theo chuyện kể lại, chính nhờ âm nhạc mà Thomas đã chiếm được cảm tình của Martha vì một nhân vật khác cũng theo đuổi Martha đã phải bỏ cuộc khi nhìn thấy hai người hòa đàn vĩ cầm và dương cầm. Sau đó, gia đình Jefferson đã an cư tại Monticello, dù cho tòa nhà lớn này chưa xây xong. Martha Jefferson qua đời năm 1782, sau 10 năm kết hôn. Trong cuộc hôn nhân 10 năm, họ có với nhau năm con gái và một con trai: Martha, thường gọi là Patsy, (1772–1836); Jane (1774–1775); một con trai chưa đặt tên (1777); Mary Wayles, thường gọi là Polly, (1778–1804); Lucy Elizabeth (1780–1781); và Lucy Elizabeth (1782–1785). Tuy nhiên chỉ có hai đứa con là Martha và Mary sống cho đến tuổi trưởng thành. Sau cái chết của Martha Jefferson, Thomas Jefferson không lập gia đình nữa mà lo chăm sóc hai người con gái.
Sự nghiệp chính trị từ năm 1775 tới 1800
Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
Tại Quốc hội Lục địa, Thomas Jefferson đã là một trong những nhân vật dẫn đầu. Sau khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ nổ ra, Jefferson được yêu cầu thảo ra "Bản Tuyên bố các nguyên do và sự cần thiết phải cầm lấy vũ khí" (Declaration of the Causes and Necessity of Taking up Arms). Quốc hội sau đó đã thấy rằng bản thảo này "quá mạnh" nên đã nhờ một nhân vật ôn hòa hơn là John Dickinson viết ra một bản thay thế nhưng văn bản mới gồm phần lớn các quan điểm được đưa ra bởi Jefferson.
Vào mùa xuân năm 1776, ý kiến của các đại biểu Quốc hội Lục Địa càng nghiêng về nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ngày 7 tháng 6 năm đó, Richard Henry Lee thuộc xứ Virginia đã đưa ra một bản nghị quyết nổi danh, đó là "Các Thuộc Địa Liên Hiệp này phải có quyền và phải là các xứ tự do và độc lập" (these United Colonies are, and of right ought to be, free and independent states). Sau đó, Quốc hội Lục địa đã chỉ định một ủy ban để soạn thảo ra Bản Tuyên ngôn Độc Lập, sử gọi là Ủy ban Năm Nghị sĩ. Ủy ban này gồm: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston, hoạt động từ ngày 11 tháng 6 năm 1776 cho đến ngày 5 Tháng 7 năm 1776, ngày mà Tuyên ngôn được xuất bản. Ủy ban đồng ý cử Jefferson là người viết ra bản thảo và đã đồng ý với rất ít thay đổi. Ngày 2 tháng 7, Quốc hội Lục địa bắt đầu tranh luận và Bản tuyên ngôn độc lập được chấp thuận vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.
Bản tuyên ngôn độc lập là tác phẩm nổi tiếng nhất của Thomas Jefferson. Bản văn đó đã diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lý, biện hộ thế đứng của cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người. Các ý tưởng này phần lớn không phải là mới lạ vì theo lời ông, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa bình dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ý, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.
Nhà làm luật và thống đốc của Virginia
Tháng 9 năm 1776, Thomas Jefferson rời khỏi Quốc hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates). Ông tự nhận không có khả năng phục vụ Quân đội trong cuộc Chiến tranh Cách mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, Jefferson đã bắt đầu một chương trình cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai. Tại Virginia, một số người giàu có đã chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục. Thomas Jefferson được bầu vào Hội đồng Duyệt Xét. Trong hai năm, ông đã xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quý tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân. Giai cấp quý tộc căn cứ vào tài sản và gia đình đã dần dần phải nhường chỗ cho "giai cấp quý tộc của tài năng và đức hạnh", vì các đạo luật sau của Jefferson: Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế ("Bill for Abolition of Entails"), Đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng ("The Bill Abolishing and Primogeniture"), Đạo luật tự do tôn giáo ("The statute for religious freedom") nhờ đó đã bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách "nhà thờ" và "quốc gia", hủy bỏ các đặc quyền của "nhà thờ Anh Giáo", giới tu sĩ không còn được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không còn phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa.
Trong hai năm 1779 và 1780, Quốc hội xứ Virginia đã bầu Jefferson làm Thống đốc tiểu bang 2 lần, mỗi nhiệm kỳ 1 năm. Trong thời gian nhậm chức của ông, xứ Virginia đã phải chịu đựng nhiều hậu quả nặng nề của cuộc Chiến tranh cách mạng. Theo lời yêu cầu của George Washington, Jefferson đã lấy bớt các tài nguyên và nhân lực bảo vệ xứ Virginia để dùng trợ giúp Quân đội Cách mạng.
Url
Url1
Url
Url1
Url
Url
Url
Url
Url
Url
Ebook (full view)
Url
Url
Url
Url
Url
Nghiên cứu hàn lâm
Ackerman, Bruce. The Failure of the Founding Fathers: Jefferson, Marshall, and the Rise of Presidential Democracy. (2005)
Adams, Henry. History of the United States of America during the Administrations of Thomas Jefferson (1889; Library of America edition 1986) famous 4-volume history
Wills, Garry, Henry Adams and the Making of America (2005), detailed analysis of Adams' History
Banning, Lance. The Jeffersonian Persuasion: Evolution of a Party Ideology (1978)
Channing; Edward. The Jeffersonian System: 1801–1811 (1906), "American Nation" survey of political history
Dunn, Susan. Jefferson's Second Revolution: The Election Crisis of 1800 and the Triumph of Republicanism (2004)
Elkins, Stanley and Eric McKitrick. The Age of Federalism (1995) in-depth coverage of politics of 1790s
Fatovic, Clement. "Constitutionalism and Presidential Prerogative: Jeffersonian and Hamiltonian Perspectives." : American Journal of Political Science, 2004 48(3): 429–444. Issn: 0092-5853 Fulltext: in Swetswise, Ingenta, Jstor, and Ebsco
Finkelman, Paul. Slavery and the Founders: Race and Liberty in the Age of Jefferson (2001), esp ch 6–7
Hatzenbuehler, Ronald L. "I Tremble for My Country": Thomas Jefferson and the Virginia Gentry, (University Press of Florida; 206 pages; 2007). Argues that the TJ's critique of his fellow gentry in Virginia masked his own reluctance to change
Horn, James P. P. Jan Ellen Lewis, and Peter S. Onuf, eds. The Revolution of 1800: Democracy, Race, and the New Republic (2002) 17 essays by scholars
Jayne, Allen. Jefferson's Declaration of Independence: Origins, Philosophy and Theology (2000); traces TJ's sources and emphasizes his incorporation of Deist theology into the Declaration.
Roger G. Kennedy. Mr. Jefferson's Lost Cause: Land, Farmers, Slavery, and the Louisiana Purchase (2003).
Knudson, Jerry W. Jefferson and the Press: Crucible of Liberty. (2006)
Lewis, Jan Ellen, and Onuf, Peter S., eds. Sally Hemings and Thomas Jefferson: History, Memory, Civic Culture. (1999)
McDonald, Forrest. The Presidency of Thomas Jefferson (1987) intellectual history approach to Jefferson's Presidency
Matthews, Richard K. "The Radical Political Philosophy of Thomas Jefferson: An Essay in Retrieval," Midwest Studies in Philosophy, XXVIII (2004)
Mayer, David N. The Constitutional Thought of Thomas Jefferson (2000)
Onuf, Peter S. Jefferson's Empire: The Languages of American Nationhood. (2000). Online review
Onuf, Peter S., ed. Jeffersonian Legacies. (1993)
Onuf, Peter. "Thomas Jefferson, Federalist" (1993) online journal essay
Perry, Barbara A. "Jefferson's Legacy to the Supreme Court: Freedom of Religion." Journal of Supreme Court History 2006 31(2): 181–198. Issn: 1059-4329 Fulltext in Swetswise, Ingenta and Ebsco
Peterson, Merrill D. The Jefferson Image in the American Mind (1960), how Americans interpreted and remembered Jefferson
Rahe, Paul A. "Thomas Jefferson's Machiavellian Political Science". Review of Politics 1995 57(3): 449–481. ISSN 0034–6705 Fulltext online at Jstor and Ebsco.
Sears, Louis Martin. Jefferson and the Embargo (1927), state by state impact
Sloan, Herbert J. Principle and Interest: Thomas Jefferson and the Problem of Debt (1995). Shows the burden of debt in Jefferson's personal finances and political thought.
Smelser, Marshall. The Democratic Republic: 1801–1815 (1968). "New American Nation" survey of political and diplomatic history
Staloff, Darren. Hamilton, Adams, Jefferson: The Politics of Enlightenment and the American Founding. (2005)
Taylor, Jeff. Where Did the Party Go?: William Jennings Bryan, Hubert Humphrey, and the Jeffersonian Legacy (2006), on Jefferson's role in Democratic history and ideology.
Tucker, Robert W. and David C. Hendrickson. Empire of Liberty: The Statecraft of Thomas Jefferson (1992), foreign policy
Urofsky, Melvin I. "Thomas Jefferson and John Marshall: What Kind of Constitution Shall We Have?" Journal of Supreme Court History 2006 31(2): 109–125. Issn: 1059-4329 Fulltext: in Swetswise, Ingenta and Ebsco
Valsania, Maurizio. "'Our Original Barbarism': Man Vs. Nature in Thomas Jefferson's Moral Experience." Journal of the History of Ideas 2004 65(4): 627–645. Issn: 0022-5037 Fulltext: in Project Muse and Swetswise
Wagoner, Jennings L., Jr. Jefferson and Education. (2004).
Wiltse, Charles Maurice. The Jeffersonian Tradition in American Democracy (1935), analysis of Jefferson's political philosophy
PBS interviews with 24 historians
Tôn giáo
Gaustad, Edwin S. Sworn on the Altar of God: A Religious Biography of Thomas Jefferson (2001) Wm. B. Eerdmans Publishing, ISBN 0-8028-0156-0
Sanford, Charles B. The Religious Life of Thomas Jefferson (1987) University of Virginia Press, ISBN 0-8139-1131-1
Sheridan, Eugene R. Jefferson and Religion, preface by Martin Marty, (2001) University of North Carolina Press, ISBN 1-882886-08-9
Edited by Jackson, Henry E., President, College for Social Engineers, Washington, D. C. "The Thomas Jefferson Bible" (1923) Copyright Boni and Liveright, Inc. Printed in the United States of America. Arranged by Thomas Jefferson. Translated by R. F. Weymouth. Located in the National Museum, Washington, D. C.
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Tiểu sử tại website Tòa Bạch Ốc
Tổng thống Hoa Kỳ
Lịch sử Hoa Kỳ
Nhà triết học Mỹ
Triết gia thời kỳ Khai sáng
Thống đốc Virginia
Phó Tổng thống Hoa Kỳ
Kiến trúc sư Mỹ
Mất năm 1826
Sinh năm 1743
Nhà phát minh Mỹ
Người Mỹ gốc Anh
Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Nhà văn từ Virginia
Chủ nô lệ người Mỹ
|
25516
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%85n%20th%C3%B4ng
|
Viễn thông
|
Viễn thông là việc truyền dẫn thông tin giao tiếp qua một khoảng cách đáng kể để về địa lý.
Vào thời xưa, viễn thông gồm việc dùng các tín hiệu hình ảnh, chẳng hạn như đèn hiệu, tín hiệu khói, điện báo semaphore, tín hiệu cờ, quang báo, hoặc tin nhắn âm thanh như tiếng trống, tiếng tù và, tiếng còi.
Thời hiện đại, viễn thông là việc dùng các thiết bị điện như máy điện báo, điện thoại, máy telex, cũng như dùng thông tin liên lạc vi ba, vô tuyến, sợi quang và kết hợp với vệ tinh thông tin và Internet.
Cuộc cách mạng trong ngành viễn thông không dây bắt đầu vào thập niên 1900 với những phát triển tiên phong trong lĩnh vực vô tuyến và thông tin liên lạc không dây nhờ Nikola Tesla và Guglielmo Marconi. Marconi đã giành giải Nobel Vật lý năm 1909 cho những nỗ lực của ông. Các nhà phát minh và phát triển tiên phong đáng chú ý khác trong lĩnh vực điện và điện tử gồm Charles Wheatstone và Samuel Morse (điện báo), Alexander Graham Bell (điện thoại), Edwin Armstrong, và Lee de Forest (vô tuyến), cũng như John Logie Baird và Philo Farnsworth (truyền hình).
Dung lượng hiệu dụng của thế giới để trao đổi thông tin qua mạng viễn thông hai chiều đã tăng từ 281 petabyte thông tin (đã nén tối ưu) năm 1986 lên 471 petabyte vào năm 1993, và tới 2,2 exabyte (đã nén tối ưu) vào năm 2000, cho đến năm 2007 thì lên tới 65 exabyte (đã nén tối ưu). Lượng thông tin này tương đương với 2 trang báo cho mỗi người trong một ngày vào năm 1986 và toàn bộ 6 tờ báo cho mỗi người một ngày vào năm 2007. Với sự tăng trưởng này, viễn thông đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới và doanh thu của ngành công nghiệp viễn thông toàn thế giới ước tính đạt 3,85 nghìn tỷ USD vào năm 2008. Doanh thu dịch vụ của ngành công nghiệp viễn thông toàn cầu ước tính đạt 1,7 nghìn tỷ USD năm 2008 và dự kiến đạt 2,7 nghìn tỷ USD vào năm 2013.
Nguồn gốc từ ngữ
Từ viễn thông (telecommunication trong tiếng Anh) đã được chuyển thể từ télécommunication trong tiếng Pháp. Đây là từ ghép của tiền tố Hy Lạp tele- (τηλε-), có nghĩa là "xa", và từ communicate trong tiếng Latin có nghĩa là "chia sẻ". Từ tiếng Pháp télécommunication lần đầu tiên xuất hiện tại French Grande École "Telecom ParisTech", trước đây còn được gọi là "École nationale supérieure des télécommunications" vào năm 1904 bởi kỹ sư và tiểu thuyết gia người Pháp Édouard Estaunié.
Kinh tế
10 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới là:
Nippon Telegraph and Telephone, Nhật Bản
Deutsche Telekom, Đức
Verizon, Mỹ
France Télécom, Pháp
Vodafone, Anh
NTT DoCoMo, Nhật
SBC Communications, Mỹ
Telecom Italia, Ý
British Telecom, Anh
Telefónica, Tây Ban Nha
Thời điểm: tháng 11 năm 2004 theo doanh thu. Nguồn:
10 nhà cung cấp trang thiết bị lớn nhất cho doanh nghiệp viễn thông là
Alcatel
Ericsson
Lucent Technologies
Motorola
Nokia
Nortel
Siemens
Marconi
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tạp chí Bưu chính Viễn thông
ATIS Telecom Glossary
Communications Engineering Tutorials
Federal Communications Commission
Unified Communications
IEEE Communications Society
International Telecommunication Union
Ericsson's Understanding Telecommunications at archive.org (Ericsson removed the book from their site in September 2005)
VoIP, Voice over Internet Protocol and Internet telephone calls
Công nghệ truyền thông đại chúng
|
25518
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20Gi%C3%A1o%20d%E1%BB%A5c%2C%20Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20v%C3%A0%20V%C4%83n%20h%C3%B3a%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
|
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
|
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, viết tắt UNESCO là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên Hợp Quốc, được thành lập vào năm 1945 nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh thế giới thông qua hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin. UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên và 12 quan sát viên. Trụ sở chính của tổ chức đặt tại Paris, Pháp. UNESCO có 53 văn phòng thực địa khu vực và 199 ủy ban quốc gia để hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ toàn cầu của tổ chức.
UNESCO được thành lập vào năm 1945 với tư cách là tổ chức kế thừa Ủy ban Quốc tế về Hợp tác Trí tuệ của Hội Quốc Liên. Điều lệ của tổ chức xác định các mục tiêu, cơ cấu quản trị và khuôn khổ hoạt động của cơ quan này. Nhiệm vụ sáng lập của UNESCO, được định hình bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, là thúc đẩy hòa bình, phát triển bền vững và nhân quyền bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia. UNESCO theo đuổi mục tiêu này thông qua năm lĩnh vực chương trình chính: giáo dục, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội/nhân văn, văn hóa và truyền thông/thông tin. UNESCO tài trợ các dự án nhằm nâng cao khả năng đọc viết, cung cấp đào tạo kỹ thuật và giáo dục, thúc đẩy khoa học, bảo vệ truyền thông độc lập và tự do báo chí, bảo tồn lịch sử khu vực và văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự đa dạng văn hóa.
Với vai trò là trung tâm của văn hóa và khoa học thế giới, UNESCO đã mở rộng hoạt động của mình trong những năm qua. Tổ chức hỗ trợ dịch thuật và phổ biến văn học thế giới, giúp thành lập và bảo vệ các Di sản Thế giới có tầm quan trọng về văn hóa và tự nhiên, nỗ lực thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số trên toàn cầu và tạo ra các xã hội tri thức toàn diện thông qua thông tin và truyền thông. UNESCO đã khởi xướng một số sáng kiến và phong trào toàn cầu, chẳng hạn như Giáo dục cho mọi người, để thúc đẩy hơn nữa các mục tiêu cốt lõi của mình
UNESCO được điều hành bởi Đại hội đồng, gồm các đại diện của tất cả các quốc gia thành viên và quan sát viên. Hội nghị đại biểu họp hai năm một lần để thông qua chương trình và ngân sách của UNESCO. Hội nghị cũng bầu các thành viên của Ban chấp hành, cơ quan quản lý công việc của UNESCO và bổ nhiệm Tổng giám đốc, người đứng đầu UNESCO. UNESCO là thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc, một liên minh các cơ quan và tổ chức của Liên hợp quốc nhằm thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
Chức năng
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;
Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:
Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:
Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;
Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;
Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.
Nguồn: Công ước thành lập UNESCO
Cơ cấu
UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng Chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng Chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng Chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng Chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng Chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.
Lịch sử
Nguồn gốc
Sứ mệnh hợp tác quốc tế của UNESCO có thể bắt nguồn từ một nghị quyết của Hội Quốc Liên vào ngày 21 tháng 9 năm 1921. Nghị quyết này đã bầu chọn một Ủy ban để nghiên cứu tính khả thi của việc các quốc gia tự do chia sẻ những thành tựu văn hóa, giáo dục và khoa học. Cơ quan mới này, Ủy ban Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (ICIC), được thành lập vào năm 1922 và có sự tham gia của những nhân vật nổi tiếng như Henri Bergson, Albert Einstein, Marie Curie, Robert A. Millikan và Gonzague de Reynold (do đó là một ủy ban nhỏ của Hội Quốc Liên chủ yếu tập trung vào Tây Âu). Sau đó, Viện Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (IIIC) được thành lập tại Paris vào tháng 9 năm 1924, để đóng vai trò là cơ quan thực thi cho ICIC. Tuy nhiên, sự bùng nổ của Thế chiến II phần lớn đã cản trở công việc của các tổ chức tiền nhiệm này. Đối với các sáng kiến tư nhân, Văn phòng Giáo dục Quốc tế (IBE) bắt đầu hoạt động như một tổ chức phi chính phủ phục vụ sự phát triển giáo dục quốc tế kể từ tháng 12 năm 1925 và gia nhập UNESCO vào năm 1969, sau khi thành lập một ủy ban chung vào năm 1952.
Sự hình thành
Sau khi Tuyên ngôn Atlantic và Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc được ký kết, Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Đồng minh (CAME) bắt đầu họp tại London từ ngày 16 tháng 11 năm 1942 đến ngày 5 tháng 12 năm 1945. Ngày 30 tháng 10 năm 1943, nhu cầu về một tổ chức quốc tế được thể hiện trong Tuyên bố Moscow, được ký bởi Trung Quốc, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô. Trước đó, vào ngày 9 tháng 10 năm 1944, Hội nghị Dumbarton Oaks đã đưa ra các đề xuất về việc thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa. Sau đó, theo đề xuất của CAME và phù hợp với các khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế (UNCIO) được tổ chức tại San Francisco từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1945, Hội nghị Liên hợp quốc về thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa (ECO/CONF) đã được triệu tập tại London từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 11 năm 1945 với sự tham gia của 44 chính phủ. Ý tưởng thành lập UNESCO được Rab Butler, Bộ trưởng Giáo dục Vương quốc Anh, phát triển vào năm 1945. Tại Hội nghị ECO/CONF, Hiến chương UNESCO đã được giới thiệu và ký kết bởi 37 quốc gia. Sau đó, Ủy ban Chuẩn bị đã được thành lập để chuẩn bị cho việc thành lập UNESCO. Ủy ban này hoạt động từ ngày 16 tháng 11 năm 1945 đến ngày 4 tháng 11 năm 1946, khi Hiến chương UNESCO có hiệu lực với việc nộp phê chuẩn thứ hai mươi của một quốc gia thành viên.
Hội nghị Đại hội đồng đầu tiên của UNESCO được tổ chức tại Paris từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 năm 1946. Tại hội nghị này, Julian Huxley đã được bầu làm Tổng Giám đốc UNESCO. Đại tá Hoa Kỳ, hiệu trưởng đại học và nhà hoạt động dân quyền Blake R. Van Leer cũng tham gia hội nghị với tư cách là thành viên. Hiến chương UNESCO được sửa đổi vào tháng 11 năm 1954, theo đó Hội nghị Đại hội đồng quyết định các thành viên của Ban Chấp hành sẽ là đại diện của chính phủ các quốc gia mà họ là công dân và sẽ không còn hành động với tư cách cá nhân như trước đây. Sự thay đổi trong cơ chế quản trị này đã phân biệt UNESCO với tổ chức tiền thân của nó, ICIC, về cách các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực chuyên môn của tổ chức. Khi các quốc gia thành viên hợp tác cùng nhau theo thời gian để thực hiện sứ mệnh của UNESCO, các yếu tố chính trị và lịch sử đã định hình hoạt động của tổ chức, đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh, quá trình phi thực dân hóa và sự sụp đổ của Liên Xô.
Phát triển
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của tổ chức là công tác chống phân biệt chủng tộc. Tổ chức đã ban hành nhiều tuyên bố có ảnh hưởng về chủng tộc, bắt đầu với Tuyên bố của các nhà nhân chủng học và các nhà khoa học khác vào năm 1950 và kết thúc với Tuyên bố năm 1978 về Chủng tộc và Định kiến về Chủng tộc.
Năm 1956, Nam Phi rút khỏi UNESCO vì cho rằng một số ấn phẩm của tổ chức này can thiệp vào vấn đề phân biệt chủng tộc của đất nước. Nam Phi gia nhập lại UNESCO vào năm 1994 dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela.
Những hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực giáo dục bao gồm một dự án thí điểm về giáo dục cơ bản tại Thung lũng Marbial, Haiti, bắt đầu vào năm 1947. Dự án này được tiếp nối bởi các phái đoàn chuyên gia đến các quốc gia khác, bao gồm, ví dụ, một phái đoàn đến Afghanistan vào năm 1949. Năm 1948, UNESCO khuyến nghị các quốc gia thành viên nên bắt buộc và phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí. Năm 1990, Hội nghị Thế giới về Giáo dục cho Tất cả, tại Jomtien, Thái Lan, đã phát động một phong trào toàn cầu nhằm cung cấp giáo dục cơ bản cho tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Mười năm sau, Diễn đàn Giáo dục Thế giới năm 2000 được tổ chức tại Dakar, Senegal, đã dẫn dắt các chính phủ thành viên cam kết đạt được giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người vào năm 2015.
Các hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực văn hóa tập trung vào việc bảo tồn di sản văn hóa. Năm 1960, UNESCO đã khởi động Chiến dịch Quốc tế Cứu hộ Di tích Nubia để di dời Đền thờ Abu Simbel vĩ đại khỏi nguy cơ bị nhấn chìm bởi sông Nile sau khi xây dựng Đập Aswan. Chiến dịch này đã kéo dài 20 năm và thành công trong việc di dời 22 di tích và quần thể kiến trúc. Đây là chiến dịch đầu tiên và lớn nhất trong một loạt các chiến dịch bảo tồn di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm Mohenjo-daro (Pakistan), Fes (Morocco), Kathmandu (Nepal), Borobudur (Indonesia) và Thành phòng thủ của Athens (Hy Lạp). Công việc của tổ chức về di sản đã dẫn đến việc thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới vào năm 1972. Ủy ban Di sản Thế giới được thành lập vào năm 1976 và các di sản đầu tiên được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới vào năm 1978. Kể từ đó, các văn kiện pháp lý quan trọng về di sản văn hóa và sự đa dạng đã được các quốc gia thành viên UNESCO thông qua vào năm 2003 (Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể) và năm 2005 (Công ước bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa).
Cuộc họp liên chính phủ của UNESCO tại Paris vào tháng 12 năm 1951 đã dẫn đến việc thành lập Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu, tổ chức này chịu trách nhiệm thành lập Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) sau này, vào năm 1954. Chương trình Khu vực hạn hán, 1948–1966, là một ví dụ khác về dự án lớn ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Năm 1968, UNESCO tổ chức hội nghị liên chính phủ đầu tiên nhằm mục đích dung hòa môi trường và phát triển, một vấn đề vẫn tiếp tục được giải quyết trong lĩnh vực phát triển bền vững. Kết quả chính của hội nghị năm 1968 là việc thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) của UNESCO. UNESCO đã được ghi nhận là tổ chức thúc đẩy sự phát triển của các cơ quan nghiên cứu khoa học quốc gia.
Trong lĩnh vực truyền thông, UNESCO luôn đề cao "sự lưu thông tự do của các ý tưởng bằng lời nói và hình ảnh". Điều này xuất phát từ kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi kiểm soát thông tin là một yếu tố dẫn đến việc nhồi nhét tư tưởng cho dân chúng để xâm lược. Trong những năm ngay sau chiến tranh, UNESCO tập trung vào việc tái thiết và xác định nhu cầu về các phương tiện truyền thông đại chúng trên toàn thế giới. UNESCO bắt đầu tổ chức các chương trình đào tạo và giáo dục cho các nhà báo vào những năm 1950. Đáp lại những kêu gọi về một "Trật tự Thông tin và Truyền thông Thế giới Mới" vào cuối những năm 1970, UNESCO đã thành lập Ủy ban Quốc tế về Nghiên cứu Các vấn đề Truyền thông, tổ chức này đã cho ra đời Báo cáo MacBride năm 1980 (được đặt theo tên của chủ tịch ủy ban, người đoạt Giải Nobel Hòa bình Seán MacBride). Năm 1980, UNESCO thành lập Chương trình Phát triển Truyền thông Quốc tế (IPDC) để thúc đẩy sự phát triển của truyền thông ở các nước đang phát triển. Năm 1991, UNESCO đã thông qua Tuyên bố Windhoek về độc lập và đa nguyên của báo chí, dẫn đến việc Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố ngày 3 tháng 5, ngày thông qua Tuyên bố, là Ngày Tự do Báo chí Thế giới. Kể từ năm 1997, UNESCO đã trao Giải thưởng Tự do Báo chí Thế giới UNESCO / Guillermo Cano vào mỗi ngày 3 tháng 5.
Thế kỷ 21
UNESCO đã kết nạp Palestine trở thành thành viên vào năm 2011. Các luật được thông qua tại Hoa Kỳ sau khi Palestine nộp đơn xin gia nhập UNESCO và WHO vào tháng 4 năm 1989 có nghĩa là Hoa Kỳ không thể đóng góp tài chính cho bất kỳ tổ chức Liên Hợp Quốc nào chấp nhận Palestine là thành viên chính thức. Kết quả là, Hoa Kỳ đã rút lại nguồn tài trợ của mình, chiếm khoảng 22% ngân sách của UNESCO. Israel cũng phản ứng trước việc Palestine được kết nạp vào UNESCO bằng cách đóng băng các khoản thanh toán của Israel cho UNESCO và áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Chính quyền Palestine, tuyên bố rằng việc kết nạp Palestine sẽ gây bất lợi cho 'các cuộc đàm phán hòa bình tiềm tàng'. Hai năm sau khi ngừng đóng hội phí cho UNESCO, Hoa Kỳ và Israel đã mất quyền bỏ phiếu của UNESCO vào năm 2013 mà không mất quyền được bầu; do đó, Hoa Kỳ đã được bầu làm thành viên của ban chấp hành cho giai đoạn 2016-2019. Năm 2019, Israel rời khỏi UNESCO sau 69 năm là thành viên, với đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc Danny Danon viết: "UNESCO là cơ quan liên tục viết lại lịch sử, bao gồm cả việc xóa bỏ mối liên hệ của người Do Thái với Jerusalem ... nó bị các kẻ thù của Israel làm hư hỏng và thao túng ... chúng tôi sẽ không trở thành thành viên của một tổ chức cố tình hành động chống lại chúng tôi ".
Thành viên
Tính đến tháng 2 năm 2024, UNESCO có 195 quốc gia thành viên và 12 quan sát viên. Một số thành viên không phải là quốc gia độc lập và một số thành viên có Ủy ban Tổ chức Quốc gia bổ sung từ một số lãnh thổ phụ thuộc của họ. Các quốc gia thành viên UNESCO là các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc (trừ Israel và Liechtenstein), cũng như Quần đảo Cook, Niue và Palestine. Hoa Kỳ và Israel đã rời UNESCO vào ngày 31 tháng 12 năm 2018, nhưng Hoa Kỳ đã gia nhập lại vào năm 2023.
Các tổ chức phi chính phủ UNESCO NGO
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Phần lớn số đó được UNESCO gọi là "operational", và một số chọn lọc là "formal".
Mức quan hệ cao nhất với UNESCO là "formal associate" và có 22 NGO như vậy.
Các viện và trung tâm
Các viện và trung tâm
Những ngày Quốc tế của UNESCO
Những ngày hành động quốc tế do UNESCO đề xuất và được thừa nhận
Đại hội đồng
Các chủ tịch từ 1946
Đại hội đồng UNESCO từ 1946:
Hội đồng Chấp hành
Hội đồng Chấp hành được bầu tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO. Mỗi ủy viên được bầu đảm trách nhiệm kỳ 4 năm, tính từ 01 tháng 1 năm sau trúng cử. Kỳ họp tháng 11/2015 chưa có kết quả cuối cùng.
{| class="wikitable"
|+ Hội đồng Chấp hành
|-style="border-top: 2px solid;"
! Nhiệm kỳ
! Nhóm I (9)
! Nhóm II (7)
! Nhóm III (10)
! Nhóm IV (12)
! Nhóm V(a) (14)
! Nhóm V(b) (7)
|- style="background:#eeffee;border-top: 2px solid;"
| 2019-2023
|
|
|
|
|
|
|- style="background:#f7f7c7;border-top: 2px solid;"
|2016-19|
|
|
|
|
|
|-
| 2014-17|
|
|
|
|
|
|- style="border-top: 2px solid;"
| 2012-15'|
|
|
|
|
|
|}
Các văn phòng
UNESCO có văn phòng tại nhiều nơi trên toàn cầu; trụ sở chính của nó đặt tại Place de Fontenoy, Paris, Pháp, hiện tại đã đổi tên thành World Heritage Centre.
UNESCO's field offices are categorized into four primary office types based upon their function and geographic coverage: cluster offices, national offices, regional bureaux and liaison offices.
Các văn phòng theo vùng
Danh sách sau đây bao gồm tất cả các văn phòng UNESCO được phân chia theo vùng và được đánh dấu bằng tên các nước văn phòng đó phục vụ.
Châu Phi
Abuja – Văn phòng Quốc gia Nigeria
Accra – Văn phòng chung cho Bénin, Bờ Biển Ngà, Ghana, Liberia, Nigeria, Sierra Leone và Togo
Addis Ababa – Văn phòng cho Liên minh châu Phi (AU, African Union) và Economic Commission for Africa
Bamako – Văn phòng chung cho Burkina Faso, Guinea, Mali và Niger
Brazzaville – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Congo
Bujumbura – Văn phòng Quốc gia Burundi
Dakar – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục ở châu Phi và Văn phòng chung cho Cape Verde, Gambia, Guinea-Bissau, và Sénégal
Dar es Salaam – Văn phòng chung cho Comoros, Madagascar, Mauritius, Seychelles và Tanzania
Harare – Văn phòng chung cho Botswana, Malawi, Mozambique, Zambia và Zimbabwe
Kinshasa – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo
Libreville – Văn phòng chung cho Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, Gabon và São Tomé và Príncipe
Maputo – Văn phòng Quốc gia Mozambique
Nairobi – Văn phòng cấp vùng cho Sciences in Africa và Văn phòng chung cho Burundi, Djibouti, Eritrea, Kenya, Rwanda, Somalia, Nam Sudan và Uganda
Windhoek – Văn phòng Quốc gia Namibia
Yaoundé – Văn phòng chung cho Cameroon, Cộng hòa Trung Phi và Chad
Các nước A rập
Iraq – Văn phòng Quốc gia Iraq (hiện tại đang đặt ở Amman, Jordan)
Amman – Văn phòng Quốc gia Jordan
Beirut – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Liban, Syria, Jordan, Iraq và Palestine
Cairo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Ai Cập, Libya và Sudan
Doha – Văn phòng chung cho Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen
Khartoum – Văn phòng Quốc gia Sudan
Rabat – Văn phòng chung cho Algérie, Mauritanie, Maroc và Tunisia
Châu Á Thái Bình Dương
Almaty – Văn phòng chung cho Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan
Apia – Văn phòng chung cho Australia, Quần đảo Cook, Fiji, Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, New Zealand, Niue, Palau, Papua New Guinea, Samoa, Quần đảo Solomon, Tonga, Tuvalu, Vanuatu và Tokelau (quan sát viên)
Bangkok – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Thái Lan, Miến Điện, Lào, Singapore, Việt Nam và Campuchia
Bắc Kinh – Văn phòng chung cho Bắc Triều Tiên, Nhật Bản, Mông Cổ, Trung Quốc và Hàn Quốc
Dhaka – Văn phòng Quốc gia Bangladesh
Hà Nội – Văn phòng Quốc gia Việt Nam
Islamabad – Văn phòng Quốc gia Pakistan
Jakarta – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Brunei, Indonesia, Malaysia, the Philippines và Đông Timor
Kabul – Văn phòng Quốc gia Afghanistan
Kathmandu – Văn phòng Quốc gia Nepal
New Delhi – Văn phòng chung cho Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal và Sri Lanka
Phnôm Pênh – Văn phòng Quốc gia Campuchia
Tashkent – Văn phòng Quốc gia Uzbekistan
Tehran – Văn phòng chung cho Afghanistan, Iran, Pakistan và Turkmenistan
Châu Âu và Bắc Mỹ
Brussels – Liaison Office to the European Union và its subsidiary bodies in Brussels
Geneva – Liaison Office to the United Nations in Geneva
New York City – Liaison Office to the United Nations in New York
Moskva – Văn phòng chung cho Armenia, Azerbaijan, Belarus, Moldova và Nga.
Venice – Văn phòng cấp vùng cho Sciences và Culture in Europe và North America
Mỹ Latinh và quần đảo Caribê
Brasilia – Văn phòng Quốc gia Brazil
Thành phố Guatemala – Văn phòng Quốc gia Guatemala
La Habana – Văn phòng cấp vùng cho Văn hóa ở châu Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Cuba, Cộng hòa Dominicana, Haiti và Aruba
Kingston – Văn phòng chung cho Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbados, Belize, Dominica, Grenada, Guyana, Jamaica, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Suriname và Trinidad và Tobago cũng như cho các quan sát viên Quần đảo Virgin thuộc Anh, Quần đảo Cayman, Curaçao và Sint Maarten
Lima – Văn phòng Quốc gia Peru
Thành phố México – Văn phòng Quốc gia México
Montevideo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Argentina, Brazil, Chile, Paraguay và Uruguay
Port-au-Prince – Văn phòng Quốc gia Haiti
Quito – Văn phòng chung cho Bolivia, Colombia, Ecuador và Venezuela
San José – Văn phòng chung cho Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, México, Nicaragua và Panama
Santiago de Chile – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng Quốc gia Chile
Đại sứ thiện chí
Các Đại sứ thiện chí của UNESCO là người sử dụng tài năng hay sự nổi tiếng của mình để truyền bá tư tưởng của UNESCO, đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Chất chuyên ngành khác nhau của người ủng hộ bao gồm những ngưới hoạt động vì hòa bình, hoạt động thể thao, hay làm Đặc phái viên cho UNESCO.
Danh sách giải thưởng UNESCO
UNESCO có 22 giải thưởng trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và hòa bình:
Giải Hòa bình Félix Houphouët-Boigny
Giải L'Oréal-UNESCO dành cho phụ nữ làm khoa học
Giải Văn chương UNESCO King Sejong
Giải Văn chương UNESCO Khổng Tử
Giải UNESCO/Emir Jaber al-Ahmad al-Jaber al-Sabah nhằm quảng bá giáo dục cho người bị thiểu năng trí tuệ
Giải UNESCO King Hamad Bin Isa Al-Khalifa cho việc sử dụng các công nghiệp thông tin và truyền thông nhằm vào mục đích giáo dục
Giải UNESCO/Hamdan Bin Rashid Al-Maktoum cho các hành động xuất sắc trong việc nâng cao tính hiệu quả của giáo viên
UNESCO/Giải Kalinga cho việc phổ cập khoa học
UNESCO/Institut Pasteur Medal for an outstanding contribution to the development of scientific knowledge that has a beneficial impact on human health
UNESCO/Sultan Qaboos Prize for Environmental Preservation
Great Man-Made River International Water Prize for Water Resources in Arid Zones presented by UNESCO (title to be reconsidered)
Michel Batisse Award for Biosphere Reserve Management
UNESCO/Bilbao Prize for the Promotion of a Culture of Human Rights
UNESCO Prize for Peace Education
UNESCO-Madanjeet Singh Prize for the Promotion of Tolerance and Non-Violence
UNESCO/International José Martí Prize
UNESCO/Avicenna Prize for Ethics in Science
UNESCO/Juan Bosch Prize for the Promotion of Social Science Research in Latin America and the Caribbean
Sharjah Prize for Arab Culture
Melina Mercouri International Prize for the Safeguarding and Management of Cultural Landscapes (UNESCO-Greece)
IPDC-UNESCO Prize for Rural Communication
UNESCO/Guillermo Cano World Press Freedom Prize
UNESCO/Jikji Memory of the World Prize
Các giải thưởng ngừng trao tặng
Giải thưởng Carlos J. Finlay cho vi sinh học (ngừng từ 2005)
Giải thưởng Simón Bolívar (ngừng từ 2004)
Giải thưởng UNESCO về Nghiên cứu Nhân quyền
Giải Quốc tế UNESCO/Obiang Nguema Mbasogo cho Nghiên cứu về Khoa học đời sống (ngừng từ 2010)
UNESCO Prize for the Promotion of the Arts
Tranh cãi và cải cách
Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới
UNESCO đã từng là trung tâm của tranh cãi trong quá khứ, đặc biệt là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Singapore và Liên Xô cũ.
Trong những năm 1970 và 1980, UNESCO hỗ trợ cho một "Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới" (New World Information and Communication Order), và báo cáo MacBride (MacBride report) của nó kêu gọi dân chủ hóa phương tiện truyền thông và tiếp cận bình đẳng hơn với các thông tin, đã bị lên án ở các nước vốn có nỗ lực kiềm chế tự do báo chí.
UNESCO đã được một số nước cảm nhận như là sân đấu cho các nước cộng sản và các nhà độc tài của thế giới Thứ ba để tấn công phương Tây. Nó thể hiện rõ rệt trong tố cáo của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Năm 1984, Hoa Kỳ đã cắt giảm của mình đóng góp và rồi rút lui khỏi UNESCO để phản đối, tiếp theo năm 1985 là Vương quốc Anh. Singapore cũng rút theo, với lý do phí thành viên tăng.
Sau khi thay đổi chính phủ trong năm 1997, Anh gia nhập trở lại. Hoa Kỳ gia nhập lại vào năm 2003, tiếp theo là Singapore ngày 08/10/2007.
Israel
Wikileaks và UNESCO
Vào ngày 16 và 17 tháng 2 năm 2012, UNESCO đã tổ chức một hội nghị mang tên Truyền thông thế giới sau WikiLeaks và Tin tức thế giới (The Media World after WikiLeaks and News of the World). Mặc dù tất cả sáu tấm áp phích đều tập trung về WikiLeaks, nhưng lại không có ai từ WikiLeaks được mời là diễn giả. Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson, UNESCO đã mời ông tham dự, nhưng không đưa ra bất kỳ một vị trí trên bảng. Các đề nghị cũng chỉ được đưa ra một tuần trước khi hội nghị được tổ chức tại Paris, Pháp. Những diễn giả khác như David Leigh và Heather Brooke thì lên tiếng công khai chống lại WikiLeaks và người sáng lập Julian Assange trong quá khứ.
WikiLeaks phát hành một thông cáo báo chí vào ngày 15/02/2012 tố cáo UNESCO trong đó nói: "UNESCO đã tự biến mình thành một trò đùa về nhân quyền quốc tế. Sử dụng "tự do ngôn luận" để kiểm duyệt WikiLeaks từ một hội nghị về WikiLeaks là một điều Orwellian'' ngớ ngẩn vượt mọi ngôn từ. Đây là một sự lạm dụng quá quắt Hiến chương UNESCO. Đây là thời gian để chiếm UNESCO." Kèm theo tuyên bố là email trao đổi của người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson và ban tổ chức hội nghị UNESCO.
Xem thêm
Thư viện kỹ thuật số Thế giới
Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam
Ngày lễ quốc tế
Đại sứ thiện chí UNESCO
MacBride report
Tham khảo
Liên kết ngoài
UNESCO Member States
Trang chủ UNESCO
UNESCO tại Việt Nam
Giới thiệu UNESCO tại Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm UNESCO Văn hóa Giáo dục và Đào tạo
Tổ chức giáo dục quốc tế
Tổ chức khoa học quốc tế
Liên Hợp Quốc
Bài cơ bản dài
Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc
Tổ chức thành lập năm 1945
Cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc
Tổ chức bảo tồn và phục hồi
Tổ chức di sản văn hóa
Tiếng anh
|
25519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20C%C3%BAp%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202006
|
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2006
|
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2006, mang tên gọi là Giải bóng đá Cúp Quốc gia Vinakansai Cement 2006 Là giải đấu Cúp của bóng đá Việt Nam được tổ chức lần thứ 14, có 28 câu lạc bộ thuộc hai giải chuyên nghiệp và hạng nhất tham dự. Do đội Cần Thơ bị kỷ luật (tội hối lộ) và phải xuống hạng nhì nên chỉ còn 27 đội.
4 đội vào bán kết Cúp quốc gia mùa trước là Gạch Đồng Tâm Long An, Hải Phòng, Hoàng Anh Gia Lai và Khánh Hoà cùng với câu lạc bộ bóng đá Đông Á (do bốc thăm) được miễn đấu vòng đấu đầu tiên (vòng 1/16).
22 đội tham dự vòng 1/16 để chọn ra 11 đội. 11 đội này cùng với 5 đội được miễn thi đấu vòng 1/16 sẽ tham dự vòng 1/8.
Ngày 23 tháng 12, câu lạc bộ bóng đá Đông Á được chuyển giao cho câu lạc bộ bóng đá Gạch Đồng Tâm Long An và mang tên mới Sơn Đồng Tâm Long An. Vì 2 đội Gạch Đồng Tâm và Sơn Đồng Tâm cùng thuộc một câu lạc bộ, nên Sơn Đồng Tâm sẽ không được tham gia Cúp quốc gia 2006 và trận đấu với Bình Định ở vòng 1/8 bị hủy bỏ. Bình Định giành quyền vào vòng tứ kết.
Vòng 1/16
Vòng 1/8
Vòng Tứ kết
Vòng Bán kết
Trận Chung kết
Xem thêm
Giải bóng đá vô địch quốc gia 2006
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam 2006
Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia 2006
Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia 2006
Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2006
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên đoàn Bóng đá Việt Nam
Thể thao - Việt Nam Net
Cúp bóng đá Việt Nam
Bóng đá, cúp
|
25521
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/George%20Washington
|
George Washington
|
George Washington (22 tháng 2 năm 173214 tháng 12 năm 1799) là một nhà lãnh đạo quân sự, chính khách người Mỹ, một trong những người lập quốc, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ từ năm 1789 đến năm 1797. Trước đó, ông đã lãnh đạo lực lượng Yêu nước giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập của quốc gia. Ông chủ trì thực hiện Hội nghị Lập hiến năm 1787, thành lập Hiến pháp Hoa Kỳ và chính phủ liên bang. Washington được gọi là "Cha già của nước Mỹ" vì sự lãnh đạo tài tình của ông trong những ngày hình thành quốc gia mới.
Chức vụ đầu tiên của Washington là Kiểm soát viên chính thức của Quận Culpeper, Virginia từ năm 1749 đến năm 1750. Sau đó, ông được huấn luyện quân sự và tham gia chỉ huy với Trung đoàn Virginia trong Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ. Sau đó, ông được bầu vào Hạ viện Virginia của Burgesses và được chỉ định là đại biểu của Quốc hội Lục địa, nơi ông được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy Quân đội Lục địa. Ông chỉ huy các lực lượng Mỹ, đồng minh với Pháp, trong thất bại và đầu hàng của quân Anh tại Cuộc vây hãm Yorktown. Ông từ chức ủy ban của mình sau Hiệp định Paris năm 1783.
Washington đóng vai trò quan trọng trong việc thông qua và phê chuẩn Hiến pháp và sau đó hai lần được bầu làm tổng thống bởi Cử tri đoàn. Ông đã tạo ra một chính phủ quốc gia mạnh mẽ, được tài trợ tốt và vẫn tỏ ra vô tư trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các thành viên nội các Thomas Jefferson và Alexander Hamilton. Trong cuộc Cách mạng Pháp, ông tuyên bố chính sách trung lập trong khi lên án Hiệp ước Jay. Ông đã đặt ra những tiền lệ lâu dài cho chức vụ tổng thống, bao gồm cả danh hiệu "Ngài Tổng thống", và Bài diễn văn chia tay của ông được nhiều người coi là một tuyên bố nổi bật về chủ nghĩa cộng hòa.
Washington sở hữu nô lệ, và để duy trì sự thống nhất quốc gia, ông ủng hộ các biện pháp được Quốc hội thông qua để bảo vệ chế độ nô lệ. Sau đó, ông gặp rắc rối với thể chế nô lệ của mình theo di chúc năm 1799. Ông cố gắng hòa nhập người Mỹ bản địa vào văn hóa Anh-Mỹ, nhưng chống lại sự phản kháng của người bản địa trong các cuộc xung đột bạo lực. Ông là một thành viên của Anh giáo và Hội Tam điểm, ông đã thúc đẩy tự do tôn giáo rộng rãi trong vai trò là tổng thống. Sau khi qua đời, ông được tôn vinh là "người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và là người đầu tiên có trái tim của những người đồng hương với mình". Ông được tưởng nhớ tại các đài tưởng niệm, nghệ thuật, vị trí địa lý bao gồm thủ đô quốc gia, tên tiểu bang, tem và tiền tệ như một vị anh hùng dân tộc của Mỹ, nhiều học giả và các cuộc thăm dò xếp hạng ông trong số các vị tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ.
Đầu đời: 1732–1753
Gia tộc Washington vốn là một dòng họ thuộc lớp chủ đồn điền ở Virginia, trở nên giàu có nhờ việc đầu cơ đất đai và trồng thuốc lá. Cụ cố của Washington, John Washington, nhập cư thuộc địa Virginia vào năm 1656 từ Sulgrave, Northamptonshire, Anh quốc; ông đã tích lũy được đất đai ở Virginia, bao gồm các mảnh đất quanh Little Hunting Creek, phụ lưu Sông Potomac.
George Washington chào đời ngày 22 tháng 2 năm 1732, tại Popes Creek, Hạt Westmoreland, lúc bấy giờ là thuộc địa Virginia của Anh. Ông là con đầu lòng trong số sáu người con của ông Augustine và bà Mary Ball Washington. Augustine hành nghề thẩm phán hòa giải và là một nhân vật công chúng hết sức nổi bật; trước đó ông kết hôn với Jane Butler và đã có bốn đứa con. Năm 1735, gia đình Washington chuyển đến sống ở Little Hunting Creek. Năm 1738, họ chuyển đến sống ở Nông trang Ferry gần Fredericksburg, Virginia, bên Sông Rappahannock. Khi thân phụ ông qua đời vào năm 1743, Washington kế thừa Nông trang Ferry và mười nô lệ; anh trai cùng cha khác mẹ Lawrence kế thừa mảnh đất Little Hunting Creek và đổi tên nó thành Mount Vernon.
Cái chết của cha khiến cho ông mất cơ hội vượt Đại Tây Dương để nhận sự giáo dục tại Trường Appleby của Anh như những người anh trai của mình đã từng làm. Ông đi học tại Fredericksburg cho đến tuổi 15. Mong muốn gia nhập Hải quân Hoàng gia không thành hiện thực sau khi mẹ ông biết nó rất là khó khăn cho ông. Nhờ mối liên hệ của Lawrence với gia đình quyền lực ở Fairfax nên vào năm 17 tuổi, George trở thành thanh tra quận Culpeper vào năm 1749. Đây là 1 công việc trả lương hậu đã giúp cho ông mua được đất đai trong thung lũng Shenandoah, đây cũng là lần đầu tiên trong số nhiều vụ mua đất đai của ông tại Tây Virginia. Cũng phải nói là nhờ đến sự có mặt của Lawrence trong Công ty Ohio, một công ty đầu tư đất đai được tài trợ bởi những nhà đầu tư tại Virginia và nhờ vào vị trí của Lawrence trong vai trò tư lệnh địa phương quân Virginia nên George được phó thống đốc mới của Virginia là Robert Dinwiddie chú ý đến. Washington khó mà bị lọt ra khỏi tầm mắt của người khác: cao 6 ft 2 inch (188 cm; ước tính về chiều cao của ông có thay đổi), ông cao hơn đa số người đương thời của ông.
Năm 1751, Washington đi đến Barbados cùng với Lawrence, người mắc phải bệnh lao, với hy vọng rằng khí hậu sẽ có lợi cho sức khỏe của Lawrence. Washington mắc phải bệnh đậu mùa trong chuyến đi này khiến cho khuôn mặt của ông có ít nhiều vết sẹo nhưng đã giúp cho ông miễn nhiễm với căn bệnh độc này về sau. Để bảo mật sự riêng tư của họ, Martha Washington đốt hết các thư từ của ông bà viết cho nhau sau khi ông mất. Chỉ còn lại ba lá thư giữa hai người vẫn tồn tại đến ngày nay.
Ngày 18 tháng 12 năm 1799, lễ tang được tổ chức tại Mount Vernon. Ông được chôn cất tại nơi đây.
Với sự ủng hộ của vợ ông, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết chung nhằm xây một tượng đài bằng cẩm thạch trong Tòa Quốc hội Hoa Kỳ để cất giữ thân xác ông. Tháng 12 năm 1800, Hạ viện Hoa Kỳ đưa một đạo luật chi tiêu khoảng $200.000 để xây dựng lăng mộ hình kim tự tháp có đáy rộng 100 bộ vuông (30 mét vuông). Sự phản đối dự án này từ miền Nam đã đánh bại đạo luật vì người miền Nam cảm thấy để xác của ông tại Mount Vernon là tốt nhất (ông là người từ Virginia, một tiểu bang miền Nam vào thời đó).
Năm 1831, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông, một ngôi mộ mới được xây cho ông. Năm đó, có một âm mưu đánh cắp xác của ông đã được thực hiện nhưng được chứng minh là không thành công. Dù vậy, một ủy ban quốc hội chung (ủy ban của cả hai viện lập pháp) vào đầu năm 1832 đã bàn thảo đến việc dời thân thể của Washington ra khỏi Mount Vernon để đưa đến một hầm mộ trong Tòa nhà Quốc hội do Charles Bullfinch xây vào thập niên 1820. Lại thêm một lần nữa, sự chống đối từ miền Nam tỏ ra rất dữ dội, do sự hiềm khích ngày càng sâu rộng giữa miền Nam và miền Bắc. Dân biểu Wiley Thompson của tiểu bang Georgia phát biểu về nỗi lo sợ của người miền Nam khi ông nói:
Điều này làm các cuộc bàn thảo về việc di dời hài cốt của ông chấm dứt, và ông được đưa vào ngôi mộ mới được xây dựng tại đó vào ngày 7 tháng 10 năm 1837 với sự chủ trì của John Struthers từ thành phố Philadelphia. Sau buổi lễ, cửa hầm mộ bên trong được đóng lại và chìa khóa mở ngôi mộ được quăng xuống sông Potomac.
Di sản
Dân biểu Henry "Light-Horse Harry" Lee, một người bạn chiến đấu của ông thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nổi tiếng qua những lời lẽ ca ngợi Washington như sau:
Lời lẽ ca ngợi của Lee đã tạo ra chuẩn mực mà qua đó danh tiếng vượt bậc của Washington có ấn tượng sâu sắc trong ký ức của người Mỹ. Washington đã tạo ra nhiều tiền lệ cho chính phủ quốc gia, và đặc biệt là cho chức vụ tổng thống. Ông được gọi là "cha già dân tộc" bắt đầu kể từ năm 1778. Sinh nhật của Washington (được chào mừng trong ngày Lễ Tổng thống), là một ngày nghỉ lễ liên bang tại Hoa Kỳ.
Trong năm chào mừng "Hoa Kỳ 200 năm", George Washington được vinh thăng lên cấp bậc Đại thống tướng theo nghị quyết chung của Quốc hội Hoa Kỳ (xin xem Công luật 94-479), được thông qua vào ngày 19 tháng 1 năm 1976, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm 1976. Hành động này đã nâng vị trí của Washington lên thành vị sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Cây Cherry
Những câu chuyện mơ hồ về tuổi thơ của Washington gồm có câu chuyện cho rằng ông đánh lướt một đô la bằng bạc chạy băng qua sông Potomac ở Mount Vernon và rằng ông đốn ngã cây cherry của cha ông, và thừa nhận hành vi này khi bị tra hỏi; "Con không thể nói dối, ba à". Giai thoại này lần đầu tiên được Parson Weems, người chuyên viết tiểu sử, tường thuật. Ông này đã phỏng vấn những người biết Washington lúc nhỏ. Phiên bản câu chuyện từ Weems được in ấn rộng khắp suốt thế kỷ 19, chẳng hạn như trong McGuffey Readers. Những người lớn có đầu óc đạo đức luôn mong muốn trẻ em học những bài học luân lý trong quá khứ lịch sử, đặc biệt từ những đại anh hùng quốc gia như Washington. Tuy nhiên sau năm 1890, các sử gia viện dẫn qua những phương pháp nghiên cứu khoa học để chứng thực từng câu chuyện, và họ đã không tìm được bằng chứng nào trong câu chuyện do Weems thuật lại. Vào năm 1904, Joseph Rodman ghi nhận rằng Weems đã đạo văn cho các câu chuyện khác về Washington từ các câu chuyện tiểu thuyết đã được xuất bản tại Anh Quốc; không ai tìm được một nguồn thay thế nào cho câu chuyện về cây cherry nhưng sự tín nhiệm của Weems thì đáng nghi ngờ.
Các con tem tưởng niệm
Hình của George Washington được in trên tiền của Hoa Kỳ trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu. Trên tem thư Hoa Kỳ, hình của Washington được in vô số lần và trong nhiều loại khác nhau. Hình ông có trên một trong số những con tem đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành vào năm 1847 cùng với hình của Benjamin Franklin. Bắt đầu vào năm 1908, Bưu điện Hoa Kỳ phát hành trong thời gian dài nhất một loạt tem thư trong lịch sử Bưu điện Hoa Kỳ khi phát hành bộ tem "Washington-Franklin". Đây là một bộ tem thư gồm có hơn 250 con tem có hình Washington và Franklin. Hình của Washington được in trên tem thư Hoa Kỳ nhiều hơn tất cả những người Mỹ nổi tiếng khác cộng lại, kể cả Abraham Lincoln và Benjamin Franklin.
Các tượng đài và đài tưởng niệm
Ngay sau khi chiến thắng trong cuộc cách mạng Mỹ, có nhiều lời đề nghị xây đựng một tượng đài ghi công Washington. Sau khi ông mất, Quốc hội Hoa Kỳ ra lệnh xây dựng một đài tưởng niệm phù hợp tại thủ đô quốc gia nhưng quyết định này bị đảo ngược khi đảng Cộng hòa nắm kiếm soát Quốc hội vào năm 1801. Các đảng viên Cộng hòa mất tinh thần vì Washington đã trở thành biểu tượng của đảng Liên bang; hơn thế nữa, các giá trị của chủ nghĩa cộng hòa dường như không phù hợp với ý tưởng xây dựng những tượng đài dành cho những người có quyền lực. Thêm chuyện cãi vã chính trị cùng với sự chia rẽ Nam-Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã ngăn cản việc hoàn thành tượng đài Washington mãi cho đến cuối thế kỷ 19. Đến thời điểm đó, hình ảnh của Washington được xem là vị anh hùng quốc gia được cả hai miền Nam và Bắc tôn sùng nên các tượng đài của ông không còn là chuyện gây tranh cãi nữa. Trước khi có tượng đài hình tháp nằm trên National Mall vào khoảng vài thập niên trước đó, công dân của thành phố Boonsboro, Maryland đã xây dựng đài tưởng niệm công cộng đầu tiên để tưởng niệm Washington vào năm 1827.
Ngày nay, hình tượng và khuôn mặt của Washington thường được dùng như những biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ. Hình ảnh ông có mặt trên các loại tiền hiện thời trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu, và trên các loại tem thư của Hoa Kỳ. Ngoài việc hình ảnh ông có mặt trên các loại tem thư đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành năm 1847, Washington cùng với Theodore Roosevelt, Thomas Jefferson, và Lincoln, được tạc tượng trên Đài tượng niệm Núi Rushmore. Tượng đài Washington, một trong số những địa điểm nổi tiếng nhất của Mỹ, được xây để vinh danh ông. Tượng đài Quốc gia Tam điểm George Washington tại Alexandria, Virginia được xây dựng giữa năm 1922 và 1932 với đóng góp tự nguyện của tất cả 52 cơ quan điều hành địa phương của Hội Tam điểm tại Hoa Kỳ.
Nhiều nơi và nhiều thực thể đã được đặt tên Washington để vinh danh ông. Tên Washington trở thành tên của thủ đô quốc gia, Washington, D.C., một trong hai thủ đô quốc gia trên thế giới đã được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ (tên tổng thống Mỹ khác được đặt cho thủ đô của Liberia là Monrovia). Tiểu bang Washington là tiểu bang duy nhất được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ. Đại học George Washington và Đại học Washington tại St. Louis được đặt tên ông cũng như Đại học Washington và Lee đã từng đổi thành Học viện Washington khi Washington quyên tặng rất nhiều tiền cho trường này vào năm 1796. Đại học Washington tại Chestertown, Maryland (do hiến chương tiểu bang Maryland thành lập năm 1782) được Washington ủng hộ suốt cuộc đời mình bằng việc trao tặng 50 đồng tiền vàng Anh và phục vụ trong ban hội đồng đặt trách quan khách và điều hành của trường cho đến năm 1789 (khi Washington được bầu làm tổng thống). Vô số thành phố và thị trấn Mỹ có một đường phố mang tên Washington.
Quốc ấn của Liên minh miền nam Hoa Kỳ nổi bật có hình George Washington trên lưng ngựa, trong tư thế tương tự như một tượng đá hình ông tại thành phố Richmond, Virginia.
Luân Đôn có một tượng đồng Washington, đây là một trong số 22 khuôn mẫu tượng đồng giống nhau. Dựa vào bức tượng bằng cẩm thạch ban đầu do Jean Antoine Houdon điêu khắc và được đặt trong gian phòng hình tròn của Tòa Quốc hội Tiểu bang ở Richmond, Virginia, bức tượng sao chép được Thịnh vượng chung Virginia trao tặng cho người Anh năm 1921. Bức tượng này đứng trước Phòng trưng bày Quốc gia (Luân Đôn) trong Quảng trường Trafalgar.
Viết lách và tài liệu của George Washington
Việc sưu tầm và xuất bản trịnh trọng các tác phẩm viết lách và tài liệu của Washington được bắt đầu bằng tác phẩm tiền phong của Jared Sparks vào thập niên 1830 có tựa đề Life and Writings of George Washington (12 cuốn, xuất bản từ 1834–1837). The Writings of George Washington from the Original Manuscript Sources, 1745-1799 (1931–44) là một bộ sựu tập gồm có 37 cuốn do John C. Fitzpatrick biên tập. Bộ sưu tập này gồm có trên 17.000 lá thư và tài liệu và có thể tìm thấy tại đây .
Phiên bản cuối cùng in toàn chữ (không có hình ảnh) được Đại học Virginia bắt đầu xuất bản vào năm 1968, và đến nay đã có đến 52 cuốn được xuất bản và các cuốn nữa sẽ xuất bản. Bộ sưu tập này gồm có mọi thứ mà Washington viết hoặc do ông ký cùng với đa số thư từ ông nhận được. Một phần của bộ sưu tập này có tại đây.
Đời sống cá nhân
Cùng với gia đình thân thuộc của vợ ông, Martha, có nói ở trên, George Washington có quan hệ gần gũi với cháu trai và cũng là người thừa kế tên là Bushrod Washington, con trai của em trai John Augustine Washington của ông. Sau khi bác qua đời Bushrod trở thành một thẩm phán của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên mối quan hệ của George Washington với mẹ là bà Mary Ball Washington rõ ràng là có gì đó khó khăn và căng thẳng.
Khi còn là một thanh niên, Washington có mái tóc đỏ. Có một truyền thuyết dân gian cho rằng ông đội tóc giả như một kiểu thời trang vào thời đó. Sự thật Washington không có đội tóc giả; thay vào đó ông rắc phấn bột vào tóc của mình, như được thấy trong một số bức họa trong đó có bức họa nổi tiếng nhưng dở dang của họa sĩ Gilbert Stuart.
Washington bị răng của mình hành hạ suốt cả cuộc đời. Ông mất chiếc răng trưởng thành đầu tiên khi ông 22 tuổi và chỉ còn lại 1 chiếc khi ông trở thành tổng thống. John Adams tuyên bố rằng Washington mất răng vì ông dùng nó để cắn hạt Brasil nhưng các sử gia hiện đại cho rằng chính dioxide thủy ngân mà ông uống để trị bệnh như đậu mùa và sốt rét có lẽ đã góp phần vào việc làm rụng răng của ông. Ông được làm một vài bộ răng giả, bốn trong số đó do một nha sĩ có tên là John Greenwood. Không như công chúng nghĩ, các bộ răng giả này không phải làm bằng gỗ. Bộ răng được làm cho ông khi ông trở thành tổng thống là làm bằng ngà voi và ngà hà mã, giữ chặt lại bằng niềng vàng. Vấn đề của răng đã làm cho Washington thường hay đau răng nên ông phải dùng cồn thuốc phiện. Nỗi đau đớn vì chứng đau răng có thể được bộc lộ rõ ràng trong nhiều bức hình được họa khi ông vẫn còn tại chức, trong đó phải kể đến bức hình được sử dụng trên tờ giấy bạc $1 đô la Mỹ.
Vấn đề người nô lệ
Sau cái chết của cha năm 1743, cậu bé George Washington 11 tuối thừa hưởng gia tài gồm 10 người nô lệ. Vào lúc ông kết hôn với Martha Custis năm 1759, cá nhân ông làm chủ ít nhất 36 nô lệ (vợ ông thừa hưởng và mang đến Mount Vernon một số nô lệ của chồng trước quá cố, ít nhất là 85 người). Ông dùng tài sản giàu có của vợ để mua thêm đất, tăng gấp ba lần diện tích đồn điền, và thêm nhiều nô lệ để canh tác đồn điền. Năm 1774, ông trả thuế đánh trên 135 nô lệ (không tính nô lệ của vợ ông được thừa hưởng từ người chồng đầu tiên quá cố của bà). Lần mua nô lệ cuối cùng của ông là vào năm 1772 dù sau này ông có nhận một số nô lệ để trừ nợ. Washington cũng dùng những người da trắng di cư làm người giúp việc gia đính để trả nợ di dân; tháng 4 năm 1775, ông đã trả tiền thưởng để nhận lại hai người da trắng giúp việc nhà sau khi hai người này bỏ trốn.
Một sử gia tuyên bố rằng Washington ước mong những lợi ích vật chất từ việc làm chủ nô lệ và muốn cho gia đình vợ của ông có một tài sản kế thừa thịnh vượng. Trước Cách mạng Mỹ, Washington không bài tỏ vấn đề đạo đức gì về chủ nghĩa nô lệ nhưng vào năm 1786, Washington viết cho Robert Morris như sau "Không ai mong muốn chân thành hơn tôi là thấy một kế hoạch được thông qua nhằm mục đích bãi bỏ chế độ nô lệ". Năm 1778, ông viết thư cho người quản lý của ông ở đồn điền Mount Vernon rằng ông muốn "bỏ hết người da đen". Duy trì một dân số nô lệ lớn và ngày càng già tại Mount Vernon thì không có lợi ích kinh tế. Tuy nhiên Washington không thể bán những "nô lệ thừa kế" của vợ (dower slaves) một cách hợp pháp, và vì những nô lệ này đã liên-hôn với các nô lệ của chính ông nên ông cũng không thể bán nô lệ của mình với lý do nếu ông bán nô lệ của mình thì ông gián tiếp làm cho gia đình họ ly tán.
Lúc làm tổng thống, Washington đưa 7 nô lệ đến Thành phố New York năm 1789 để làm người giúp việc nhà đầu tiên cho tổng thống. Sau khi thủ đô quốc gia chuyển đến Philadelphia năm 1790, ông đưa 9 nô lệ đến làm việc trong dinh tổng thống. Lúc ông mất, có 317 nô lệ làm việc tại Mount Vernon trong số đó Washington làm chủ 123 người, 154 người là "nô lệ thừa kế" của vợ và 40 người được một người hàng xóm mướn. Dorothy Twohig cho rằng Washington đã không lên tiếng công khai chống lại chủ nghĩa nô lệ vì ông không muốn tạo sự chia rẽ trong nước cộng hòa mới thành lập bằng một vấn đề rất nhạy cảm và gây chia rẽ lúc bấy giờ.
Tôn giáo
Washington là một thành viên của Giáo hội Anh giáo, sau này gọi là Giáo hội Giám nhiệm, "có địa vị được thiết lập" tại tiểu bang Virginia (điều đó có nghĩa là tiền thuế được dùng để trả cho các vị chức sắc nhà thờ). Ông là một thành viên phục vụ trong ban điều hành Nhà thờ Christ tại Alexandria, Virginia và Nhà thờ Pohick gần nhà của ông trong đồn điền Mount Vernon cho đến khi chiến tranh bắt đầu; tuy nhiên giáo xứ này là một đơn vị của chính quyền địa phương và giáo xứ này phần lớn lo những công việc dân sự như đường sá và giảm nghèo.
Theo sử gia Paul F. Boller Jr., thực tế mà nói Washington là một người theo thuyết thần giáo tự nhiên, có niềm tin sâu rộng vào "Sự quan phòng của Trời" hay cao hơn là "Ý Trời" bắt nguồn từ một "Đấng Tối cao" kiểm soát các sự kiện của loài người và như trong thần học Calvin thì tiến trình lịch sử đi theo một mô hình trật tự hơn chỉ là sự tình cờ. Năm 1789, Washington tuyên bố rằng "Đấng sáng tạo Vũ trụ" đã tích cực can thiệp về phía Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, theo Boller, Washington chưa bao giờ tìm cách cá nhân hóa quan điểm tôn giáo của chính mình hay bày tỏ sự ái mộ nào tới khía cạnh tốt đẹp của các đoạn văn Kinh thánh. Boller cho rằng "những lời bóng gió về tôn giáo của Washington hoàn toàn thiếu chiều sâu cảm xúc" Về khía cạnh triết lý, ông say mê và chọn triếc lý Stoic của La Mã cổ đại. Triết lý này coi trọng đức hạnh và nhân bản và có thể sánh cao bằng thuyết thần giáo tự nhiên.
Trong một lá thư gởi George Mason năm 1785, Washington viết rằng ông không phải trong số những người bị cảnh báo bởi một đạo luật "bắt người ta phải trả tiền để ủng hộ tôn giáo mà họ theo" nhưng cảm thấy rằng "không khôn ngoan" để thông qua một đạo luật như thế, và mong muốn rằng nó đã chưa từng được đề nghị vì tin rằng nó sẽ làm náo động cuộc sống yên ổn của công chúng.
Washington thường tháp tùng vợ đến lễ nhà thờ; tuy nhiên, không có ghi chép nào nói về việc ông hiệp lễ (nhận lễ ban thánh thể). Ông thường hay rời lễ nhà thờ trước khi hiệp lễ — cùng với những người không hiệp lễ khác. Đến khi bị một mục sư quở trách, ông thôi không tham dự các buổi thánh lễ vào những ngày chủ nhật. Khi làm tổng thống, ông khích lệ mọi người khi ông được người ta thấy tham gia thánh lễ tại vô số các nhà thờ trong đó có các nhà thờ Trưởng lão, Quaker và Công giáo để chứng tỏ sự ủng hộ đại thể của ông cho tôn giáo. Washington nổi tiểng rộng lượng. Ông tham dự nhiều sự kiện từ thiện và tặng tiền cho các trường, các đại học và cho người nghèo. Là công dân hàng đầu của Philadelphia, Tổng thống Washington dẫn đầu trong công cuộc cung cấp từ thiện cho các quả phụ và trẻ mồ côi trong thành phố thủ đô bị dịch sốt vàng hoành hành vào năm 1793.
Michael Novak và Jana Novak cho rằng đây có thể là "ý định của Washington khi duy trì sự mơ hồ có chủ ý (và sự riêng tư cá nhân) liên quan đến nhận thức tôn giáo sâu thẳm nhất của ông, để cho mọi người Mỹ, cả thời đó và mãi sau này, có thể cảm thấy tự ý để tiếp cận ông bằng cách riêng của mình, cũng như có thể cảm thấy mình là thành viên đầy đủ của một nền cộng hòa mới, bình đẳng với mọi người khác". Họ kết luận: "Ông được dưỡng dục trong Giáo hội Giám nhiệm mà ông luôn thuộc về; và quan điểm của tôi [sic] là ông tin vào các giáo lý nền tảng của Kitô giáo như vẫn được dạy trong Giáo hội, theo cách hiểu của ông; nhưng trong đó không có một chút sự bất khoan dung hay thiếu tôn trọng nào với các niềm tin và cách thức thờ phượng của các Kitô hữu thuộc hệ phái khác."
Thành viên Hội Tam Điểm
Năm 1752 Washington được thu nhận vào Hội Tam Điểm. Trong lễ nhậm chức tổng thống năm 1789, Đại sư phụ chi hội New York đã chủ trì lễ tuyên thệ nhậm chức của ông. Ngày 18 tháng 9 năm 1793, ông đặt viên đá góc của Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ có mang dấu hiệu Đại sư phụ Hội Tam Điểm. Washington kính trọng cao độ đối với nội quy của hội và thường hay ca ngợi nó nhưng ông ít khi tham dự các buổi họp của chi hội. Ông bị lôi cuốn bởi sự tận tụy của phong trào đối với những nguyên lý khai sáng; các chi hội Mỹ không chia sẻ triển vọng chống tăng lữ mà đã khiến cho các chi hội tại châu Âu bị tai tiếng
Gia đình và quê hương
George Washington được sinh ra ở tiểu bang Virginia và là con đầu lòng của ông Augustine Washington (1694-1743) với người vợ thứ hai là bà Mary Ball Washington (1708-1789). Trước khi cưới bà Mary Ball, ông Augustine đã có bốn con với người vợ cả là bà Jane Butler, trong số đó có hai người con chết lúc còn trẻ (Lawrence và Jane) và người con đầu bị chết yểu là Butler. Ông Augustine và bà Mary Ball có với nhau 6 người con, trong đó người con gái út mất lúc 1 tuổi do bị sinh non. Như vậy, George Washington có bốn anh chị cùng cha khác mẹ và năm em ruột.
Anh chị cùng cha khác mẹ
Butler Washington (anh trai, 1716-1716)
Lawrence Washington (anh trai, 1718–1752)
Augustine Washington II (anh trai, 1720–1762)
Jane Washington (chị gái, 1722–1735)
Em ruột
Elizabeth Washington (em gái, 1733–1797)
Samuel Washington (em trai, 1734–1781)
John Augustine Washington (em trai, 1736–1787)
Charles Washington (em trai, 1738–1799)
Mildred Washington (em gái, 1739–1740)
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Ấn phẩm
Nguồn sơ cấp
Nguồn trực tuyến
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Mount Vernon của George Washington
Các bản thảo của George Washington, tập con của Founders Online trích từ Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ
In Our Time: Washington & the American Revolution, BBC Radio4 thảo luận với Carol Berkin, Simon Middleton, & Colin Bonwick (24 tháng 6 năm 2004)
Great Lives: George Washington, BBC Radio4 thảo luận với Matthew Parris, Michael Rose, & Frank Grizzard (21 tháng 10 năm 2016)
Tuyển tập về George Washington tại Thư viện Đại học Chicago
Tài nguyên về George Washington tại Thư viện Đại học Virginia
Đánh giá học thuật về Washington tại Trung tâm Miller, Đại học Virginia
Tổng thống Hoa Kỳ
Nhân vật trong Cách mạng Hoa Kỳ
Người Mỹ gốc Anh
Người Virginia
Thống tướng Hoa Kỳ
Mất năm 1799
Quân nhân Hoa Kỳ
Chết vì bệnh hệ hô hấp
Chính khách Mỹ thế kỷ 18
Thành viên Hội Tam Điểm Mỹ
Người Mỹ gốc Hà Lan
Thành viên Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ
Tướng Lục quân Hoa Kỳ
Nhà lập quốc Hoa Kỳ
|
25524
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20%C4%90%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20th%E1%BB%9Di%20Tr%E1%BA%A7n
|
Văn học Đại Việt thời Trần
|
Văn học đời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400).
Tổng quan văn học thời Trần
Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều thiên tài quân sự, tạo nên những chiến công sáng chói trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, nhân tài đời Trần không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, mà còn có rất nhiều nhân vật, nhà văn, thơ kiệt xuất trong lãnh vực văn học. Nếu thi ca và văn chương là nền tảng của tư tưởng Việt, tư tưởng từ đó được hệ thống hóa thành nhân sinh quan và triết lý Việt, thì đóng góp của đời Trần rất quan trọng trong việc phát huy một nền văn hóa thuần túy Việt Nam. Bắt nguồn từ một nhân vật gốc gác ngư dân thuyền chài, không biết gì về văn học, các triều đại nhà Trần đã để lại một nền văn học có phần vượt trội, hơn hẳn đời nhà Lý. Không những thế, dưới các triều đại này việc phổ biến chữ Nôm và Quốc ngữ thi cho ta thấy người Việt đã bắt đầu phát huy một nền văn hóa đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc.
Điều kiện phát triển
Một trong những lý do văn học đời Trần có những thành tựu tốt đẹp là do việc học được khuyến khích không ngừng qua suốt các đời vua. Năm Kiến Trung thứ tám (1232), vua Thái Tông đã cải tổ lại việc thi cử của đời Lý, mở kỳ thi Thái học sinh để tuyển mộ người hiền; năm Thiên Ứng Chính Bình thứ năm (1243) vua đặt Phạm Ứng Thần làm chức quan Thượng thư tri Quốc tử giám đề điệu, ra lệnh các con quan văn phải vào trường này học; năm Thiên Ứng Chính Bình thứ mười (1247) Thái Tông lập thêm tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa để khuyến khích thí sinh; năm Nguyên Phong thứ ba (1253) Thái Tông lập Quốc học viện để giảng dạy, truyền chiếu toàn quốc cho các học giả, khuyên nên vào Quốc học viện giảng đọc Tứ thư Ngũ kinh. Đời Nhân Tông năm Thiệu Bảo thứ ba (1281), vua lập nhà học ở phủ Thiên Trường, cử quan về giảng dạy. Đến đời Phế Đế, năm Xương Phù thứ bảy (1384) lập thư viện ở núi Lạn Kha , cử Trần Tông làm trưởng viện giảng dạy học trò, và vua Nghệ Tông thường đích thân thăm viếng. Đời Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 vua ban chiếu cấp ruộng học cho các châu phủ có lợi tức, đặt quan Đốc học dạy dỗ các học trò. Các việc trên đây cho thấy tuy trải qua nhiều tai biến binh đao, các vua nhà Trần không hề xao lãng trong việc khuyến khích sự học.
Lý do thứ hai văn học đời Trần có những thành công tốt đẹp là do từ đời Thuận Tông trở về trước, việc học chú trọng về kinh thuật, đào tạo cho người học có bản lĩnh suy luận cơ bản, không chú trọng lối học từ chương. Do đó, nhà Trần có những học giả kiệt xuất như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, và những nhà tư tưởng độc lập như Hồ Quý Ly. Có học giả bình luận rằng nhờ vậy văn học đời Trần "...có khí cốt, không ủy mị non nớt như các đời khác..."
Sự xuất hiện của thơ văn chữ Nôm
Hàn Thuyên
Trước đời Trần, văn chương Quốc ngữ nước Việt chỉ có tục ngữ, ca dao, hoặc các loại văn chương bình dân truyền khẩu . Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng tám, mùa thu năm Thiệu Bảo tứ tư đời Nhân Tông (1282) có con ngạc ngư lớn xuất hiện ở sông Phú Lương, vua sai quan Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên viết bài văn vất xuống sông đuổi cá. Con cá bỏ đi, vua xem việc nầy giống sự tích Hàn Dũ ở Trung Quốc, nên ban lệnh đổi tên họ ông thành Hàn Thuyên . Ông có biệt tài làm được thơ phú bằng chữ quốc ngữ, đặt ra Hàn luật. Theo Dương Quảng Hàm thì Hàn luật chính là Đường luật ứng dụng vào Việt ngữ, và công Hàn Thuyên rất lớn, vì nhờ có ông áp dụng vào thơ phú chữ Nôm, nhiều người bắt chước theo ông, nên nền văn chương chữ Nôm được khởi đầu từ đây . Tại Bách khoa toàn thư Việt Nam viết: Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật (kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc).
Thơ văn chữ Nôm đời Trần
Sử chép nhiều người đời Trần bắt chước Hàn Thuyên làm thơ phú quốc âm, gây thành phong trào làm thơ phú và viết văn bằng chữ Nôm . Các bài thơ văn này nay đã thất truyền, nhưng sử còn ghi lại tên một số tác giả và tác phẩm:
Hàn Thuyên viết Phi sa tập.
Nguyễn Sĩ Cố viết một số bài thơ văn chữ Nôm.
Chu Văn An viết Quốc ngữ thi tập.
Hồ Quý Ly viết Quốc ngữ thi nghĩa.
Trong Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng có ghi lại năm bài văn nôm đời Trần chép sự việc Nguyễn Biểu đi sứ, ăn cỗ đầu người, bị tướng Trương Phụ chém, như sau:
a) Bài thơ nôm vua Trần tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ.
b) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu họa lại.
c) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu viết lúc ăn cỗ đầu người.
d) Bài văn tế Nguyễn Biểu chữ nôm do Trần Trùng Quang viết.
e) Bài kệ chữ nôm của vị sư chùa Yên Quốc (nơi Nguyễn Biểu bị hành hình) khen ngợi chí khí của ông.
Các thể loại và một số tác phẩm
Tác giả và tác phẩm tiêu biểu
Trần Quốc Tuấn
Hịch tướng sĩ: Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông thấy thế giặc mạnh, cho vời ông về Hải Dương mà phán: "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân sự tàn hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?" Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn Miếu Xã Tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau hãy hàng!!" Vua nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn ('諭諸裨將檄文), thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.
Binh thư yếu lược: Do Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn soạn, đại ý ghi các điều cốt yếu từ các binh thư về việc dùng binh, giúp các tướng lãnh và quân sĩ trau dồi khả năng quân sự.
Trần Quang Khải
Tòng giá hoàn kinh (從駕還京) (còn được biết đến với các tên Tụng giá hoàn kinh sư, Tụng giá hoàn kinh sứ) do Trần Quang Khải viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ đại ý nói về cảm xúc người tướng khi theo xa giá vua trở về kinh đô khải hoàn. Hiện còn hai bản lưu truyền, một của Trần Trọng Kim , một của Ngô Tất Tố.
Phúc hưng viên (福興園) Sau khi chiến thắng quân Nguyên, Thượng tướng Trần Quang Khải về hưu lúc tuổi già và nghỉ ngơi tại tư dinh của ông, có vườn riêng tên gọi "Phúc hưng viên". Bài thơ này đại ý tả cảnh nhàn nhã thời thanh bình. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
Lưu gia độ (劉家渡) Bài thơ này đại ý tả cảnh khách qua bến đò Lưu gia, nhớ lại ngày xưa từng hộ tống xa giá vua có dừng quân nơi đây, nay non sông thái bình, trở lại chốn cũ đầu đã bạc, thấy hoa mai nở trắng xóa như tuyết bên bờ sông. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
Xuân nhật hữu cảm (春日有感) gồm hai bài thơ xuân, hiện còn hai bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài thứ nhất đại ý nói mùa xuân, một người đóng chặt cửa, ngồi nhìn mưa bụi bay trên hoa mai, nghĩ đến ba phần ngày xuân đà bỏ phí hết hai, nay năm mươi biết sức đã suy, nhưng hào khí ngày nào vẫn còn, dùng vào chi hơn là đè ngọn gió Đông mà làm một bài thơ. Bài thứ hai nói cảnh đêm xuân gần tàn, dưới bóng trăng mờ thấy hơi lành lạnh ngọn gió đưa đến, sáng ra mấy chùm bông liễu trên không bay lạc vào gác, vài cành trúc đập vào hiên như muốn quấy rầy giấc ngủ, xa xa hình như đang mưa, trong gió đưa lại hơi mát làm mọi sự tươi tỉnh. Người sực nhớ giật mình, thấy mình không còn xuân trẻ, nay chỉ có ba chén rượu giải sầu, nhưng khi say cầm vỗ lại thanh gươm thời trẻ, thấy nhớ ngọn núi xưa nơi đã tung hoành một thời.
Trần Thái Tông
Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh
Ký Thanh phong am Tăng Đức Sơn
Ngưu Mã Bạch Cốt Tinh HOang Dong Thai
Bạch MÃ Sông Toàn Trì Việt Thành Quốc Khà Ái
Trần Thánh Tông
Đề Huyền thiên động
Hạ cảnh
Trần Nhân Tông
Xuân hiểu
Nguyệt
Chu Văn An
Thất trảm sớ (bài sớ xin chém bảy quyền thần) Bài sớ này viết vào đời Dụ Tông, khi Chu Văn An làm quan trong triều và chứng kiến một số quan lại hủ bại, bèn viết sớ xin vua chém các người này. Khi vua không nghe, ông từ quan về hưu và sau đó không còn tham chính .
Trương Hán Siêu
Bạch Đằng giang phú (phú sông bạch đằng) Bài này Trương Hán Siêu tả cảnh sông Bạch Đằng, nhắc nhở công của quân dân nhà Trần đánh quân Nguyên, và khuyên hậu duệ trong nước đời sau nên biết gìn giữ giang sơn .
Linh tế tháp ký
Quan Nghiêm tự bi văn bài này ghi việc xây dựng trùng tu chùa Quan Nghiêm.
Mạc Đĩnh Chi
Ngọc tỉnh liên phú (Phú hoa sen ở giếng ngọc) Năm Hưng Long thứ hai mười hai (1304), đời Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi thi, đỗ trạng nguyên, khi vào chầu, vua thấy người ông nhỏ bé, lại xấu xí, nên không vui. Ông bèn viết bài phú hoa sen ở giếng ngọc, tự ví mình như loài hoa sen hiếm quý chỉ có người sành điệu mới biết thưởng thức. Vua xem khen hay và bổ ông làm quan .
Hồ Quý Ly
Quốc ngữ thi nghĩa sách dùng chữ quốc ngữ chua nghĩa Kinh Thi để các giáo sư dạy hậu phi và cung nhân. Sách này Hồ Quý Ly chú giải theo ý mình, không theo lời chú thích trước của Chu Tử .
Minh đạo lục sách gồm 14 thiên, nay đã thất truyền, nhưng theo sử thì có rất nhiều tư tưởng mới mẻ về học thuật: (a) về đạo thống, Hồ Quý Ly chủ trương nên tôn Chu Công làm tiên thánh, giáng Khổng Tử làm tiên sư; (b) về kinh truyện, ông cho rằng sách Luận ngữ có 4 việc đáng nghi ngờ; (c) về các danh nho người Hán, ông cho Hàn Dũ là hạng đạo nho (ăn cắp văn người khác), Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, Chu Hy, là hạng học rộng nhưng tài kém, chỉ biết răm rắp theo ý cũ. Ngô Tất Tố khi bàn về hiện tượng này cho rằng "...những điều ông ta nói (trong Minh đạo lục) chẳng những ở ta từ trước đến hồi gần đây chưa ai nghĩ tới, mà đến ở Tàu, trừ bọn Thanh nho sinh sau Quý Ly ba bốn thế kỷ, cũng chưa có ai dám nói..."
Lê Trắc
Nội phụ
Đô thành
Sử Hy Nhan
Trảm xà kiếm phú
Đại Việt sử lược
Liên kết ngoài
Khái quát Văn học Lý-Trần, Đại học Sư phạm Cần Thơ, xem tại đây:
Triết học Trần Thái Tông, của Nguyễn Đăng Thục, xem tại đây:
Chú thích
Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần (VHĐT), Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 6
Việt Nam Văn Học Sử-Yếu (VHSY), Dương Quảng Hàm, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1968, trang 232-238
Việt Điện U Linh Tập, Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa, Nhà xuất bản Khai Trí, Sàigòn, 1959, phần dẫn nhập, trang 5
VHĐT, sđd., trang 15-16
Việt Nam Sử Lược (VNSL), Trần Trọng Kim, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971 trang 124. Có sách chép là năm Thiên-ứng chính-bình thứ nhất (1238) thì mở khoa Thái học sinh (VHĐT, sđd., trang 14)
nay gọi núi Phật Tích hay núi non Tiên thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
VHĐT, sđd., trang 16
VHĐT, sđd., trang 116-17
VHĐT, sđd., trang 6-13
VHSY, Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 235
VHSY, Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 236.
VHSY, Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 237-238
VNSL, Trần Trọng Kim, sđd. trang 139
VHSY, Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 235
VHĐT, sđd., trang 6
VHĐT, sđd., trang 7
VNSL, Trần Trọng Kim, sđd. trang 147
VHĐT, sđd., trang 85-86
VHSY, Dương Quảng hàm, sđd., tr. 2, tr. 292
VHSY, Dương Quảng hàm, sđd., tr. 118, dẫn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 9, chương 7, trang 26a
VHSY, Dương Quảng hàm, sđd., tr. 119,
VHSY, Dương Quảng hàm, sđd., tr. 293,
VHSY, Dương Quảng hàm, sđd., tr. 294
Liên kết ngoài
Văn học Việt Nam thời Trần
Văn học trung đại Việt Nam
|
25528
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2ng%20gi%C3%A1%20ho%C3%A0n%20kinh
|
Tòng giá hoàn kinh
|
Tụng giá hoàn kinh sư (còn được gọi là Tòng giá hoàn kinh, giá hoàn kinh sư, Tụng giá hoàn kinh sư, có nghĩa là Phò giá về kinh) là một bài thơ do Trần Quang Khải (1241-1294) viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ này được viết theo thể thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, nói về cảm xúc một vị tướng trên đường theo xa giá vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô. Đồng thời ca ngợi đội quân nhà Trần trong việc bảo vệ non sông đất nước. Hiện còn hai bản lưu truyền, một của Trần Trọng Kim, một của Ngô Tất Tố. Bài thơ hiện đang được đưa vào chương trình sách giáo khoa lớp 7, tập một.
Thời gian
Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), sau khi đuổi quân Thoát Hoan, giải phóng kinh thành Thăng Long, Trần Quang Khải đưa hai vua Trần về lại kinh đô, theo phò giá và làm bài thơ này.
Văn bản
Nguyên văn chữ Hán
從 駕 還 京
奪 槊 章 陽 渡
擒 胡 鹹 子 關
太 平 須 努 力
萬 古 此 江 山
Phiên âm Hán-Việt:
Tụng Giá Hoàn Kinh
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Bản dịch của Ngô Tất Tố:
Bến Chương cướp giáo giặc,
Ải Hàm bắt quân Hồ.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước vẫn muôn thuở.
Bản dịch của Trinh Đường:
Cướp giáo Chương Dương đó, Bắt thù Hàm Tử đây.
Thái bình nên gắng sức,Muôn thuở nước non này.Bản dịch của Ngô Văn Phú:Bến Chương Dương cướp giáoCửa Hàm Tử bắt thùĐời thái bình gắng gỏi,Đất nước mãi muôn thu. Chú thích
"Việt Nam Sử Lược" Tập II, Trần Trọng Kim, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài Gòn, 1964, tr.147
"Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần''" Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài Gòn, 1960 tr.85-86
Liên kết ngoài
Trần Quang Khải
Bài thơ Việt Nam
Thơ chữ Hán
|
25543
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Th%C6%B0%C6%A1ng
|
Lê Thương
|
Lê Thương (1914–1996) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của bộ ba ca khúc Hòn vọng phu bất hủ.
Tiểu sử
Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục.
Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên. Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam. Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, đến năm 1943 thì chuyển về sống tại Sài Gòn. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Bình Đài (Bến Tre) rồi bị quân Pháp bắt giữ. Năm 1948, ông được trao trả tự do, nhưng do đã mất liên lạc với tổ chức nên quyết định trở lại Sài Gòn, không còn liên hệ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nữa. Từ năm 1954 đến 1975, ông công tác ở Bộ Quốc gia Giáo dục của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Ông cũng từng là giáo sư Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus - Ký vào thập niên 60, một trong những học trò của ông là nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn. Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc gia Giáo dục và là giảng viên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ.
Âm nhạc
Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong viết tân nhạc với bài "Bản đàn xuân". Ngoài "Bản đàn xuân", trong thời kỳ ở miền Bắc, Lê Thương còn sáng tác những tác phẩm khác như "Tiếng đàn đêm khuya", "Một ngày xanh", "Trên sông Dương Tử", "Thu trên đảo Kinh Châu"...
Từ khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ thơ nhiều bài như "Lời kỹ nữ" (thơ Xuân Diệu), "Lời vũ nữ" (thơ Nguyễn Hoàng Tư), "Bông hoa rừng" (thơ Thế Lữ), "Tiếng thùy dương" (tức "Ngậm ngùi" thơ Huy Cận) và "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư)...
Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng "Lòng mẹ Việt Nam" hay "Bà Tư bán hàng" nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.
Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như "Nàng Hà Tiên", "Lịch sử loài người", "Hoa thủy tiên"... Đặc biệt hơn cả là bộ ba "Hòn vọng phu", được xem như một trong những tác phẩm nổi tiếng của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản "Hoà bình 48" (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), "Làng báo Sài Gòn" (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), "Đốt hay không đốt" (châm biếm máu Hoạn Thư), "Liên Hợp Quốc"... Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên 1940. Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như "Nhớ Lào" (nhạc Lào), "Bông hoa dại" tức "Ô Đuồng Chăm Pá" (nhạc Lào), "Lòng trẻ trai" (nhạc Hoa Kỳ), "Hoa anh đào" tức "Sakura" (cổ nhạc Nhật Bản), "Màn Brúc đánh giặc" (dân ca Pháp)...
Một thời gian, Lê Thương có cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Và cùng Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản "Tuổi thơ", "Cô bán bánh", "Con mèo trèo cây cau", "Thằng bé tí hon", "Ông Nhang bà Nhang", "Truyền kỳ Việt sử", "Học sinh hành khúc"... Nổi tiếng hơn cả là bài "Thằng Cuội" thường được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, mặc dù nhiều người không biết đó là một ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương:
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe
Ở cung trăng mãi làm chi
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mợ...
Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.
Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có chín người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.
Sau 1975, ông không tham gia hoạt động văn nghệ. Vào thập niên 1990, ông bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Bản đàn xuân
Bông hoa rừng
Cô bán bánh
Con chuồn chuồn
Con cóc leo võng
Con mèo trèo cây cau
Con muỗi
Cung đàn Nam
Đàn bao tuổi rồi
Đàn tình xưa
Đốt hay không đốt
Hoa thủy tiên
Học sinh hành khúc
Hòn vọng phu 1
Hòn vọng phu 2
Hòn vọng phu 3
Làng báo Sài Gòn
Lịch sử loài người 1 - 2
Lời kỹ nữ
Lời vũ nữ
Lòng mẹ Việt Nam
Một ngày xanh
Nàng Hà Tiên
Người chơi độc huyền
Nhớ Lào
Nhớ thày xưa
Ông Nhang bà Nhang
Ông Nỉnh, ông Nang
Tâm sự ca nhân
Thằng bé tí non
Thằng Cuội
Thu trên đảo Kinh Châu
Tiếng đàn đêm khuya
Tiếng thu
Tiếng thùy dương
Trên sông Dương Tử
Truyền kỳ Việt sử
Tuổi thơ
Xuân yêu đương
Nhận xét
Ảnh hưởng
"Tôi không hẳn là một người tiền phong (của Tân nhạc Việt Nam), mà trước đó đã có những người sáng tác từ lâu. Thí dụ như anh Nguyễn Văn Tuyên, rồi thì anh Nguyễn Xuân Khoát... Nhưng mà có lẽ người làm cho tôi kích động nhất để đi làm âm nhạc thì đó là anh Lê Thương. Những dòng nhạc của anh ấy đem lại hơi thở của một giai điệu Việt Nam."
-Nhạc sĩ Văn Cao trả lời phỏng vấn
Liên kết ngoài
Lê Thương Bài viết của Trần Minh Phi trên Giai điệu xanh
Nhạc sĩ tiền chiến
Nhạc sĩ nhạc vàng
Người Hà Nội
Trường Bonnal - Ngô Quyền, Hải Phòng
Tín hữu Công giáo Việt Nam
|
25549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c%20ti%E1%BB%81n%20chi%E1%BA%BFn
|
Nhạc tiền chiến
|
Nhạc tiền chiến là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học. Ban đầu khái niệm nhạc tiền chiến (nhạc trước thời kỳ chiến tranh) dùng để chỉ dòng nhạc mới bằng tiếng Việt theo âm luật Tây phương trước khi nổ ra chiến tranh Việt - Pháp 1945 - 1954, sau này, vì lý do chính trị, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946–1954) cùng phong cách trữ tình lãng mạn, như Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Trăng Mờ Bên Suối của Lê Mộng Nguyên... và cả sau 1954 đối với một số nhạc sĩ ở miền Nam như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... Một số ca khúc trữ tình cách mạng trong chiến tranh Việt - Pháp như Lời người ra đi, Sơn nữ ca của Trần Hoàn khi lưu hành ở miền Nam cũng được gọi là "nhạc tiền chiến". Các bài tiền chiến thường theo điệu Valse, Tango, Slow Waltz, Boston, Blues, March, một số là các trường ca, hay hát theo phong cách cổ điển hoặc bán cổ điển. Trừ số rất ít, hầu hết các ca khúc tiền chiến thuộc dòng thính phòng hay nhạc nhẹ có tính chất thính phòng. Dòng nhạc trữ tình ở miền nam sau này cũng ảnh hưởng của dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow Rock, Slow Ballad, Slow Fox, trong khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng của nhạc tiền chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Văn Tuyên, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn, Cung Tiến...
Các ca khúc như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến, Thiên Thai, Trương Chi, Tình ca, Chiều về trên sông, Đêm tàn bến Ngự, Hòn vọng phu,...
Trên thực tế Tân nhạc Việt Nam trước 1945 có hai thể loại chính là tình ca và hùng ca, một số nghiêng về nhạc cổ điển, nhưng nhiều sáng tác là nhạc nhẹ, đại chúng, bên cạnh đó số ít có tính dân gian, nhưng mảng này nở rộ hơn giai đoạn sau 1945.
Bối cảnh ra đời
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam xuất hiện 1 giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam gây nên những thay đổi lớn. Nhiều giá trị tư tưởng cổ hũ mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ có tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. 1 tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình thành.
Giai cấp tư sản và 1 bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có 1 lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Nếu như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp thì những nhạc sĩ tiền chiến cũng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương
Đầu thế kỷ XX, những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours (vòng), hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn thích đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandolin, guitar hơn nữa là violon, piano để có thể làm quen với những bài hát nước ngoài mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
Những người thành công nhất trong việc sử dụng nhạc điệu Âu Mỹ để đưa ra những bài hát mới, chính là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi. Ông vừa là diễn viên, vừa là soạn giả và còn muốn là người soạn nhạc nữa cho nên ông đã sáng tác những ca khúc ngắn mà ông gọi là "bài ta theo điệu tây" và soạn ra những tiểu ca kịch (opérette) mà ông đặt tên là "hoạt kê hài hước" (opérette comique) trình diễn trên sân khấu các đoàn hát xuất xứ từ miền Nam là Trần Đắt và Phước Cương (gánh hát của Bạch Công Tử) vào khoảng 1933-1934.
Trên sân khấu các đoàn Trần Đắt và Phước Cương, ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt Nam vào lúc đó, nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm nhạc. Ông không muốn dùng các bài bản có tính chất cổ truyền như Lưu Thủy, Hành Vân trong opérette của mình. Với sự phổ biến của máy hát chạy bằng lò xo, những "bài hát theo thời" (chansons à la mode) Âu Mỹ đã bắt đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam. Những bài Pháp như J'ai Deux Amours, Quand On Est Matelot... đã được nhiều người biết đến.
Có thể nói việc làm của nghệ sĩ Tư Chơi đã thành công. Một số bài dù khởi đầu phóng tác từ một điệu Tây, về sau được coi là điệu Việt Nam hoàn toàn. Ví dụ bài Hoà duyên nằm trong nhạc mục của ngành ca kịch cải lương, ít người biết nó khởi sự là một bài ta theo điệu Tây của Tư Chơi, Huỳnh Thủ Trung.
Cùng một lúc với việc Tư Chơi tung ra trên sân khấu những "bài ta theo điệu tây", thì trong giới yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours (vòng). Các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam như Ái Liên, Kim Thoa, lại được các hãng đĩa của người Pháp Odéon, Béka mời thu thanh các bài ta theo điệu tây.
Trong năm 1935-1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... (phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto) và của Mỹ như Good bye Hawaii, South of the border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi 1 nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác.
Đã có những hội "Ái Tino" được thành lập ở Hà Nội, ở Hải Phòng... Một thanh niên có giọng hát tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt đầu cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân.
Phạm Duy gọi giai đoạn 1935-1938 là Thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam.
Tân nhạc hình thành 1938
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Cuối thập niên 1930, nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên, Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung, Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương. Nhưng các nhạc sĩ đó sáng tác và trình bày những ca khúc của mình chỉ trong phạm vi bạn bè. Nguyễn Văn Tuyên là người đầu tiên trình bày ca khúc nhạc cải cách trước công chúng và sau đó những bài hát này được phổ biến rộng rãi trên báo chí.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 Nguyễn Văn Tuyên phổ 1 bài thơ của 1 người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của ông. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với thống đốc của Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó là Pagès (có tài liệu ghi Rivoal). Thống đốc Nam Kỳ nghe Nguyễn Văn Tuyên hát và đã mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc, nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi 1 vòng Việt Nam tới các thành phố Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3/1938, Nguyễn Văn Tuyên có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp 1 cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. 1 phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó cho rằng việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn tại đó.
Tại hội Tri Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng ông đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Và lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín bấy giờ, số 121 ra ngày 31/7/1938 đã đăng bài hát đầu tiên, bài Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát lời ca của Thế Lữ, và sau đó là các bản Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc... ở các số tiếp theo.
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Đầu 1939, nhiều bản nhạc của các nhóm, nhạc sĩ được bày bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong
Nguyễn Xuân Khoát
Được xem như người anh cả trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời, ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết trình cho sự cải cách nhạc Việt, được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm Màu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ, vừa ra đời đã được hoan nghênh lớn.
Lê Thương
Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành 1 nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc, đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo Kinh Châu và Hòn vọng phu.
Văn Cao
Văn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu, Vui lên đường. Năm 1941, Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi, Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân... Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.
Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại 3 nhạc phẩm Đêm thu, Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
Phạm Duy
Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy, nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như Cây đàn bỏ quên, Tình kỵ nữ, Tiếng bước trên đường khuya hay đậm chất dân ca như Em bé quê, Tình ca, Bà mẹ quê, Gánh lúa... Phạm Duy và Văn Cao là 2 người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề, họ từng sáng tác chung các ca khúc Bến xuân, Suối mơ.
Phạm Duy là người có công đầu trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo.
Nhóm Myosotis
Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. 2 xu hướng chính của nhóm là:
Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
Từ 1938 cho tới 1942, nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
Tricéa
Nhóm Tricéa gồm 3 thành viên Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam".
Những năm khoảng 1939, nhiều ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời gian.
Đồng Vọng
Nhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ), Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng ca trong tân nhạc Việt Nam.
Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.
Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng ca trong tân nhạc Việt Nam, nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên mang tính chính trị nhiều hơn.
Tổng Hội Sinh Viên được khởi đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... đã để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1954
Từ năm 1946, có nhiều nhạc sĩ vào chiến khu và viết ca khúc kháng chiến cổ vũ Việt Minh kháng Pháp, nhưng nhiều người trong số này vẫn có những sáng tác lãng mạn như Phạm Duy với "Bên cầu biên giới", Trần Hoàn với Sơn nữ ca, Việt Lang với Tình quê hương, Tô Vũ với Em đến thăm anh một chiều mưa, Tô Hải với Nụ cười sơn cước, Nguyễn Văn Tý với Dư âm,...
Trong vùng đô thị bị Pháp tạm chiếm, cả 2 dòng nhạc yêu nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài phát thanh, trong vũ trường và các quán rượu. Năm 1950, tạp chí Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội đã xuất bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã phát thanh gồm cả những bài hát lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác dành cho những người lính kháng chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt động vào năm 1954, họ đã phát thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.
Một số bài hát được sửa lời bởi tác giả hoặc người khác để phổ biến trong vùng bị Pháp tạm chiếm, ví dụ "Sơn nữ ca" của Trần Hoàn. Bài này ông sáng tác trong thời kỳ tham gia Đoàn Nghệ thuật tuyên truyền tại vùng thâm sơn cùng cốc núi U Bò - rừng Ba Rền thuộc tỉnh Quảng Bình. "Sơn nữ" ở đây là những nữ sinh Huế tham gia kháng chiến mà ông gặp. Bài này khi phổ biến rộng rãi trong vùng tạm chiếm đã được người khác chỉnh lời, về sau bản thân tác giả cũng chấp nhận bản sửa lời.
Sau 1954 ở miền Nam
Sau năm 1954, Việt Nam chia làm hai thể chế chính trị khác nhau ở hai miền. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không muốn phổ biến, hoặc không còn sáng tác những ca khúc trữ tình lãng mạn nữa. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu, xây dựng đất nước, đấu tranh cách mạng... và được xếp vào dòng nhạc đỏ.
Một số nhạc sĩ khác di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương... hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ này trong giai đoạn 1954-1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến, có thể kể đến là "Mộng dưới hoa", trường ca "Hội trùng dương", "Đôi mắt người Sơn Tây" của Phạm Đình Chương, "Hương xưa", "Thu vàng" của Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Duy Trác, Sĩ Phú, Hà Thanh, Hoàng Oanh ("Bài Thơ Huế", "Nhớ Huế",... của Lê Mộng Nguyên).
Số phận nhạc tiền chiến sau 1975
Trong nước Việt Nam
Tại Việt Nam sau 1975, phần lớn những ca khúc tiền chiến bị cấm lưu hành. Cho tới năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ", một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó, những nhạc phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Lê Mộng Nguyên... được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi, trong đó phải kể đến sự trở lại của Ngọc Bảo, và những nỗ lực của ca sĩ Lê Dung, Ánh Tuyết.
Những năm đầu thế kỷ 21, những ca khúc đầu tiên của dòng tân nhạc vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình diễn và thu âm và một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.
Ngoài nước Việt Nam
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều ca nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa rời Việt Nam để định cư tại nhiều nước khác trên thế giới, tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại, các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Cung Tiến,... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến, nhưng dòng nhạc đó vẫn được yêu thích. Những ca sĩ đã thành danh trước 1975 như Anh Ngọc, Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao, Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà,... hay những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ,... thường xuyên trình diễn những nhạc phẩm này.
Tài liệu tham khảo
Jason Gibbs: Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long – Câu chuyện âm nhạc Việt Nam. Bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Trương Quý. (NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008)
Xem thêm
Tân nhạc Việt Nam
Nhạc đỏ
Nhạc vàng
Thời đại khúc (Trung Quốc)
Kayōkyoku (Nhật Bản)
Nguyễn Đình Toàn
Tham khảo
Tân nhạc những năm đầu - Phạm Duy
Nhạc tiền chiến: khởi đầu của ca khúc phổ thông Việt Nam - Jason Gibbs
Nhạc tiền chiến trên trang Hội Nhạc sĩ Việt Nam
Âm nhạc lãng mạn Việt Nam
Tiền chiến
|
25552
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%94%20%C4%91%C4%A9a%20c%E1%BB%A9ng
|
Ổ đĩa cứng
|
Ổ đĩa cứng, hay còn gọi là ổ cứng (tiếng Anh: Hard Disk Drive, viết tắt: HDD) là thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật liệu từ tính.
Ổ đĩa cứng là loại bộ nhớ "không thay đổi" (non-volatile), có nghĩa là chúng không bị mất dữ liệu khi ngừng cung cấp nguồn điện cho chúng.
Ổ đĩa cứng là một thiết bị rất quan trọng trong hệ thống bởi chúng chứa dữ liệu thành quả của một quá trình làm việc của những người sử dụng máy tính. Những sự hư hỏng của các thiết bị khác trong hệ thống máy tính có thể sửa chữa hoặc thay thế được, nhưng dữ liệu bị mất do yếu tố hư hỏng phần cứng của ổ đĩa cứng thường rất khó lấy lại được.
Ổ đĩa cứng là một khối duy nhất, các đĩa cứng được lắp ráp cố định trong ổ ngay từ khi sản xuất nên không thể thay thế được các "đĩa cứng" như với cách hiểu như đối với ổ đĩa mềm hoặc ổ đĩa quang.
Xem các nghĩa có tên ổ đĩa tại bài định hướng Ổ đĩa
Tổng quan
Ổ đĩa cứng (hay còn gọi là Ổ cứng) thường được biết đến như là một bộ phận của máy tính với việc lưu trữ dữ liệu cho dù chúng xuất hiện muộn hơn so với những chiếc máy tính đầu tiên.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, ổ đĩa cứng có kích thước ngày càng nhỏ đi, trong khi dung lượng thì ngày càng tăng lên. Trong quá khứ, những thiết kế đầu tiên của ổ đĩa cứng chỉ dành cho máy tính,nhưng ngày nay, ổ đĩa cứng còn được sử dụng trong các thiết bị điện tử khác như máy nghe nhạc kĩ thuật số, máy ảnh số, điện thoại di động thông minh (SmartPhone), máy quay phim kĩ thuật số, thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân.v.v...
Không chỉ tuân theo các thiết kế ban đầu, ổ đĩa cứng đã có những bước tiến công nghệ nhằm giúp lưu trữ và truy xuất dữ liệu nhanh hơn, ví dụ: sự xuất hiện của các ổ đĩa cứng lai giúp cho hệ điều hành hoạt động tối ưu hơn, giảm thời gian khởi động của hệ thống, tiết kiệm năng lượng; sự thay đổi phương thức ghi dữ liệu trên các đĩa từ làm cho dung lượng mỗi ổ đĩa cứng tăng lên đáng kể.
Lịch sử phát triển
Năm 1955
Ổ cứng đầu tiên trên thế giới có là IBM 350 Disk File được chế tạo bởi Reynold Johnson ra mắt năm 1955 cùng máy tính IBM 305. Ổ cứng này có tới 50 tấm đĩa kích thước 24" với tổng dung lượng là 5 triệu ký tự. Một đầu từ được dùng để truy nhập tất cả các tấm đĩa khiến cho tốc độ truy nhập trung bình khá thấp.
Năm 1961
Thiết bị lưu trữ dữ liệu IBM 1301 ra mắt năm 1961 bắt đầu sử dụng mỗi đầu từ cho một mặt đĩa.
Ổ đĩa đầu tiên có bộ phận lưu trữ tháo lắp được là ổ IBM 1311. Ổ này sử dụng đĩa IBM 1316 có dung lượng 2 triệu ký tự.
Năm 1973
IBM giới thiệu hệ thống đĩa 3340 "Winchester", ổ đĩa đầu tiên sử dụng kĩ thuật lắp ráp đóng hộp (sealed head/disk assembly - HDA). Kĩ sư trưởng dự án/chủ nhiệm dự án Kenneth Haughton đặt tên theo "súng trường Winchester" 30-30 sau khi một thành viên trong nhóm gọi nó là "30-30" vì các trục quay 30 MB của ổ đĩa cứng. Hầu hết các ổ đĩa hiện đại ngày nay đều sử dụng công nghệ này, và cái tên "Winchester" trở nên phổ biến khi nói về ổ đĩa cứng và dần biến mất trong thập niên 1990.
Trong một thời gian dài, ổ đĩa cứng có kích thước lớn và cồng kềnh, thích hợp với một môi trường được bảo vệ của một trung tâm dữ liệu hoặc một văn phòng lớn hơn là trong môi trường công nghiệp khắc nghiệt (vì sự mong manh), hay văn phòng nhỏ hoặc nhà riêng (vì kích cỡ quá khổ và lượng điện năng tiêu thụ). Trước thập niên 1980, hầu hết ổ đĩa cứng có các tấm đĩa cỡ 8" (20 cm) hoặc 14-inch (35 cm), cần một giá thiết bị cũng như diện tích sàn đáng kể (tiêu biểu là các ổ đĩa cứng lớn có đĩa tháo lắp được, thường được gọi là "máy giặt"), và trong nhiều trường hợp cần tới điện cao áp hoặc thậm chí điện ba pha cho những mô tơ lớn chúng dùng. Vì lý do đó, các ổ đĩa cứng không được dùng phổ biến trong máy vi tính đến tận năm 1980, khi Seagate Technology cho ra đời ổ đĩa ST-506 - ổ đĩa 5,25" đầu tiên có dung lượng 5 MB. Có một thực tế là trong cấu hình xuất xưởng, máy IBM PC (IBM 5150) không được trang bị ổ đĩa cứng.
Thập niên 1990
Đa số các ổ đĩa cứng cho máy vi tính đầu thập kỷ 1980 không bán trực tiếp cho người dùng cuối bởi nhà sản xuất mà bởi các OEM như một phần của thiết bị lớn hơn (như Corvus Disk System và Apple ProFile). Chiếc IBM PC/XT được bán ra đã có một ổ đĩa cứng lắp trong nhưng xu hướng tự cài đặt nâng cấp bắt đầu xuất hiện. Các công ty chế tạo ổ đĩa cứng bắt đầu tiếp thị với người dùng cuối bên cạnh OEM và đến giữa thập niên 1990, ổ đĩa cứng bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng bán lẻ.
Ổ đĩa lắp trong ngày càng được sử dụng nhiều trong PC trong khi các ổ đĩa lắp ngoài tiếp tục phổ biến trên máy Macintosh của hãng Apple và các nền tảng khác. Mỗi máy Mac sản xuất giữa giữa các năm 1986 và 1998 đều có một cổng SCSI phía sau khiến cho việc lắp đặt thêm phần cứng mới trở nên dễ dàng; tương tự như vậy, "toaster" (máy nướng bánh) Mac không có chỗ cho ổ đĩa cứng (hay trong Mac Plus không có chỗ lắp ổ đĩa cứng), các đời tiếp theo cũng vậy thế nên ổ SCSI lắp ngoài là có thể hiểu được. Các ổ đĩa SCSI lắp ngoài cũng phổ biến trong các máy vi tính cổ như loạt Apple II và Commodore 64, và cũng được sử dụng rộng rãi trong máy chủ cho đến tận ngày nay. Sự xuất hiện vào cuối thập niên 1990 của các chuẩn giao tiếp ngoài như USB và FireWire khiến cho ổ đĩa cứng lắp ngoài trở nên phổ biến hơn trong người dùng thông thường đặc biệt đối với những ai cần di chuyển một khối lượng lớn dữ liệu giữa hai địa điểm. Vì thế, phần lớn các ổ đĩa cứng sản xuất ra đều có trở thành lõi của các vỏ lắp ngoài.
Ngày nay
Dung lượng ổ đĩa cứng tăng trưởng theo hàm mũ với thời gian. Đối với những máy PC thế hệ đầu, ổ đĩa dung lượng 20 megabyte được coi là lớn. Cuối thập niên 1990 đã có những ổ đĩa cứng với dung lượng trên 1 gigabyte. Vào thời điểm đầu năm 2005, ổ đĩa cứng có dung lượng khiêm tốn nhất cho máy tính để bàn còn được sản xuất có dung lượng lên tới 40 gigabyte còn ổ đĩa lắp trong có dung lượng lớn nhất lên tới một nửa terabyte (500 GB), và những ổ đĩa lắp ngoài đạt xấp xỉ một terabyte. Cùng với lịch sử phát triển của PC, các họ ổ đĩa cứng lớn là MFM, RLL, ESDI, SCSI, IDE và EIDE, và mới nhất là SATA. Ổ đĩa MFM đòi hỏi mạch điều khiển phải tương thích với phần điện trên ổ đĩa cứng hay nói cách khác là ổ đĩa và mạch điều khiền phải tương thích. RLL (Run Length Limited) là một phương pháp mã hóa bit trên các tấm đĩa giúp làm tăng mật độ bit. Phần lớn các ổ đĩa RLL cần phải tương thích với bộ điều khiển nó làm việc với. ESDI là một giao diện được phát triển bởi Maxtor làm tăng tốc trao đổi thông tin giữa PC và đĩa cứng. SCSI (tên cũ là SASI dành cho Shugart (sic) Associates), viết tắt cho Small Computer System Interface, là đối thủ cạnh tranh ban đầu của ESDI. Khi giá linh kiện điện tử giảm (do nhu cầu tăng lên) các chi tiết điện tử trước kia đặt trên cạc điều khiển đã được đặt lên trên chính ổ đĩa cứng. Cải tiến này được gọi là ổ đĩa cứng tích hợp linh kiện điện tử (Integrated Drive Electronics hay IDE). Các nhà sản xuất IDE mong muốn tốc độ của IDE tiếp cận tới tốc độ của SCSI. Các ổ đĩa IDE chậm hơn do không có bộ nhớ đệm lớn như các ổ đĩa SCSI và không có khả năng ghi trực tiếp lên RAM. Các công ty chế tạo IDE đã cố gắng khắc phục khoảng cách tốc độ này bằng phương pháp đánh địa chỉ logic khối (Logical Block Addressing - LBA). Các ổ đĩa này được gọi là EIDE. Cùng lúc với sự ra đời của EIDE, các nhà sản xuất SCSI đã tiếp tục cải tiến tốc độ SCSI. Những cải tiến đó đồng thời khiến cho giá thành của giao tiếp SCSI cao thêm. Để có thể vừa nâng cao hiệu suất của EIDE vừa không làm tăng chi phí cho các linh kiện điện tử không có cách nào khác là phải thay giao diện kiểu "song song" bằng kiểu "nối tiếp", và kết quả là sự ra đời của giao diện SATA. Tuy nhiên, hiệu suất làm việc của các ổ đĩa cứng SATA thế hệ đầu và các ổ đĩa PATA không có sự khác biệt đáng kể.
Cấu tạo
Ổ đĩa cứng gồm các thành phần, bộ phận có thể liệt kê cơ bản và giải thích sơ bộ như sau:
Cụm đĩa: Bao gồm toàn bộ các đĩa, trục quay và động cơ.
Đĩa từ.
Trục quay: truyền chuyển động của đĩa từ.
Động cơ: Được gắn đồng trục với trục quay và các đĩa.
Cụm đầu đọc
Đầu đọc (head): Đầu đọc/ghi dữ liệu
Cần di chuyển đầu đọc (head arm hoặc actuator arm)
Cụm mạch điện
Mạch điều khiển: có nhiệm vụ điều khiển động cơ đồng trục, điều khiển sự di chuyển của cần di chuyển đầu đọc để đảm bảo đến đúng vị trí trên bề mặt đĩa.
Mạch xử lý dữ liệu: dùng để xử lý những dữ liệu đọc/ghi của ổ đĩa cứng.
Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer): là nơi tạm lưu dữ liệu trong quá trình đọc/ghi dữ liệu. Dữ liệu trên bộ nhớ đệm sẽ mất đi khi ổ đĩa cứng ngừng được cấp điện.
Đầu cắm nguồn cung cấp điện cho ổ đĩa cứng.
Đầu kết nối giao tiếp với máy tính.
Các cầu đấu thiết đặt (tạm dịch từ jumper) thiết đặt chế độ làm việc của ổ đĩa cứng: Lựa chọn chế độ làm việc của ổ đĩa cứng (SATA 150 hoặc SATA 300) hay thứ tự trên các kênh trên giao tiếp IDE (master hay slave hoặc tự lựa chọn), lựa chọn các thông số làm việc khác...
Vỏ đĩa cứng:
Vỏ ổ đĩa cứng gồm các phần: Phần đế chứa các linh kiện gắn trên nó, phần nắp đậy lại để bảo vệ các linh kiện bên trong.
Vỏ ổ đĩa cứng có chức năng chính nhằm định vị các linh kiện và đảm bảo độ kín khít để không cho phép bụi được lọt vào bên trong của ổ đĩa cứng.
Ngoài ra, vỏ đĩa cứng còn có tác dụng chịu đựng sự va chạm (ở mức độ thấp) để bảo vệ ổ đĩa cứng.
Do đầu từ chuyển động rất sát mặt đĩa nên nếu có bụi lọt vào trong ổ đĩa cứng cũng có thể làm xước bề mặt, mất lớp từ và hư hỏng từng phần (xuất hiện các khối hư hỏng (bad block))... Thành phần bên trong của ổ đĩa cứng là không khí có độ sạch cao, để đảm bảo áp suất cân bằng giữa môi trường bên trong và bên ngoài, trên vỏ bảo vệ có các hệ lỗ thoáng đảm bảo cản bụi và cân bằng áp suất.
Đĩa từ
Đĩa từ (platter): Đĩa thường cấu tạo bằng nhôm hoặc thủy tinh, trên bề mặt được phủ một lớp vật liệu từ tính là nơi chứa dữ liệu. Tuỳ theo hãng sản xuất mà các đĩa này được sử dụng một hoặc cả hai mặt trên và dưới. Số lượng đĩa có thể nhiều hơn một, phụ thuộc vào dung lượng và công nghệ của mỗi hãng sản xuất khác nhau.
Mỗi đĩa từ có thể sử dụng hai mặt, đĩa cứng có thể có nhiều đĩa từ, chúng gắn song song, quay đồng trục, cùng tốc độ với nhau khi hoạt động.
Track
Trên một mặt làm việc của đĩa từ chia ra nhiều vòng tròn đồng tâm thành các track.
Track có thể được hiểu đơn giản giống các rãnh ghi dữ liệu giống như các đĩa nhựa (ghi âm nhạc trước đây) nhưng sự cách biệt của các rãnh ghi này không có các gờ phân biệt và chúng là các vòng tròn đồng tâm chứ không nối tiếp nhau thành dạng xoắn trôn ốc như đĩa nhựa. Track trên ổ đĩa cứng không cố định từ khi sản xuất, chúng có thể thay đổi vị trí khi định dạng cấp thấp ổ đĩa (low format ).
Khi một ổ đĩa cứng đã hoạt động quá nhiều năm liên tục, khi kết quả kiểm tra bằng các phần mềm cho thấy xuất hiện nhiều khối hư hỏng (bad block) thì có nghĩa là phần cơ của nó đã rơ rão và làm việc không chính xác như khi mới sản xuất, lúc này thích hợp nhất là format cấp thấp cho nó để tương thích hơn với chế độ làm việc của phần cơ
Sector
Trên track chia thành những phần nhỏ bằng các đoạn hướng tâm thành các sector.
Các sector là phần nhỏ cuối cùng được chia ra để chứa dữ liệu. Theo chuẩn thông thường thì một sector chứa dung lượng 512 byte.
Số sector trên các track là khác nhau từ phần rìa đĩa vào đến vùng tâm đĩa, các ổ đĩa cứng đều chia ra hơn 10 vùng mà trong mỗi vùng có số sector/track bằng nhau.
Bảng sau cho thấy các khu vực với các thông số khác nhau và sự ảnh hưởng của chúng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ cứng Các khu vực ghi dữ liệu của ổ đĩa cứng Hitachi Travelstar 7K60 2,5".
Cylinder
Tập hợp các track cùng bán kính (cùng số hiệu trên) ở các mặt đĩa khác nhau thành các cylinder. Nói một cách chính xác hơn thì: khi đầu đọc/ghi đầu tiên làm việc tại một track nào thì tập hợp toàn bộ các track trên các bề mặt đĩa còn lại mà các đầu đọc còn lại đang làm việc tại đó gọi là cylinder (cách giải thích này chính xác hơn bởi có thể xảy ra trường hợp các đầu đọc khác nhau có khoảng cách đến tâm quay của đĩa khác nhau do quá trình chế tạo).
Trên một ổ đĩa cứng có nhiều cylinder bởi có nhiều track trên mỗi mặt đĩa từ.
Trục quay
Trục quay là trục để gắn các đĩa từ lên nó, chúng được nối trực tiếp với động cơ quay đĩa cứng. Trục quay có nhiệm vụ truyền chuyển động quay từ động cơ đến các đĩa từ.
Trục quay thường chế tạo bằng các vật liệu nhẹ (như hợp kim nhôm) và được chế tạo tuyệt đối chính xác để đảm bảo trọng tâm của chúng không được sai lệch - bởi chỉ một sự sai lệch nhỏ có thể gây nên sự rung lắc của toàn bộ đĩa cứng khi làm việc ở tốc độ cao, dẫn đến quá trình đọc/ghi không chính xác.
Đầu đọc/ghi
Đầu đọc đơn giản được cấu tạo gồm lõi ferit (trước đây là lõi sắt) và cuộn dây (giống như nam châm điện). Gần đây các công nghệ mới hơn giúp cho ổ đĩa cứng hoạt động với mật độ xít chặt hơn như: chuyển các hạt từ sắp xếp theo phương vuông góc với bề mặt đĩa nên các đầu đọc được thiết kế nhỏ gọn và phát triển theo các ứng dụng công nghệ mới.
Đầu đọc trong đĩa cứng có công dụng đọc dữ liệu dưới dạng từ hoá trên bề mặt đĩa từ hoặc từ hoá lên các mặt đĩa khi ghi dữ liệu.
Số đầu đọc ghi luôn bằng số mặt hoạt động được của các đĩa cứng, có nghĩa chúng nhỏ hơn hoặc bằng hai lần số đĩa (nhỏ hơn trong trường hợp ví dụ hai đĩa nhưng chỉ sử dụng 3 mặt).
Cần di chuyển đầu đọc/ghi
Cần di chuyển đầu đọc/ghi là các thiết bị mà đầu đọc/ghi gắn vào nó. Cần có nhiệm vụ di chuyển theo phương song song với các đĩa từ ở một khoảng cách nhất định, dịch chuyển và định vị chính xác đầu đọc tại các vị trí từ mép đĩa đến vùng phía trong của đĩa (phía trục quay).
Các cần di chuyển đầu đọc được di chuyển đồng thời với nhau do chúng được gắn chung trên một trục quay (đồng trục), có nghĩa rằng khi việc đọc/ghi dữ liệu trên bề mặt (trên và dưới nếu là loại hai mặt) ở một vị trí nào thì chúng cũng hoạt động cùng vị trí tương ứng ở các bề mặt đĩa còn lại.
Sự di chuyển cần có thể thực hiện theo hai phương thức:
Sử dụng động cơ bước để truyền chuyển động.
Sử dụng cuộn cảm để di chuyển cần bằng lực từ.
Nguyên lý hoạt động
Giao tiếp với máy tính
Toàn bộ cơ chế đọc/ghi dữ liệu chỉ được thực hiện khi máy tính (hoặc các thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) có yêu cầu truy xuất dữ liệu hoặc cần ghi dữ liệu vào ổ đĩa cứng. Việc thực hiện giao tiếp với máy tính do bo mạch của ổ đĩa cứng đảm nhiệm.
Ta biết rằng máy tính làm việc khác nhau theo từng phiên làm việc, từng nhiệm vụ mà không theo một kịch bản nào, do đó quá trình đọc và ghi dữ liệu luôn luôn xảy ra, do đó các tập tin luôn bị thay đổi, xáo trộn vị trí. Từ đó dữ liệu trên bề mặt đĩa cứng không được chứa một cách liên tục mà chúng nằm rải rác khắp nơi trên bề mặt vật lý. Một mặt khác máy tính có thể xử lý đa nhiệm (thực hiện nhiều nhiệm vụ trong cùng một thời điểm) nên cần phải truy cập đến các tập tin khác nhau ở các thư mục khác nhau.
Như vậy cơ chế đọc và ghi dữ liệu ở ổ đĩa cứng không đơn thuần thực hiện từ theo tuần tự mà chúng có thể truy cập và ghi dữ liệu ngẫu nhiên tại bất kỳ điểm nào trên bề mặt đĩa từ, đó là đặc điểm khác biệt nổi bật của ổ đĩa cứng so với các hình thức lưu trữ truy cập tuần tự (như băng từ).
Thông qua giao tiếp với máy tính, khi giải quyết một tác vụ, CPU sẽ đòi hỏi dữ liệu (nó sẽ hỏi tuần tự các bộ nhớ khác trước khi đến đĩa cứng mà thứ tự thường là cache L1-> cache L2 ->RAM) và đĩa cứng cần truy cập đến các dữ liệu chứa trên nó. Không đơn thuần như vậy CPU có thể đòi hỏi nhiều hơn một tập tin dữ liệu tại một thời điểm, khi đó sẽ xảy ra các trường hợp:
Ổ đĩa cứng chỉ đáp ứng một yêu cầu truy cập dữ liệu trong một thời điểm, các yêu cầu được đáp ứng tuần tự.
Ổ đĩa cứng đồng thời đáp ứng các yêu cầu cung cấp dữ liệu theo phương thức riêng của nó.
Trước đây đa số các ổ đĩa cứng đều thực hiện theo phương thức 1, có nghĩa là chúng chỉ truy cập từng tập tin cho CPU. Ngày nay các ổ đĩa cứng đã được tích hợp các bộ nhớ đệm (cache) cùng các công nghệ riêng của chúng (TCQ, NCQ) giúp tối ưu cho hành động truy cập dữ liệu trên bề mặt đĩa nên ổ đĩa cứng sẽ thực hiện theo phương thức thứ 2 nhằm tăng tốc độ chung cho toàn hệ thống.
Đọc và ghi dữ liệu trên bề mặt đĩa
Sự hoạt động của đĩa cứng cần thực hiện đồng thời hai chuyển động: Chuyển động quay của các đĩa và chuyển động của các đầu đọc.
Sự quay của các đĩa từ được thực hiện nhờ các động cơ gắn cùng trục (với tốc độ rất lớn: từ 3600 rpm cho đến 15.000 rpm) chúng thường được quay ổn định tại một tốc độ nhất định theo mỗi loại ổ đĩa cứng.
Khi đĩa cứng quay đều, cần di chuyển đầu đọc sẽ di chuyển đến các vị trí trên các bề mặt chứa phủ vật liệu từ theo phương bán kính của đĩa. Chuyển động này kết hợp với chuyển động quay của đĩa có thể làm đầu đọc/ghi tới bất kỳ vị trí nào trên bề mặt đĩa.
Tại các vị trí cần đọc ghi, đầu đọc/ghi có các bộ cảm biến với điện trường để đọc dữ liệu (và tương ứng: phát ra một điện trường để xoay hướng các hạt từ khi ghi dữ liệu).
Dữ liệu được ghi/đọc đồng thời trên mọi đĩa. Việc thực hiện phân bổ dữ liệu trên các đĩa được thực hiện nhờ các mạch điều khiển trên bo mạch của ổ đĩa cứng.
Các công nghệ sử dụng ổ đĩa cứng
S.M.A.R.T
S.M.A.R.T (Self-Monitoring, Analysis, and Reporting Technology) là công nghệ tự động giám sát, chẩn đoán và báo cáo các hư hỏng có thể xuất hiện của ổ đĩa cứng để thông qua BIOS, các phần mềm thông báo cho người sử dụng biết trước sự hư hỏng để có các hành động chuẩn bị đối phó (như sao chép dữ liệu dự phòng hoặc có các kế hoạch thay thế ổ đĩa cứng mới).
Trong thời gian gần đây S.M.A.R.T được coi là một tiêu chuẩn quan trọng trong ổ đĩa cứng.
S.M.A.R.T chỉ thực sự giám sát những sự thay đổi, ảnh hưởng của phần cứng đến quá trình lỗi xảy ra của ổ đĩa cứng (mà theo hãng Seagate thì sự hư hỏng trong đĩa cứng chiếm tới 60% xuất phát từ các vấn đề liên quan đến cơ khí): Chúng có thể bao gồm những sự hư hỏng theo thời gian của phần cứng: đầu đọc/ghi (mất kết nối, khoảng cách làm việc với bề mặt đĩa thay đổi), động cơ (xuống cấp, rơ rão), bo mạch của ổ đĩa (hư hỏng linh kiện hoặc làm việc sai).
S.M.A.R.T không nên được hiểu là từ "smart" bởi chúng không làm cải thiện đến tốc độ làm việc và truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng. Người sử dụng có thể bật (enable) hoặc tắt (disable) chức năng này trong BIOS (tuy nhiên không phải BIOS của hãng nào cũng hỗ trợ việc can thiệp này).
Ổ cứng lai
Ổ cứng lai (hybrid hard disk drive) là các ổ đĩa cứng thông thường được gắn thêm các phần bộ nhớ flash trên bo mạch của ổ đĩa cứng. Cụm bộ nhớ này hoạt động khác với cơ chế làm việc của bộ nhớ đệm (cache) của ổ đĩa cứng: Dữ liệu chứa trên chúng không bị mất đi khi mất điện.
Trong quá trình làm việc của ổ cứng lai, vai trò của phần bộ nhớ flash như sau:
Lưu trữ trung gian dữ liệu trước khi ghi vào đĩa cứng, chỉ khi máy tính đã đưa các dữ liệu đến một mức nhất định (tuỳ từng loại ổ cứng lai) thì ổ đĩa cứng mới tiến hành ghi dữ liệu vào các đĩa từ, điều này giúp sự vận hành của ổ đĩa cứng tối hiệu quả và tiết kiệm điện năng hơn nhờ việc không phải thường xuyên hoạt động.
Giúp tăng tốc độ giao tiếp với máy tính: Việc đọc dữ liệu từ bộ nhớ flash nhanh hơn so với việc đọc dữ liệu tại các đĩa từ.
Giúp hệ điều hành khởi động nhanh hơn nhờ việc lưu các tập tin khởi động của hệ thống lên vùng bộ nhớ flash.
Kết hợp với bộ nhớ đệm của ổ đĩa cứng tạo thành một hệ thống hoạt động hiệu quả.
Những ổ cứng lai được sản xuất hiện nay thường sử dụng bộ nhớ flash với dung lượng khiêm tốn ở 256 MB bởi chịu áp lực của vấn đề giá thành sản xuất. Do sử dụng dung lượng nhỏ như vậy nên chưa cải thiện nhiều đến việc giảm thời gian khởi động hệ điều hành, dẫn đến nhiều người sử dụng chưa cảm thấy hài lòng với chúng. Tuy nhiên người sử dụng thường khó nhận ra sự hiệu quả của chúng khi thực hiện các tác vụ thông thường hoặc việc tiết kiệm năng lượng của chúng.
Hiện tại (2007) ổ cứng lai có giá thành khá đắt (khoảng 300 USD cho dung lượng 32 GB) nên chúng mới được sử dụng trong một số loại máy tính xách tay cao cấp. Trong tương lai, các ổ cứng lai có thể tích hợp đến vài GB dung lượng bộ nhớ flash sẽ khiến sự so sánh giữa chúng với các ổ cứng truyền thống sẽ trở lên khác biệt hơn.
Thông số và đặc tính
Dung lượng
Dung lượng ổ đĩa cứng (Disk capacity) là một thông số thường được người sử dụng nghĩ đến đầu tiên, là cơ sở cho việc so sánh, đầu tư và nâng cấp. Người sử dụng luôn mong muốn sở hữu các ổ đĩa cứng có dung lượng lớn nhất có thể theo tầm chi phí của họ mà có thể không tính đến các thông số khác.
Dung lượng ổ đĩa cứng được tính bằng: (số byte/sector) × (số sector/track) × (số cylinder) × (số đầu đọc/ghi).
Dung lượng của ổ đĩa cứng tính theo các đơn vị dung lượng cơ bản thông thường: byte, kB MB, GB, TB.
Theo thói quen trong từng thời kỳ mà người ta có thể sử dụng đơn vị nào, trong thời điểm năm 2007 người người ta thường sử dụng GB. Ngày nay dung lượng ổ đĩa cứng đã đạt tầm đơn vị TB nên rất có thể trong tương lai – theo thói quen, người ta sẽ tính theo TB.
Đa số các hãng sản xuất đều tính dung lượng theo cách có lợi (theo cách tính 1 GB = 1000 MB mà thực ra phải là 1 GB = 1024 MB) nên dung lượng mà hệ điều hành (hoặc các phần mềm kiểm tra) nhận ra của ổ đĩa cứng thường thấp hơn so với dung lượng ghi trên nhãn đĩa (ví dụ ổ đĩa cứng 40 GB thường chỉ đạt khoảng 37-38 GB).
Tốc độ quay của ổ đĩa cứng
Tốc độ quay của đĩa cứng thường được ký hiệu bằng rpm (viết tắt của từ tiếng Anh: revolutions per minute) số vòng quay trong một phút.
Tốc độ quay càng cao thì ổ càng làm việc nhanh do chúng thực hiện đọc/ghi nhanh hơn, thời gian tìm kiếm thấp.
Các tốc độ quay thông dụng thường là:
3.600 rpm: Tốc độ của các ổ đĩa cứng đĩa thế hệ trước.
4.200 rpm: Thường sử dụng với các máy tính xách tay mức giá trung bình và thấp trong thời điểm 2007.
5.400 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng 3,5" sản xuất cách đây 2-3 năm; với các ổ đĩa cứng 2,5" cho các máy tính xách tay hiện nay đã chuyển sang tốc độ 5.400 rpm để đáp ứng nhu cầu đọc/ghi dữ liệu nhanh hơn.
7.200 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng sản xuất trong thời gian hiện tại (2007)
10.000 rpm, 15.000 rpm: Thường sử dụng cho các ổ đĩa cứng trong các máy tính cá nhân cao cấp, máy trạm và các máy chủ có sử dụng giao tiếp SCSI
Các thông số về thời gian trong ổ đĩa cứng
Thời gian tìm kiếm trung bình
Thời gian tìm kiếm trung bình (Average Seek Time) là khoảng thời gian trung bình (theo mili giây: ms) mà đầu đọc có thể di chuyển từ một cylinder này đến một cylinder khác ngẫu nhiên (ở vị trí xa chúng). Thời gian tìm kiếm trung bình được cung cấp bởi nhà sản xuất khi họ tiến hành hàng loạt các việc thử việc đọc/ghi ở các vị trí khác nhau rồi chia cho số lần thực hiện để có kết quả thông số cuối cùng.
Thông số này càng thấp càng tốt.
Thời gian tìm kiếm trung bình không kiểm tra bằng các phần mềm bởi các phần mềm không can thiệp được sâu đến các hoạt động của ổ đĩa cứng.
Thời gian truy cập ngẫu nhiên
Thời gian truy cập ngẫu nhiên (Random Access Time): Là khoảng thời gian trung bình để đĩa cứng tìm kiếm một dữ liệu ngẫu nhiên. Tính bằng mili giây (ms). Đây là tham số quan trọng do chúng ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc của hệ thống, do đó người sử dụng nên quan tâm đến chúng khi lựa chọn giữa các ổ đĩa cứng. Thông số này càng thấp càng tốt.
Tham số: Các ổ đĩa cứng sản xuất gần đây (2007) có thời gian truy cập ngẫu nhiên trong khoảng: 5 đến 15 ms.
Thời gian làm việc tin cậy
Thời gian làm việc tin cậy MTBF: (Mean Time Between Failures) được tính theo giờ (hay có thể hiểu một cách đơn thuần là tuổi thọ của ổ đĩa cứng). Đây là khoảng thời gian mà nhà sản xuất dự tính ổ đĩa cứng hoạt động ổn định mà sau thời gian này ổ đĩa cứng có thể sẽ xuất hiện lỗi (và không đảm bảo tin cậy).
Một số nhà sản xuất công bố ổ đĩa cứng của họ hoạt động với tốc độ 10.000 rpm với tham số: MTBF lên tới 1 triệu giờ, hoặc với ổ đĩa cứng hoạt động ở tốc độ 15.000 rpm có giá trị MTBF đến 1,4 triệu giờ thì những thông số này chỉ là kết quả của các tính toán trên lý thuyết. Hãy hình dung số năm mà nó hoạt động tin cậy (khi chia thông số MTBF cho (24 giờ/ngày × 365 ngày/năm) sẽ thấy rằng nó có thể dài hơn lịch sử của bất kỳ hãng sản xuất ổ đĩa cứng nào, do đó người sử dụng có thể không cần quan tâm đến thông số này.
Bộ nhớ đệm
Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer) trong ổ đĩa cứng cũng giống như RAM của máy tính, chúng có nhiệm vụ lưu tạm dữ liệu trong quá trình làm việc của ổ đĩa cứng.
Độ lớn của bộ nhớ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất hoạt động của ổ đĩa cứng bởi việc đọc/ghi không xảy ra tức thời (do phụ thuộc vào sự di chuyển của đầu đọc/ghi, dữ liệu được truyền tới hoặc đi) sẽ được đặt tạm trong bộ nhớ đệm.
Đơn vị thường tính bằng KB hoặc MB.
Trong thời điểm năm 2007, dung lượng bộ nhớ đệm thường là 2 hoặc 8 MB cho các loại ổ đĩa cứng dung lượng đến khoảng 160 GB, với các ổ đĩa cứng dụng lượng lớn hơn chúng thường sử dụng bộ nhớ đệm đến 16 MB hoặc cao hơn. Bộ nhớ đệm càng lớn thì càng tốt, nhưng hiệu năng chung của ổ đĩa cứng sẽ chững lại ở một giá trị bộ nhớ đệm nhất định mà từ đó bộ nhớ đệm có thể tăng lên nhưng hiệu năng không tăng đáng kể.
Hệ điều hành cũng có thể lấy một phần bộ nhớ của hệ thống (RAM) để tạo ra một bộ nhớ đệm lưu trữ dữ liệu được lấy từ ổ đĩa cứng nhằm tối ưu việc xử lý đối với các dữ liệu thường xuyên phải truy cập, đây chỉ là một cách dùng riêng của hệ điều hành mà chúng không ảnh hưởng đến cách hoạt động hoặc hiệu suất vốn có của mỗi loại ổ đĩa cứng. Có rất nhiều phần mềm cho phép tinh chỉnh các thông số này của hệ điều hành tuỳ thuộc vào sự dư thừa RAM trên hệ thống.
Chuẩn giao tiếp
Có nhiều chuẩn giao tiếp khác nhau giữa ổ đĩa cứng với hệ thống phần cứng, sự đa dạng này một phần xuất phát từ yêu cầu tốc độ đọc/ghi dữ liệu khác nhau giữa các hệ thống máy tính, phần còn lại các ổ giao tiếp nhanh có giá thành cao hơn nhiều so với các chuẩn thông dụng.
Trước đây, các chuẩn ATA và SATA thế hệ đầu tiên được sử dụng phổ biến trong máy tính cá nhân thông thường trong khi chuẩn SCSI và Fibre Channel có tốc độ cao hơn được sử dụng chủ yếu nhiều trong máy chủ và máy trạm. Gần đây, các chuẩn SATA thế hệ tiếp theo với tốc độ giao tiếp cao hơn đang được sử dụng rộng rãi trong các máy tính cá nhân sử dụng các thế hệ chipset mới.
Bảng dưới đây so sánh các chuẩn ATA thường sử dụng nhiều với ổ đĩa cứng trong thời gian gần đây.
Tốc độ truyền dữ liệu
Tốc độ của các chuẩn giao tiếp không có nghĩa là ổ đĩa cứng có thể đáp ứng đúng theo tốc độ của nó, đa phần tốc độ truyền dữ liệu trên các chuẩn giao tiếp thấp hơn so với thiết kế của nó bởi chúng gặp các rào cản trong vấn đề công nghệ chế tạo.
Các thông số sau ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng:
Tốc độ quay của đĩa từ.
Số lượng đĩa từ trong ổ đĩa cứng: bởi càng nhiều đĩa từ thì số lượng đầu đọc càng lớn, khả năng đọc/ghi của đồng thời của các đầu từ tại các mặt đĩa càng nhiều thì lượng dữ liệu đọc/ghi càng lớn hơn.
Công nghệ chế tạo: Mật độ sít chặt của các track và công nghệ ghi dữ liệu trên bề mặt đĩa (phương từ song song hoặc vuông góc với bề mặt đĩa): dẫn đến tốc độ đọc/ghi cao hơn.
Dung lượng bộ nhớ đệm: Ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu tức thời trong một thời điểm.
Bảng so sánh tốc độ giữa các vùng ở các ổ cứng khác nhau dưới đây sẽ giúp chúng ta nhận ra một số yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng.
Như vậy ta thấy rằng tốc độ truyền dữ liệu thực sự ở mức trung bình 42,27 MBps ở ổ đĩa có giao tiếp Ultra-ATA/100 (với tốc độ thiết kế truyền dữ liệu 100 MBps) chỉ gần bằng 1/2 so với tốc độ giao tiếp.
Kích thước
Kích thước của ổ đĩa cứng được chuẩn hoá tại một số kích thước để đảm bảo thay thế lắp ráp vừa với các máy tính. Kích thước ổ đĩa cứng thường được tính theo inch (")
Kích thước vỏ ngoài các loại ổ đĩa cứng:
{| class="wikitable" style="float:bottom; margin-left: 15px; font-size: 85%;"
|-
! colspan="4" | KÍCH THƯỚC VỎ CÁC Loại Ổ CỨNG
|-
! CAO!! RỘNG!! DÀI!! THỂ TÍCH
|-
! colspan="4" | Loại 5,25 Dùng trong các máy tính các thế hệ trước
|-
|<center>3,25" (82,6mm)||<center>5,75" (146,0mm)||<center>8" (203,2mm)||<center>149,5 ci (2449,9 cc)
|-
|<center>1,63" (41,3mm)||<center>5,75" (146,0mm)||<center>8" (203,2mm)||<center>74,8 ci (1224,9 cc)
|-
! colspan="4" | Loại 3,5" Thường sử dụng đối với máy tính cá nhân, máy trạm, máy chủ
|-
| <center>1,63" (41,3mm) || <center>4" (101,6mm) || <center>5,75" (146,0mm) || <center>37,4 ci (612,5 cc)
|-
|<center>1,00" (25,4mm) || <center>4" (101,6mm) || <center>5,75" (146,0mm) || <center>23,0 ci (376,9 cc)
|-
! colspan="4" | <center>Loại 2,5" Thường sử dụng đối với máy tính xách tay
|-
| <center>19,0mm (0,75") || <center>70,0mm (2,76") || <center>100,0mm (3,94") || <center>133,0 cc (8,1 ci)
|-
| <center>17,0mm (0,67") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>119,0 cc (7,3 ci)
|-
| <center>12,7mm (0,50") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>88,9 cc (5,4 ci)
|-
| <center>12,5mm (0,49") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>87,5 cc (5,3 ci)
|-
| <center>9,5mm (0,37") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>66,5 cc (4,1 ci)
|-
| <center>8,5mm (0,33") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>59,5 cc (3,6 ci)
|-
! colspan="4" | Loại 1,8" hoặc nhỏ hơn dùng trong các thiết bị kỹ thuật số cá nhân
|-
| <center>9,5mm (0,37") || <center>70,0mm (2,76") || <center>60,0mm (2,36") || <center>39,9 cc (2,4 ci)
|-
| <center>7,0mm (0,28") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>29,4 cc (1,8 ci)
|-
! colspan="4" |Loại 1,8" PC Card
|-
| <center>8,0mm (0,31")|| <center>54,0mm (2,13") || <center>78,5mm (3,09") || <center>33,9 cc (2,1 ci)
|-
| <center>5,0mm (0,20")|| <center>-nt- || <center>-nt- || <center>21,2 cc (1,3 ci)
|-
! colspan="4" |Loại 1,0" Micro Device
|-
| <center>5,0mm (0,20")|| <center>42,8mm (1,69") || <center>36,4mm (1,43")|| <center>7,8 cc (0,5 ci)
|-
|}
Sự sử dụng điện năng
Đa số các ổ đĩa cứng của máy tính cá nhân sử dụng hai loại điện áp nguồn: 5 Vdc và 12 Vdc (DC hoặc dc: Loại điện áp một chiều). Các ổ đĩa cứng cho máy tính xách tay có thể sử dụng chỉ một loại điện áp nguồn 5 Vdc. Các ổ đĩa cứng gắn trong các thiết bị số cầm tay khác có thể sử dụng các nguồn có mức điện áp thấp hơn với công suất thấp.
Điện năng cung cấp cho các ổ đĩa cứng phần lớn phục vụ cho động cơ quay các ổ đĩa, phần còn lại nhỏ hơn cung cấp cho bo mạch của ổ đĩa cứng. Tuỳ từng loại động cơ mà chúng sử dụng điện áp 12V hoặc 5 Vdc hơn (thông qua định mức tiêu thụ dòng điện của nó tại các mức điện áp này). Trên mỗi ổ đĩa cứng đều ghi rõ các thông số về dòng điện tiêu thụ của mỗi loại điện áp sử dụng để đảm bảo cho người sử dụng tính toán công suất chung.
Ổ đĩa cứng thường tiêu thụ điện năng lớn nhất tại thời điểm khởi động của hệ thống (hoặc thời điểm đĩa cứng bắt đầu hoạt động trở lại sau khi tạm nghỉ để tiết kiệm điện năng) bởi sự khởi động của động cơ đồng trục quay các đĩa từ, cũng giống như động cơ điện thông thường, dòng điện tiêu thụ đỉnh cực đại của giai đoạn này có thể gấp 3 lần công suất tiêu thụ bình thường.
Ổ cứng thông thường lấy điện trực tiếp từ nguồn máy tính, với các ổ đĩa cứng ngoài có thể sử dụng các bộ cung cấp điện riêng kèm theo hoặc chúng có thể dùng nguồn điện cung cấp qua các cổng giao tiếp USB.
Các thông số khác
Các thông số dưới đây những người sử dụng thường ít chú ý bởi chúng thường không ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất làm việc của ổ cứng. Các thông số này không nên lấy làm chỉ tiêu so sánh giữa các ổ đĩa cứng trong sự lựa chọn trong sự sử dụng thông thường.
Độ ồn
Độ ồn của ổ đĩa cứng là thông số được tính bằng dB, chúng được đo khi ổ đĩa cứng đang làm việc bình thường.
Ổ đĩa cứng với các đặc trưng hoạt động là các chuyển động cơ khí của các đĩa từ và cần di chuyển đầu đọc, do đó chúng không tránh khỏi phát tiếng ồn. Do ổ đĩa cứng thường có độ ồn thấp hơn nhiều so với bất kỳ một quạt làm mát hệ thống nào đang làm việc nên người sử dụng có thể không cần quan tâm đến thông số này.Những tiếng "lắc tắc" nhỏ phát ra trong quá trình làm việc của ổ cứng một cách không đều đặn được sinh ra bởi cần đỡ đầu đọc/ghi di chuyển và dừng đột ngột tại các vị trí cần định vị để làm việc. Âm thanh này có thể giúp người sử dụng biết được trạng thái làm việc của ổ đĩa cứng mà không cần quan sát đèn trạng thái HDD. Chu trình di chuyển
Chu trình di chuyển của cần đọc/ghi (Load/Unload cycle) được tính bằng số lần chúng khởi động từ vị trí an toàn đến vùng làm việc của bề mặt đĩa cứng và ngược lại. Thông số này chỉ một số hữu hạn những lần di chuyển mà có thể sau số lần đó ổ đĩa cứng có thể gặp lỗi hoặc hư hỏng. Sau mỗi phiên làm việc (tắt máy), các đầu từ được di chuyển đến một vị trí an toàn nằm ngoài các đĩa từ nhằm tránh sự va chạm có thể gây xước bề mặt lớp từ tính, một số ổ đĩa có thiết kế cần di chuyển đầu đọc tự động di chuyển về vị trí an toàn sau khi ngừng cấp điện đột ngột. Nhiều người sử dụng năng động có thói quen ngắt điện trong một phiên làm việc trên nền DOS (bởi không có sự tắt máy chính thống) rồi tháo ổ đĩa cứng cho các công việc khác, quá trình di chuyển có thể gây va chạm và làm xuất hiện các khối hư hỏng (bad block). Chu trình di chuyển là một thông số lớn hơn số lần khởi động máy tính (hoặc các thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) bởi trong một phiên làm việc, ổ đĩa cứng có thể được chuyển sang chế độ tạm nghỉ (stand by) để tiết kiệm điện năng nhiều lần.
Chịu đựng sốc
Chịu đựng sốc (Shock - half sine wave): Sốc (hình thức rung động theo nửa chu kỳ sóng, thường được hiểu là việc dao động từ một vị trí cân bằng đến một giá trị cực đại, sau đó lại trở lại vị trí ban đầu) nói đến khả năng chịu đựng sốc của ổ đĩa cứng khi làm việc.
Với các ổ cứng cho máy tính xách tay hoặc các thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân hay các ổ đĩa cứng ngoài thì thông số này càng cao càng tốt, với các ổ đĩa cứng gắn cho máy tính cá nhân để bàn thì thông số này ít được coi trọng khi so sánh lựa chọn giữa các loại ổ cứng bởi chúng đã được gắn cố định nên hiếm khi xảy ra sốc.
Nhiệt độ và sự thích nghi
Tất cả các thiết bị dựa trên hoạt động cơ khí đều có thể bị thay đổi thông số nếu nhiệt độ của chúng tăng lên đến một mức giới hạn nào đó (sự giãn nở theo nhiệt độ luôn là một đặc tính của kim loại), do đó cũng như nhiều thiết bị khác, nhiệt độ là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình làm việc của ổ đĩa cứng nhất là bên trong nó các chuyển động cơ khí cần tuyệt đối chính xác.
Nhiệt độ làm việc của ổ đĩa cứng thường là từ 0 cho đến 40 độ C, điều này thường phù hợp với nhiều môi trường khác nhau, tuy nhiên không chỉ có vậy: độ ẩm là yếu tố liên quan và kết hợp với môi trường tạo thành một sự phá hoại ổ đĩa cứng.
Ổ cứng thường có các lỗ (chứa bộ lọc không khí) để cân bằng áp suất với bên ngoài, do đó nếu như không khí trong môi trường chứa nhiều hơi nước, sự ngưng tụ hơi nước thành các giọt hoặc đóng băng ở đâu đó bên trong ổ đĩa cứng có thể làm hư hỏng ổ nếu ta hình dung được tốc độ quay của nó lớn thế nào và khoảng cách giữa đầu từ với bề mặt làm việc của đĩa từ nhỏ đến đâu.
Chính vì vậy trước khi đưa một ổ đĩa cứng vào làm việc lần đầu tiên (tháo bỏ vỏ nhựa bọc kín nó khi sản xuất) trong thiết bị hoặc ổ đĩa cứng đã sử dụng được đưa đến từ một môi trường khác đến một nơi làm việc mới (có nhiệt độ môi trường cao hơn), nên đặt nó vào khoang chứa trong một số thời gian nhất định trước khi kết nối các dây cấp nguồn và cáp dữ liệu để chúng làm việc.
Thời gian thích nghi đủ lớn để để đảm bảo cho:
Các giọt nước bị bay hơi hoặc các cụm băng tuyết biến thành hơi nước và cân bằng với môi trường bên ngoài.
Đảm bảo sự đồng đều về môi trường bên trong và bên ngoài của ổ đĩa cứng, tránh sự biến đổi (do nhiệt độ thay đổi đột ngột) với các thiết bị cơ khí bên trong khi nhiệt độ của ổ đĩa cứng tăng lên sau một thời gian hoạt động.
Thời gian thích nghi cần thiết: xem bảng.
Tương tự việc đưa một máy tính xách tay từ ngoài trời ở xứ lạnh vào trong phòng làm việc ấm áp cũng nên để thời gian chờ như vậy bởi trong máy tính xách tay cũng có các ổ đĩa cứng - trừ trường hợp khi ở ngoài trời (xứ lạnh) máy đang hoạt động (đảm bảo nó không bị đóng băng tuyết bên trong ổ đĩa cứng).
Với nhiệt độ theo bảng ta có thể thấy rằng khí hậu ở Việt Nam hoặc các nước gần xích đạo khác có nhiệt độ trung bình cao có lẽ ít cần có thời gian thích ứng trước khi đưa ổ đĩa cứng vào sử dụng (trừ những vùng có thể có nhiệt độ thấp và xuất hiện tuyết như Sa Pa ở Việt Nam)
Với sự làm mát ổ đĩa cứng, xem thêm phần thông tin thêm của bài.
Các số thông số về sản phẩm
Phần dưới đây giải thích một số thông số khác của các ổ đĩa cứng.
Model: Ký hiệu về kiểu sản phẩm của ổ đĩa cứng, model có thể được sử dụng chung cho một lô sản phẩm cùng loại có các đặc tính và thông số giống như nhau. Thông thường mỗi hãng có một cách ký hiệu riêng về thông số model để có thể giải thích sơ qua về một số thông số trên ổ đĩa cứng đó.
Serial number: Mã số sản phẩm, mỗi ổ đĩa cứng có một số hiệu này riêng. Thông số này thường chứa đựng thông tin đã được quy ước riêng của hãng sản xuất về thời gian sản xuất hoặc đơn thuần chỉ là thứ tự sản phẩm khi được sản xuất.
Firmware revision: Thông số về phiên bản firmware đang sử dụng hiện thời của ổ đĩa cứng. Thông số này có thể thay đổi nếu người sử dụng nâng cấp các phiên bản firmware của ổ đĩa cứng (nhưng việc nâng cấp này thường rất hiếm khi xảy ra).
Một số hãng sản xuất phần mềm có thể sử dụng các thông số trên của ổ đĩa cứng để nhận dạng tình trạng bản quyền của phần mềm trên duy nhất một máy tính, tuy nhiên cách này không được áp dụng rộng rãi do việc đăng ký phức tạp, không thuận tiện cho quá trình nâng cấp ổ đĩa cứng của người sử dụng.
Thiết đặt các chế độ hoạt động của đĩa cứng
Thiết đặt phần cứng thông qua cầu đấu
Cầu đấu (tạm dịch từ jumper) là một bộ phận nhỏ trên ổ đĩa cứng, chúng có tác dụng thiết đặt chế độ làm việc của các ổ đĩa cứng.
Thiết đặt kênh
Lựa chọn các kênh trên cable IDE: Các ổ đĩa cứng theo chuẩn giao tiếp ATA thường sử dụng hai kênh (trên cùng một cáp truyền dữ liệu), chúng có thể được đặt là kênh chính (Master) hoặc kênh phụ (Slave). Việc thiết lập chỉ đơn giản cần cắm các cầu đấu vào đúng vị trí của chúng trên các chân cắm. Về vị trí, chúng luôn được hướng dẫn trên phần nhãn hoặc viết tắt cạnh cầu đấu như sau: MA (hoặc chỉ M): Master, SL (hoặc chỉ S): Slave; CS (hoặc chỉ C): Cable select (tự động lựa chọn theo cáp truyền dữ liệu).
Để giúp ổ đĩa cứng hoạt động tốt hơn, nên chọn các ổ đĩa cứng chứa các phân vùng có cài hệ điều hành làm kênh chính, các ổ đĩa cứng vật lý có tính dùng phụ, dùng cho lưu trữ hoặc các tập tin không được truy cập thường xuyên nên đặt tại ổ phụ (slave).
Thiết đặt chuẩn giao tiếp
Một số ổ đĩa cứng sử dụng giao tiếp SATA thế hệ thứ 2 (300 MBps) có thể hoạt động phù hợp hơn với bo mạch chủ chỉ hỗ trợ giao tiếp SATA thế hệ đầu tiên (150 MBps) bằng cách đổi các cầu đấu thiết đặt. Hướng dẫn về cách đổi có thể được ghi trên nhãn đĩa hoặc chỉ có thể tìm thấy trong các phần hướng dẫn tại website của hãng sản xuất.
Thiết đặt phần mềm
Thiết đặt phần mềm ở đây là các cài đặt, phân hoạch trên các ổ đĩa cứng giúp cho ổ đĩa cứng làm việc. Trong phạm vi bài viết về Ổ đĩa cứng, các mục dưới đây được trình bày tóm lược.
Phân vùng (Partition)
Phân vùng (partition): là tập hợp các vùng ghi nhớ dữ liệu trên các cylinder gần nhau với dung lượng theo thiết đặt của người sử dụng để sử dụng cho các mục đích sử dụng khác nhau.
Sự phân chia phân vùng giúp cho ổ đĩa cứng có thể định dạng các loại tập tin khác nhau để có thể cài đặt nhiều hệ điều hành đồng thời trên cùng một ổ đĩa cứng. Ví dụ trong một ổ đĩa cứng có thể thiết lập một phân vùng có định dạng FAT/FAT32 cho hệ điều hành Windows 9X/Me và một vài phân vùng NTFS cho hệ điều hành Windows NT/2000/XP/Vista với lợi thế về bảo mật trong định dạng loại này (mặc dù các hệ điều hành này có thể sử dụng các định dạng cũ hơn).
Phân chia phân vùng không phải là điều bắt buộc đối với các ổ đĩa cứng để nó làm việc (một vài hãng sản xuất máy tính cá nhân nguyên chiếc chỉ thiết đặt một phân vùng duy nhất khi cài sẵn các hệ điều hành vào máy tính khi bán ra), chúng chỉ giúp cho người sử dụng có thể cài đặt đồng thời nhiều hệ điều hành trên cùng một máy tính hoặc giúp việc quản lý các nội dung, lưu trữ, phân loại dữ liệu được thuận tiện và tối ưu hơn, tránh sự phân mảnh của các tập tin.
Những lời khuyên dưới đây giúp sử dụng ổ đĩa cứng một cách tối ưu hơn:
Phân vùng chứa hệ điều hành chính: Thường nên thiết lập phân vùng chứa hệ điều hành tại các vùng chứa phía ngoài rìa của đĩa từ (outer zone) bởi vùng này có tốc độ đọc/ghi cao hơn, dẫn đến sự khởi động hệ điều hành và các phần mềm khởi động và làm việc được nhanh hơn. Phân vùng này thường được gán tên là C .
Phân vùng chứa hệ điều hành không nên chứa các dữ liệu quan trọng bởi chúng dễ bị virus tấn công (hơn các phân vùng khác), việc sửa chữa khắc phục sự cố nếu không thận trọng có thể làm mất toàn bộ dữ liệu tại phân vùng này.
Phân vùng chứa dữ liệu thường xuyên truy cập hoặc thay đổi: Những tập tin đa phương tiện (multimedia) nếu thường xuyên được truy cập hoặc các dữ liệu làm việc khác nên đặt tại phân vùng thứ hai ngay sau phân vùng chứa hệ điều hành. Sau khi quy hoạch, nên thường xuyên thực thi tác vụ chống phân mảnh tập tin trên phân vùng này.
Phân vùng chứa dữ liệu ít truy cập hoặc ít bị sửa đổi: Nên đặt riêng một phân vùng chứa các dữ liệu ít truy cập hoặc bị thay đổi như các bộ cài đặt phần mềm. Phân vùng này nên đặt sau cùng, tương ứng với vị trí của nó ở gần khu vực tâm của đĩa (inner zone).
Có nhiều phần mềm có thể sử dụng để quy hoạch các phân vùng đĩa cứng: fdisk trong DOS, Disk Management của Windows (2000, XP) và một số phần mềm của các hãng khác, nhưng có thể chúng chỉ đơn thuần là tạo ra các phân vùng, xoá các phân vùng mà không thay đổi kích thước phân vùng đang tồn tại, chúng thường làm mất dữ liệu trên phân vùng thao tác. Partition Magic (hiện tại của hãng Symantec) thường được nhiều người sử dụng bởi tính năng mạnh mẽ, giao diện thân thiện (sử dụng chuột, giống các phần mềm trong môi trường 32 bit) và đặc biệt là không làm mất dữ liệu khi thao tác với các phân vùng
Định dạng của phân vùng
Lựa chọn định dạng các phân vùng là hành động tiếp sau khi quy hoạch phân vùng ổ đĩa cứng.
Tuỳ thuộc vào các hệ điều hành sử dụng mà cần lựa chọn các kiểu định dạng sử dụng trên ổ đĩa cứng. Một số định dạng sử dụng trong các hệ điều hành họ Windows có thể là:
FAT (File Allocation Table): Chuẩn hỗ trợ DOS và các hệ điều hành họ Windows 9X/Me (và các hệ điều hành sau). Phân vùng FAT hỗ trợ độ dài tên 11 ký tự (8 ký tự tên và 3 ký tự mở rộng) trong DOS hoặc 255 ký tự trong các hệ điều hành 32 bit như Windows 9X/Me. FAT có thể sử dụng 12 hoặc 16 bit, dung lượng tối đa một phân vùng FAT chỉ đến 2 GB dữ liệu.
FAT32 (File Allocation Table, 32-bit): Tương tự như FAT, nhưng nó được hỗ trợ bắt đầu từ hệ điều hành Windows 95 OSR2 và toàn bộ các hệ điều hành sau này. Dung lượng tối đa của một phân vùng FAT32 có thể lên tới 2 TB (2.048 GB).
NTFS (Windows New Tech File System): Được hỗ trợ bắt đầu từ các hệ điều hành họ NT/2000/XP/Vista. Một phân vùng NTFS có thể có dung lượng tối đa đến 16 exabytes.
exFAT (extended File Allocation Table): được thiết kế đặc biệt cho các ổ flash USB.
Không chỉ có thế, các hệ điều hành họ Linux sử dụng các loại định dạng tập tin riêng.
Format
Format là sự định dạng các vùng ghi dữ liệu của ổ đĩa cứng. Tuỳ theo từng yêu cầu mà có thể thực hiện sự định dạng này ở các thể loại cấp thấp hay sự định dạng thông thường.
Format cấp thấp
Format cấp thấp (low-level format) là sự định dạng lại các track, sector, cylinder (bao gồm cả các ‘khu vực" đã trình bày trong phần sector). Format cấp thấp thường được các hãng sản xuất thực hiện lần đầu tiên trước khi xuất xưởng các ổ đĩa cứng. Người sử dụng chỉ nên dùng các phần mềm của chính hãng sản xuất để format cấp thấp (cũng có các phần mềm của hãng khác nhưng có thể các phần mềm này không nhận biết đúng các thông số của ổ đĩa cứng khi tiến hành định dạng lại).
Khi các ổ cứng đã làm việc nhiều năm liên tục hoặc có các khối hư hỏng xuất hiện nhiều, điều này có hai khả năng: sự lão hoá tổng thể hoặc sự rơ rão của các phần cơ khí bên trong ổ đĩa cứng. Cả hai trường hợp này đều dẫn đến một sự không đáng tin cậy khi lưu trữ dữ liệu quan trọng trên nó, do đó việc định dạng cấp thấp có thể kéo dài thêm một chút thời gian làm việc của ổ đĩa cứng để lưu các dữ liệu không mấy quan trọng. Format cấp thấp giúp cho sự đọc/ghi trên các track đang bị lệch lạc trở thành phù hợp hơn khi các track đó được định dạng lại (có thể hiểu đơn giản rằng nếu đầu đọc/ghi bắt đầu làm việc dịch về một biên phía nào đó của track thì sau khi format cấp thấp các đầu đọc/ghi sẽ làm việc tại tâm của các track mới).
Không nên lạm dụng format cấp thấp nếu như ổ đĩa cứng của bạn đang hoạt động bình thường bởi sự định dạng lại này có thể mang lại sự rủi ro: Sự thao tác sai của người dùng, các vấn đề xử lý trong bo mạch của ổ đĩa cứng. Nếu như một ổ đĩa cứng xuất hiện một vài khối hư hỏng thì người sử dụng nên dùng các phần mềm che giấu nó bởi đó không chắc đã do sự hoạt động rơ rão của phần cứng.
Một người viết bài này đã sử dụng một ổ đĩa cứng từ những năm 1995 cho đến nay nhưng chưa thấy có hiện tượng rơ rão cơ khí như nhắc đến trong bài.
Format thông thường
Định dạng mức cao (high-level format) là các hình thức format thông thường mà đa phần người sử dụng đã từng thực hiện (chúng chỉ được gọi tên như vậy để phân biệt với format cấp thấp) bởi các lệnh sẵn có trong các hệ điều hành (DOS hoặc Windows), hình thức format này có thể có hai dạng:
Format nhanh (quick): Đơn thuần là xoá vị trí lưu trữ các ký tự đầu tiên để hệ điều hành hoặc các phần mềm có thể ghi đè dữ liệu mới lên các dữ liệu cũ. Nếu muốn format nhanh: sử dụng tham số " /q" với lệnh trong DOS hoặc chọn "quick format" trong hộp lựa chọn của lệnh ở hệ điều hành Windows.
Format thông thường. Xoá bỏ các dữ liệu cũ và đồng thời kiểm tra phát hiện khối hư hỏng (bad block), đánh dấu chúng để chúng không còn được vô tình sử dụng đến trong các phiên làm việc sắp tới (nếu không có sự đánh dấu này, hệ điều hành sẽ ghi dữ liệu vào khối hư hỏng mà nó không báo lỗi - tuy nhiên khi đọc lại dữ liệu đã ghi đó mới là vấn đề nghiêm trọng).Đối với bộ nhớ Flash thì cũng không nên format nhiều dễ làm hỏng ổ đĩa.
Tham số khi format
Ở dạng format cấp thấp, các thông số thiết đặt phần nhiều do phần mềm của hãng sản xuất xác nhận khi bạn nhập vào các thông số nhìn thấy được trên ổ đĩa cứng (Model, serial number...) nên các thông số này cần tuyệt đối chính xác nhằm tránh sự thất bại khi tiến hành.
Ở dạng format thông thường, nếu là hình thức format nhanh (quick) thì các thông số được giữ nguyên như lần format gần nhất, còn lại có một thông số mà người tiến hành format cần cân nhắc lựa chọn là kích thước đơn vị (nhỏ nhất) của định dạng là cluster (trong Windows XP mục Allocation unit size trong hộp thoại lựa chọn format).
Kích thước cluster có thể lựa chọn bắt đầu từ 512 byte bởi không thể nhỏ hơn kích thước chứa dữ liệu của một sector (với kích thước một sector thông dụng nhất là 512 byte). Các kích thước còn lại có thể là: 1024, 2048, 4096 với quy định giới hạn của từng loại định dạng (FAT/FAT32 hay NTFS).
Sự lựa chọn quan trọng nhất là phân vùng cần định dạng sử dụng chủ yếu để chứa các tập tin có kích thước như thế nào. Để hiểu hơn về lựa chọn, xin xem một ví dụ sau: Nếu lưu một tập tin text chỉ có dung lượng 1 byte (bạn hãy thử tạo một tập tin text và đánh 1 ký tự vào đó) thì trên ổ đĩa cứng sẽ phải dùng đến ít nhất 512 byte để chứa tập tin này với việc lựa chọn kích thước đơn vị là 512 byte, còn nếu lựa chọn cluster bằng 4096 byte thì kích thước lãng phí sẽ là 4096 - 1 = 4095 byte.
Nếu như lựa chọn kích thước cluster có kích thước khá nhỏ thì các bảng FAT hoặc các tập tin MFT (Master File Table) trong định dạng NTFS lại trở lên lớn hơn.
Như vậy ta nhận thấy: Nếu ổ đĩa cứng sử dụng cho các tập tin do các phần mềm văn phòng thường ngày (Winword, bảng tính excel...), nên chọn kích thước nhỏ: 1024 hoặc 2048 byte. Nếu chứa các tập tin là dạng các bộ cài đặt phần mềm hoặc các tập tin video, nên chọn kích thước này lớn hơn. Đặc biệt ở các ổ cứng nhỏ dành cho thiết bị di động thì sự lựa chọn thường là 512 byte (đây cũng thường là lựa chọn khi format các loại thẻ nhớ).
Windows có thể cho bạn biết một tập tin kích thước thực (size) của nó và kích thước chứa trên đĩa (size on disk) của nó bằng cách bấm chuột phải và chọn Properties. Điều này giúp bạn có thể nhận ra sự lãng phí đã nêu
Phần mềm Partition Magic của Symantec có thể so sánh việc lựa chọn kích thước các cluster trên một phân vùng tồn tại dữ liệu.
Ứng dụng
Ổ đĩa cứng được sử dụng chủ yếu trên các máy tính như: máy tính cá nhân, máy tính xách tay, máy chủ, máy trạm…
Với các thiết bị lưu trữ dữ liệu chuyên dụng như: các thiết bị sao lưu dữ liệu tự động hoặc các thiết bị sao lưu dữ liệu dùng cho văn phòng/cá nhân bán trên thị trường hiện nay đều sử dụng các ổ đĩa cứng. Khi ổ đĩa cứng có dung lượng ngày càng lớn, chi phí tính theo mỗi GB dữ liệu rẻ đi khiến chúng hoàn toàn có thể thay thế các hệ thống sao lưu dữ liệu dự phòng trước đây như: băng từ (mà ưu điểm nổi bật của chúng là chi phí cho mỗi GB thấp).
Ngày nay, một số hãng sản xuất ổ đĩa cứng đã có thể chế tạo các đĩa cứng rất nhỏ. Các ổ đĩa cứng nhỏ này có thể được sử dụng thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân, thiết bị cầm tay, điện thoại di động, máy ảnh số, máy nghe nhạc cá nhân, tai nghe không dây, máy quay phim kỹ thuật số (thay cho băng từ và đĩa quang với ưu thế về tốc độ ghi và sự soạn thảo hiệu ứng tức thời)...
Những thiết bị gia dụng mới xuất hiện đáp ứng nhu cầu của con người cũng được sử dụng các ổ đĩa cứng như: Thiết bị ghi lại các chương trình ti vi cho phép người sử dụng không bỏ sót một kênh yêu thích nào bởi chúng ghi lại một kênh thứ hai trong khi người sử dụng xem kênh thứ nhất, hoặc đặt lịch trình ghi lại khi vắng nhà.
Một số thông tin và ghi chú trong bài
Nhiều người sử dụng thường gọi ổ C, ổ D…nhưng thực chất chúng chỉ là các phân vùng (partition) trong ổ đĩa cứng để tiện cho việc phân chia khu vực lưu trữ dữ liệu theo các mục đích riêng. Cách hiểu này nhiều khi được sử dụng ở các bài viết chính thống, tuy nhiên ở các bài viết cẩn thận, người truyền đạt thường sử dụng từ "ổ vật lý" để nói đến toàn bộ khối ổ đĩa cứng, nhằm tránh sự hiểu nhầm đến các "ổ luận lý".
Một số người sử dụng đã làm mát ổ đĩa cứng bằng cách gắn các quạt làm mát thổi trực tiếp vào bo mạch của chúng (thổi từ dưới lên, có một số nơi lại bán sẵn các vỉ làm mát kiểu này), điều này hoàn toàn không cần thiết bởi bo mạch của ổ đĩa thường không tiêu thụ công suất quá lớn khiến các linh kiện của chúng nóng lên và bo mạch được làm mát không thể hấp thụ nhiệt từ các đĩa từ, động cơ của ổ đĩa cứng. Mặt khác điều này còn làm cho bo mạch chứa nhiều bụi sau một thời gian làm việc, chúng có thể trở thành môi trường dẫn điện nếu thời tiết trở nên ẩm thấp. Cách tốt để tản nhiệt ổ đĩa cứng là thổi không khí vào chúng từ phía trên hoặc phía ngang. Một số vỏ máy tính đã thiết kế quạt làm mát thổi song song với ổ đĩa cứng lấy gió từ phía mặt trước của thùng máy.
Trong quá trình làm việc, hệ điều hành hoặc các phần mềm kiểm tra đĩa cứng, nếu chúng đọc và ghi dữ liệu tại một vị trí nào đó không thành công trong vài lần, chúng sẽ đánh dấu "khối hư hỏng" vào đó nhằm tránh sự ghi dữ liệu tiếp theo vào vị trí này. Nhiều trường hợp bởi một lý do khác mà hệ điều hành có thể đánh dấu sai.
Các hãng sản xuất
Có rất nhiều hãng, công ty sản xuất ổ đĩa cứng, có thể kể đến một số thương hiệu như sau (sắp xếp ngẫu nhiên không theo quy luật):
IBM, Seagate, Hitachi, Western Digital.
Xem thêm
Ổ đĩa mềm
Ổ USB
Ổ SSD
Tham khảo
Cấu trúc máy tính và thiết bị ngoại vi. Nguyễn Nam Trung. Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật 2000
Upgrading and Repairing Pcs, 17th Edition. Scott Mueller .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Video minh hoạ về công nghệ ghi dữ liệu trên ổ đĩa cứng (phương ghi: vuông góc vs song song)
Thiết bị lưu trữ máy tính
Thiết bị ngoại vi máy tính
Phát minh của Hoa Kỳ
Lưu trữ dữ liệu máy tính
Phát minh thế kỷ 20
Phương tiện lưu trữ máy tính
|
25562
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20C%C3%BAp%20Qu%E1%BB%91c%20gia
|
Giải bóng đá Cúp Quốc gia
|
Giải bóng đá Cúp Quốc gia Việt Nam (), thường được biết đến với tên ngắn gọn hơn là Cúp Quốc gia, là giải bóng đá hàng năm cho các đội bóng đá chuyên nghiệp của Việt Nam. Giải đấu ra đời vào năm 1992 với đội đoạt chức vô địch đầu tiên là Cảng Sài Gòn.
Các câu lạc bộ tham dự giải sẽ là các câu lạc bộ thi đấu tại V.League 1 và V.League 2. Thể thức bốc thăm chia cặp và đấu loại trực tiếp, tùy thứ hạng mùa giải liền trước đó và số lượng đội bóng tham dự mùa bóng hiện tại để xác định số vòng đấu cũng như vòng đấu phải tham gia của các đội. Từ năm 2020, đội đoạt chức vô địch Cúp Quốc gia cùng á quân V.League 1 sẽ đại diện cho bóng đá Việt Nam tham dự AFC Cup. Đội vô địch Cúp Quốc gia cũng sẽ tham dự trận tranh Siêu cúp Quốc gia cùng với đội vô địch V.League 1.
Tính đến năm 2023, Sông Lam Nghệ An, Becamex Bình Dương và Hà Nội là những đội bóng có nhiều lần đoạt Cúp Quốc gia nhất với 3 danh hiệu mỗi đội.
Thể thức thi đấu
Các câu lạc bộ được bốc thăm theo cặp, thi đấu theo thể thức loại trực tiếp một trận. Sau khi kết thúc 90 phút thi đấu chính thức, nếu tỷ số hoà, 2 đội sẽ thi đấu loạt sút luân lưu 11m để xác định đội thắng, tương tự như Cúp FA tại Anh.
Với các trận đấu giữa câu lạc bộ từ V.League 1 và câu lạc bộ từ V.League 2 thì câu lạc bộ từ V.League 1 không được sử dụng cầu thủ ngoại.
Phân loại giải đấu (mùa giải 2023)
Lịch sử
Giải đấu được Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức lần đầu vào năm 1992, dành cho tất cả các đội bóng trong hệ thống thi đấu của bóng đá Việt Nam. Cảng Sài Gòn là chủ nhân của chiếc Cúp Quốc gia đầu tiên sau khi thắng Thể Công trong loạt sút luân lưu ở sân Thống Nhất. Cũng tại đây, Cảng Sài Gòn còn giành chiếc cúp này một lần nữa vào năm 2000. Năm 2004, Cúp Quốc gia được giới hạn lại cho các câu lạc bộ chuyên nghiệp và hạng Nhất.
Có tổng cộng 16 nhà vô địch trong lịch sử của giải đấu. Đó là Cảng Sài Gòn, SHB Đà Nẵng, Bình Định, Công an Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Câu lạc bộ Hải Quan (2 lần), Đồng Tâm Long An, Hà Nội ACB, Nam Định, Sài Gòn Xuân Thành, Hòa Phát Hà Nội, Navibank Sài Gòn, Xi măng The Vissal Ninh Bình, Câu lạc bộ bóng đá Đông Á Thanh Hoá (1 lần), và 3 đội có thành tích tốt nhất là Sông Lam Nghệ An, Hà Nội và Becamex Bình Dương (mỗi đội 3 lần).
Các trận chung kết
2023
2022
2021
2020
2019
2018
2017
2016
2015
2014
2013
2012
2011
2010
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2001–2002
2000–2001
1999–2000
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
Các câu lạc bộ đạt ít nhất hạng ba
Các nhà tài trợ
Danh sách nhà tài trợ của Cúp Quốc gia.
Tham khảo
Xem thêm
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia
Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải Hạng nhất Quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá Hạng nhất Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam
Giải bóng đá Cúp Quốc gia - Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam
Siêu Cúp quốc gia - Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải đấu bóng đá tại Việt Nam
Việt Nam
Việt Nam năm 1992
Sự kiện thể thao định kỳ thành lập năm 1992
|
25568
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20s%E1%BB%91%20gi%C3%A3n%20n%E1%BB%9F%20nhi%E1%BB%87t
|
Hệ số giãn nở nhiệt
|
Trong khoa học vật liệu, hệ số giãn nở nhiệt của một vật liệu là một đại lượng vật lý đặc trưng cho sự thay đổi kích thước của vật liệu đó khi nhiệt độ thay đổi. Có một vài định nghĩa cụ thể cho hệ số giãn nở nhiệt:
hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính
hệ số giãn nở nhiệt thể tích (hay hệ số giãn nở nhiệt toàn phần, hay nhiều khi ngắn gọn là hệ số giãn nở nhiệt)
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần có thể được đo cho mọi vật liệu ở các trạng thái rắn, lỏng, khí khác nhau; trong khi hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính chỉ đo được cho vật liệu rắn.
Với đa số vật liệu, khi áp suất không đổi, thể tích hay kích thước của vật liệu tăng khi nhiệt độ tăng.
Sự giãn nở hay co lại của vật liệu khi nhiệt độ thay đổi cần được quan tâm khi thiết kế các hệ thống lớn liên kết nhiều vật liệu khác nhau, khi dùng thước đo khoảng cách, khi thiết kế hệ thống hoạt động trong dải nhiệt độ rộng,...
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần được định nghĩa bởi (Incropera, 2001 p537)
với ρ là mật độ, T là nhiệt độ, V là thể tích, các đạo hàm được tính khi áp suất P không đổi. Như vậy β là tỷ lệ thay đổi của mật độ khi nhiệt độ tăng và áp suất không đổi.
Đối với vật liệu tinh thể sự giãn nở nhiệt chỉ xảy ra khi trường lực không biến đổi theo hàm bậc hai.
Hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính
Hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính tỷ lệ thay đổi độ dài dọc theo một chiều của một thanh vật liệu rắn cho mỗi độ thay đổi của nhiệt độ:
với L là chiều dài của thanh theo chiều đã định.
Với vật liệu đẳng hướng, hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính xấp xỉ bằng 1/3 hệ số giãn nở nhiệt thể tích.
Tham khảo
Incropera, F. P., DeWitt, D. P., Fundamentals of Heat and Mass Transfer, Wiley, 5th Edition, 9 tháng 8 năm 2001, ISBN 0471386502
Khoa học vật liệu
Nhiệt động lực học
Đại lượng vật lý
cs:Teplotní roztažnost#Teplotní délková roztažnost
en:Thermal expansion#Coefficient of thermal expansion
fi:Lämpölaajeneminen#Lineaarinen lämpölaajenemiskerroin
|
25573
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20lu%E1%BA%ADt%20Newton%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Định luật Newton (định hướng)
|
Có nhiều định luật vật lý mang tên nhà khoa học Isaac Newton:
Định luật cơ học Newton
Định luật 1 Newton
Định luật 2 Newton
Định luật 3 Newton
Định luật vạn vật hấp dẫn Newton
Định luật Newton cho chất lưu
Isaac Newton
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.